Quantcast
Channel: What goes around comes around..
Viewing all 110 articles
Browse latest View live

Người Con Gái Ngồi Đợi Một Chuyến Tàu Về - truyện dài cuối cùng của Duyên Anh trước 1975

$
0
0
Displaying FullSizeRender.jpg

Truyện dài còn dang dở của DUYÊN ANH – có lẽ, lần đầu tiên xuất hiện “đầy đủ” trên cõi thế – nơi tôi, như một tưởng nhớ 20 năm ngày mất của một người đã dựng bày thiên đường – thiên đường tuổi nhỏ/ thiên đường mộng tưởng / thiên đường của những viễn du vào lòng thiện, đi đến những vùng đất hứa nơi “nước mắt” biết “rơi khi tình ra đời”, nơi “đời người chỉ có một lần để cô gái nghe cậu trai nói trong cơn mê xúc động Cám Ơn Em Đã Yêu Anh” / thiên đường của những van lơn nhỏ nhoi “xin cho em một chiếc áo như mây trời”…

Do một cơ duyên chưa biết vì sao có (hoặc có chăng đến từ Luật Của Thỏi Nam Châm Tâm Trí – Law of Attraction ?!? – “J’ai fait la magique élude/ Du bonheur, qu’aucun n’élude - Ai nghĩ về hạnh phúc/ Sẽ đạt nguồn diễm phúc” (Arthur Rimbaud) – và những cơ duyên đẹp diệu kỳ này là một làm bằng xác tín trong tôi về một phép màu có thật của cuộc sống - rải rác trong gần 10 năm, những gương mặt thiếu nữ với đôi mắt xoe tròn, ngậm một nhánh cỏ hay một cành hoa...lãng đãng và bâng quơ nhìn vào cuộc sống, trao đi một trìu mến , du người đến một nỗi “ Bàng hoàng gặp lại ngày xưa tuyệt vời/ Ru ta sáng thế, ru người yêu nhau “ (Ru ta, ru người – Duyên Anh) …. từng số báo, ngẫu nhiên xô dạt vào đời tôi, để cuối cùng tròn vẹn những số báo theo thứ tự - như những cánh rong trôi dạt về miền tôi…từ một miên viễn xa ngái nào đó… trôi về và neo tặng những cơn mộng đẹp…

"Mộng này là thần tiên? Mộng này là quyến luyến" (TCS) ... Một cơn mộng đẹp, một cơn mộng vô cùng cần kíp, khi "đời sống đã mang đi hết những câu kinh trinh bạch mà không phải lúc nào, giờ nào, thời nào cũng thổ lộ cùng nhau được"(TCS)... Tuổi Ngọc & Duyên Anh, thời ấy, năm ấy…, với “Thi ca trong sữa lúa/ Tiểu thuyết trên lụa đào”... hơn bốn thập niên sau, vẫn như đang cùng tâm tình, đang cùng gióng giã lên những hồi kinh tình yêu, tình thân, tình quê...

NGƯỜI CON GÁI NGỒI ĐỢI MỘT CHUYẾN TÀU… truyện dài mà tác giả Duyên Anh xác quyết không còn là “những truyện tình mộng tưởng quen thuộc bấy lâu” mà là một dựng bày như một “phản kháng đích thực” hòng “níu giữ ít nhiều mơ mộng của tuổi trẻ trong thời chiến”…

Nhưng rồi…(bất chấp cho những lạc quan của Duyên Anh ước vọng về “khởi hành từ bóng tối” và “hy vọng sẽ bình minh ở hoàng hôn” trong một bức Thư Toà Soạn trước đó 1 tháng...)

Người con gái ấy đã mù khơi, chuyến tàu đã không bao giờ tới…thiên đường cũng đã lỡ …với số báo áp cuối (số 156)  (tôi đồ là thế, vì trước đến giờ vẫn chưa nghe hay thấy số báo 158 (nếu có thật) “sẽ” ra vào ngày 20/4/1975, 10 ngày trước cơn đại hồng thuỷ)… Nhưng hình ảnh đep đau thương và những ấp ủ nguyện ước về những chuyến tàu nối những sân ga hiu quạnh trên đất nước này, về linh cảm“nếu mai này hoà bình”, về ước vọng “một mai qua cơn mê”, về rộn ràng cuộc tao ngộ “ta đón nhau về, khi non nước yên bề sông núi vào hội yêu thường”... và cũng, những măng sét, những đôi mắt, những ngọn cỏ, những cánh lá…trang bìa… đẹp “khó tin” như…huyền thoại …thì còn mãi...như những câu chuyện cổ tích!

Cuối cùng, nhắc đến Duyên Anh, nhắc đến Tuổi Ngọc và số phận của bền bỉ 157 tờ báo neo giữ & níu giữ “những năm tháng mơ mộng đẹp nhất đời người”, không khỏi thoáng rùng mình và xúc động – như một lời tiên liệu – khi hai  truyện ngắn cuối cùng trong số báo 157 Tuổi Ngọc có tên lần lượt là “Đâu phải cái gì cũng mong manh” (Nguyễn Thanh Trịnh) và sau đó “ Rất dịu dàng ta đã khóc” (Ni)!

“Giọt nước mắt tỏ tình thương ngàn xưa hư vô
Giọt nước mắt tội nghiệp còn thế giới hoang vu
Giọt nước mắt tâm tư
Giọt nước mắt ươm mơ
Rơi xuống em ơi. Xanh ngọc vàng tơ…” (Giọt nước mắt cho Việt Nam - Duyên Anh)

“Đừng tuyệt vọng nghe không / Còn trang thơ thắm lại với trời hồng” (Bùi Giáng), và những giọt lệ có nào đâu tan đi, mà …đã ánh lên màu nhiệm  Xanh Ngọc Vàng Tơ! “Đâu phải cái gì cũng mong manh”…

huyvespa@gmail.com
Nguyên tiêu Đinh Dậu, Feb 10th, 2017



IMG_2253



IMG_2294IMG_2254IMG_2255IMG_2256IMG_2257IMG_2295IMG_2258IMG_2259IMG_2260IMG_2261IMG_2262IMG_2296IMG_2263IMG_2264IMG_2265IMG_2266IMG_2267IMG_2298IMG_2268IMG_2269IMG_2270IMG_2271IMG_2272IMG_2273IMG_2274IMG_2275IMG_2276IMG_2277IMG_2278IMG_2279IMG_2280IMG_2281IMG_2282IMG_2283IMG_2284IMG_2285IMG_2303IMG_2287IMG_2287IMG_2289IMG_2290IMG_2291IMG_2305


SỐ 157, Không thấy sự xuất hiện của tác giả DUYÊN ANH, tôi cho rằng đây là số cuối cùng của BÁN NGUYỆT SAN "CỦA YÊU THƯƠNG" này!


CÁC BỨC THƯ TOÀ SOẠN CỦA NHỮNG SỐ BÁO CUỐI CÙNG


IMG_2286IMG_2299IMG_2300IMG_2301IMG_2317IMG_2318IMG_2319

NHỮNG BÌA CUỐI - GIỚI THIỆU SÁCH MỚI


IMG_2308IMG_2309IMG_2310IMG_2311IMG_2312IMG_2313IMG_2314IMG_2315IMG_2316

Nước mắt trước cơn mưa...(hay những điềm chẳng lành trên các tạp chí miền Nam cuối cùng)

$
0
0

 Người dân di chuyển khỏi vùng chiến sự có mặt tại sân bay ở Nha Trang, Việt Nam, trong ngày 27/3/1975 (http://thoibao.today/paper/nhung-ngay-cuoi-cung-cua-sai-gon-1975-qua-con-mat-phong-vien-anh-ap-63106)

“Cuối tháng giêng 1975, một đàn ong đông đảo bất thường chợt bay xuống Sài Gòn. Đàn ong đậu trên hai tòa cao ốc làm mọi người trong nhà sợ hãi chạy ra. Sau đó vài người bạo dạn quay lại tính xông khói đuổi ong đi.

Lúc ấy, có người bàn: Biết đâu đàn ong chẳng đến báo trước một điềm gì? Nhiều thầy tiên tri từng bảo: Số mệnh dân Việt Nam chẳng bao lâu cũng không khác đàn ong lũ kiến. Quả báo, mình đối với chúng thế nào, lượt mình cũng thế.

“Điềm trời”, lời bàn được mọi người mau chóng tin theo. Không ai đốt khói xua ong nữa. Dân chũng lũ lượt kéo đến, kinh ngạc nhìn. Không ai bước vào tòa cao ốc. Nhưng rồi chỉ một ngày sau đàn ong rời đi. Chúng bay túa về hướng đông nam, phía Vũng Tàu và biển Nam Hải. Df chẳng ai xác quyết được lời tiên đoán, nhưng hơn bao giờ hết. người ta đâm lo âu thắc mắc cho tương lai.

Vài ngày sau khi đàn ong rời Sài Gòn, lại một đàn lũ bất thường nữa xuất hiện, gần Phan Rang. Hướng Tây Bắc Sài Gòn. Lần này một đạo quân sâu rầy cực kỳ đông đảo chẳng rõ đâu ra, lúc nhúc di chuyển về hướng tây nam, che kín các mặt đường, cánh đồng. Lúc đầu, xe hơi, xe đạp chỉ giản dị cán lên chạy, bộ hành dẵm lên đi. Có sao, dẫu hơi phiền một chút. Nhưng một lần nữa, các nhà bói toán huyền bí thận trọng bảo:”lại điềm trời, chẳng chóng thì chầy,mình có khác gì bầy sâu,đám bọ”. Họ cảnh cáo:” Đừng hại chúng, mình đối với chúng thế nào, lượt mình cũng bị như thế…”

“Nước mắt trước cơn mưa”…đã bắt đầu thành hình như thế …
Để rồi chỉ không lâu sau đó, cơn đại hồng thuỷ cuốn trôi tất cả, kéo theo những ngọn lửa bùng cháy quê hương…và từ đó, thế giới xuất hiện danh từ thuyền-nhân…

Nhìn lại một vài tờ báo văn chương / văn nghệ vào tháng tư năm ấy…trước cơn hồng thuỷ, những điềm xấu, những lỗi typo tưởng chừng là một vô tình vu vơ…cũng khiến cho những độc giả sau này nhìn lại, rùng mình, và tin vào cái gọi là định mệnh, tinh vào cái “it happens for a reason”…

Như tuần báo TUỔI NGỌC, khi chuyển thành bán nguyệt san, ra ngày 5 và 20 hàng tháng, khi chuẩn bị cho số lên Đệ Ngũ Chu Niên – tức TUỔI NGỌC 158 (“sẽ” ra vào ngày 20/4/1975) nhưng trong 1 cột nhỏ rao tin ở vài số trước đó, toà soạn đã nhắn gửi “CHUẨN BỊ NỤ CƯỜI VÀ NƯỚC MẮT CHO KỶ NIỆM NĂM THỨ NĂM – SỐ 157 – PHÁT HÀNH NGÀY 20/4/1975)
(lẽ ra phải là số 158)

IMG_2439


…Và như đã nói trong entry kỷ niệm 20 năm ngày mất của DUYÊN ANH, số “cuối cùng” đã trở thành số 157, và số cuối định mệnh này cũng kết thúc bằng 2 bài viết như một dự báo sầu đau (nhưng cũng rất nhẹ nhàng như TUỔI NGỌC vẫn thế) : ĐÂU PHẢI CÁI GÌ CŨNG MONG MANH &....
RẤT DỊU DÀNG TA ĐÃ KHÓC…

http://huyvespa.blogspot.com/2017/02/nguoi-con-gai-ngoi-oi-mot-chuyen-tau-ve.html 

Những trường hợp dự báo khác…
Như những lời mở đầu như tiên tri của Nguyễn Đông Ngạc – Nói như nhà văn VIÊN LINH trong một bài ngắn viết về kỷ niệm với NGUYỄN ĐÔNG NGẠC đã đặt ra câu hỏi trong “Tròn 40 năm (1973-2013) một tác phẩm tiên tri
“Sao anh lại có thể cả quyết đến thế nếu anh không nhìn thấy trước, trong tâm tưởng? Thực tế bùng vỡ chỉ hơn một năm sau, Miền Nam mất, những cuộc sống cũ đã mất, và những cuộc sống sắp đến đã đến.” (VL)
“Ðây là một trong những đóng góp một đời còn lại dành cho quê hương trong cuộc chiến hơn một phần tư thế kỷ hầu như đã phá vỡ gần hết tất cả gia tài nổi chìm của chúng ta. Sự đóng góp vào cái gia sản tinh thần bất diệt của tổ tiên của những người làm việc trong lặng lẽ giữa tiếng ồn ào của đạn bom này, đã nói lên hùng hồn ý nghĩa của tranh đấu cho tự do và những giá trị nhân bản. Những người của phần đất bên này dòng Bến Hải.”
Trong cuốn sách này bạn đọc sẽ có thể sống lại trọn vẹn cuộc sống ‘đã mất’ hay ‘sắp đến’ của chính mình, và của cả dân tộc. Tất cả. Vằng vặc.” (Nguyễn Đông Ngạc trong lời bạt tập truyện)

Hay những dự báo rùng mình khi VĂN số cuối cùng (ra ngày 26/3/1975 là chủ đề…VĂN HỌC NGHỆ THUẬT VIỆT NAM Ở HẢI NGOẠI)
Trong những số cuồi cùng, đáng chú ý là những bài dạng NHẬT KÝ của MAI THẢO , những “kỷ niệm” rời, những “dấu ấn” hiu hắt “buồn vào hồn không tên” kéo dài từ Tết đến những ngày “gần cuối”, một phong cách rất mai-thảo …

Số cuối cùng, trang cuối, giới thiệu những tập sách sẽ ra mắt, với dự án NHẬT KÝ MAI THẢO - Quyển sách dang dở và sau này, một cách nào đó, được nối tiếp bằng SỔ TAY MAI THẢO trên VĂN hải ngoại

(sẵn đây tôi cũng đang tìm các số VĂN hải ngoại - nếu các anh/ chị/ bạn...có và có thể nhượng lại xin mail cho tôi về huyvespa@gmail.com. Thanks !!!)



IMG_3418


SỐ VĂN CUỐI CÙNG 26/3/1975
https://indomemoires.hypotheses.org/24195

TẠP CHÍ VĂN (1964-1975) – NGUYỄN ĐÌNH VƯỢNG : UN PANORAMA DES IDÉES LITTÉRAIRES ET PHILOSOPHIQUES AU SUD VIÊT-NAM



IMG_2502IMG_2441

IMG_2519

SỐ VĂN XUÂN CUỐI CÙNG IMG_2490IMG_2491IMG_2493IMG_2494IMG_2495IMG_2496IMG_2497IMG_2498IMG_2499IMG_2500IMG_2501




IMG_2480IMG_2481IMG_2482IMG_2483IMG_2484\ IMG_2485IMG_2486IMG_2487\ IMG_2488IMG_2489 
Tạp chí NHÀ VĂN 3 số đầu tiên cũng là 3 số cuối cùng http://huyvespa.blogspot.com/2015/04/3-so-nguyet-san-nha-van-au-tien-va-cung.html

20 nhà văn miền Nam trong ‘họp mặt’ chót ngày 15.4.1975
(nhà văn Viên Linh cũng nói về 1 dự báo chẳng lành trong số cuối cùng của THỜI TẬP : “Có một điều, bây giờ đọc lại, người viết lấy làm kỳ. Thay vì viết Cao nguyên-Trung Việt, như nhóm chữ miền Nam vẫn dùng, không hiểu vì lẽ gì mấy chữ ấy lại biến thành Tây nguyên… lối nói của miền Bắc. Âu cũng là một cái điềm rớt.”)

Những tờ báo cũ miền  Nam




DỨT BÃO BẮT ĐẦU NƯỚC MẮT (TRẦM TỬ THIÊNG)


commercial cleaning broward
commercial cleaning broward

Mọi người có thể access những entry cũ bằng cách nhấn vào những bullet bên cột Trong Thinh Lặng Đó bên tay phải của blog

"Đã đi thì đã đi rồi /Thượng phương trùng điệp thấy gì nữa đâu..."

$
0
0
FullSizeRender (3)
Những “bước đi” phá chấp của Phạm Công Thiện, từ bùng vỡ một “ý thức mới” 1960 – và sau đó, sau 10 năm lang bạt, đã tự phủ nhận mình trong lần tái bản thứ tư (1970)

“Riêng lần tái bản thứ tư này, tác giả có viết thêm những ghi chú của mình, những cái nhìn hiện tại chiếu ngược lại quá khứ. Tất cả những ghi chú này được in bằng chữ nghiêng. Con người ba mươi tuổi đối mặt với con người hai mươi tuổi: hai bên giao tranh nhau trong một cuộc tương tranh thân ái mà sự thất bại hiển nhiên là nằm ở những giòng chữ nghiêng. Nhưng phải chăng chỉ biết được rằng mình hạnh phúc là sau khi đã thất bại vì không chịu chảy ngược lại đằng sau?”
…Rồi ra đi, rồi phiêu dạt, rồi “ghi lại một chặng đường gió loạn đã đi qua, một quãng đời đã trôi ra biển” sau khi ĐI CHO HẾT MỘT ĐÊM HOANG VU TRÊN MẶT ĐẤT - “sau 17 năm bỏ viết tiếng Việt, bây giờ bắt đầu khiêm tốn học viết lại từng nét chữ linh hiện của tổ tiên” trong “Chuyến lộn ngược quay đầu trở về quê hương”
Rồi triết lý Việt Nam về vượt-biên; hay nói cách khác là triết lý Việt Nam về Việt Nam – triết lý Việt Nam Việt Nam – hoặc các khác Việt Nam Việt Nam Việt Nam (nghe từ vào đời…?!?); triết lý về cái-không-cần-phải-triết! Nothing-ness ư? Hay Everything-ness?
“Triết lý của Nước Việt Nam phải là Triết lý Việt Nam về Nước. Hai ý nghĩa nằm gọn trong một âm thanh: Nước”
Rồi quay trở về với uyên nguyên tình tự dân tộc, với lục bát, với Nguyễn Du, “Tất cả Truyện Kiều đều bắt đầu và chấm dứt bằng chữ “lòng”; tất cả Triết Lý Việt Nam là ở đó. Nguyễn Du đã trông thấy những điều khó lòng trông thấy được; chính lòng thơ lai láng của Nguyễn Du đã chảy trong veo dào dạt trong tư tưởng và cảm thức bồi hồi của thi nhân, và đã tuôn chảy lặng lẽ thâm sâu dằng dặc muôn đời vào tận đáy lòng trầm bình của Việt tộc.”
Những bước đi trở về, lộn ngược đến trước, tiến về phía sau…
“Mưa chiều thứ bảy tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông…”
Có thể là tất cả, mà có thể là không có gì…
ĐI cho hết…TÉ ra là…!!!


http://huyvespa.blogspot.com/…/i-cho-het-mot-em-hoang-vu-tr…
ĐI CHO HẾT MỘT ĐÊM HOANG VU TRÊN MẶT ĐẤT review
2/6/2015 – huyvespa@gmail.com
“Lao đầu phóng mình xuống trang giấy trắng, tờ giấy trắng hoang vu như tình đầu”
Hoang vu khởi đi từ những tờ giấy trắng, trắng hoang vu như đời người, như tiền kiếp, như hiện kiếp và như kiếp khác...Trắng của bôi xóa hay trắng của vô nhiễm? Trắng của đời thực hay trắng của cơn mộng ảo? Trắng của quên kỷ niệm hay trắng của nhớ ký ức? Hay trắng của sự “giải ảo” về một thứ “văn chương” tối tăm mà người đời hay nghĩ/ gán ghép khi đọc ông?
Bằng cách “lao đầu phóng mình xuống trang giấy”, PCT trong quyển sách khác lạ với tất cả những gì ông đã viết ra trước, đã tỏ bày – trước hết – về chính bản thân ông – về những quãng đường đã qua và về những gì “hoang vu” nhất trong suốt ngần ấy năm viễn du trong kiếp này, những năm tháng hoang dại đi khắp cõi ta bà từ một lần rời xa vĩnh viễn Mỹ Tho năm 16 tuổi cho đến những tháng năm lãng du trong những kinh kỳ của thế giới. “Từ năm 1970 cho đến 1983, tôi đã sống ở Do Thái, rồi ở Đức quốc và ở lâu dài tại Pháp quốc; đến năm 1983, qua một cơn chuyển động toàn diện của tâm thức viễn ly, tôi đã trở lại Hoa Kỳ, trở lại thành phố Los Angeles sau một thời gian xa vắng gần 20 năm; từ năm 1983 cho đến năm 1994, trên 11 năm nay, lại qua nhiều cơn chuyển động toàn diện liên tục của tâm thức viễn ly, tôi vẫn tiếp tục sống ở thành phố Los Angeles; sau vài chuyến lui về vùng đồi núi im lặng ở Úc châu, tôi vẫn trở lại thành phố Los Angeles như trở về tập sống hồn nhiên tự tại với những cơn động đất thường xuyên của đời mình…"
Sự tỏ bày về chính mình trong quyển sách này, đơn giản có thể hiểu là sự mở lối để đi cho hết bước đường hoang vu?(Đi như một định mệnh đã an bày hay chính đó là sự an bày ra một định mệnh?). Rồi sau đó? Đi đến một đêm hoang vu khác (hay một đêm không-hoang-vu khác?), hay nhập thể vào chính sự hoang vu? Đi tìm hay đi gặp sự hoang vu? Hay Hố Thẳm? Mà có gì là…quan trọng nữa đâu?
“Tất cả đều trôi đi
Chuyện xưa không còn gì
Mây chiều bay lũ lượt
Nói năng nữa mà chi”
Những câu chuyện (nếu ta gọi đó là “chuyện”) trong quyển sách này như những thiết tha nhất của con người PCT trong lúc ông tỉnh táo nhất/ điên dại nhất/ thơ mộng nhất/ tĩnh tại nhất…
“Trên tất cả đỉnh cao là im lặng”, sau 17 năm im lặng, sau ngần ấy năm bước đi như gió như mây, “sự im lặng” cuối cùng cũng lên tiếng – sự căm bặt của những dồn nén khủng khiếp rung lên những đợt sóng – và âm ba – và những vòng trôn ốc của vạn triệu đời lan tỏa - những vòng trôn ốc xoắn vào nhau, lan mãi đến vô lượng kiếp sống… “và nghe thấy kiếp xưa bước nhẹ về…”. PCT – tính đồ mộ đạo của chủ thuyết hư vô là thế, ông là con người của những cực đoan, ông chỉ chuyển từ cực đoan này sang một khía cạnh cực đoan khác, không trung gian, không lửng lơ....Ông là sự im lặng đời đồng thời là cơn địa chấn kiếp.
Những lớp sóng của lần địa chấn này ùa ập vào bãi bờ của trí nhớ. Đi – bước tới trước bằng những bước chân của hối hả lên đường/ lao vào trận cuồng phong để tìm chút tĩnh tại ngay tâm bão…hoặc cũng có thể là thong dong của những “bước chân nhẹ nhàng trở về sự im lặng”…
Người đọc sẽ cuốn theo những bước chân ấy, (cố) giải mã những cơn mộng - thực của PCT và cũng là một lần kinh qua những gì (tưởng chừng) xa lạ của trải nghiệm mỗi người… rồi muôn nghìn những câu hỏi…
Tại sao đến và tại sao đi? Tại sao Mỹ Tho tại sao Sàigòn? Tại sao Phạm Công Thiện tại sao không-Phạm-Công-Thiện? Tại sao mặt trăng và tại sao mặt trời (nếu và chỉ nếu mặt trời là có thực) ? Tại sao ngày và tại sao đêm? Tại sao viết và tại sao không viết? Tại sao Việt Nam tại sao Tây Tạng? Tại sao lúc này tại sao lúc khác? Tại sao gặp gỡ tại sao phân kỳ? “Tại sao ta sống chốn này, quay cuồng mãi hoài có gì vui?”...
Bước đi từ vô lượng kiếp đến vô biên kiếp cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp…Bước đi...Đếm lần bước và bước lần đếm - Nhạc tính vang lên cũng là lúc đếm từng nhịp phách, đếm những ngày những tháng, những lần buổi sáng thơm buổi sáng, buổi chiều thơm buổi chiều…Khoảng cách từ “còn” cho đến “hết-đêm-hoang-vu” tính bằng số bước như thế, mặc dù, tác giả của Ý Thức Bùng Vỡ đã (dường như) đếm cho tận cùng đến được đáp số của bước cuối cùng...Một cuối đường nơi ...
“Hôm qua vẫn trở lại
Dĩ vãng là hôm nay
Ngày mai là hiện tại
Hiện tại chết mỗi giây”
ĐCHMĐHVTMĐ là 1 dòng tâm tư trôi trên những vòng khói thuốc, có đó mà tan biến đó, sợi mỏng manh của “trí nhớ nhỏ nhoi” tìm đường bay về nửa vòng trái đất neo lại với quê hương. Nơi đó có những bộc bạch:
“Nơi đây chỉ là tiếng nói Việt Nam đang nói với chính tiếng nói Việt Nam trong từng nhịp bước đảo ngược giữa nổi trống không rung rợn nhất của một cái gì vẫn chưa bao giờ có tên trên mặt đất…”
Ngày trước đêm-hoang-vu là những ngày mà đầy ấp sự trở đi trở lại của hình ảnh những cây cam, hình ảnh của đàn quạ, hình ảnh của một người nữ sông Hương, những hình ảnh như một tấu khúc về cuộc sống hay có khi chỉ là những hình ảnh một lần xuất hiện, bừng lên trong trí nhớ, một lần – rồi thôi…Cả hai khía cạnh đời sống ấy, qua trí nhớ hiện hữu và trí nhớ quá vãng của PCT đều đẹp…Một vẻ đẹp hoang liêu. Chính nhờ hai – trí – nhớ ấy mà độc giả lại được cùng với ông đi một chuyến đi của trí tưởng, không biên giới, vượt không gian thời gian. Như huyễn như mộng, như sương rơi, như chớp lóe. Hú dài một tiếng – lạnh về hư không!
“Mười lăm tỷ năm qua
Từ vạn triệu thiên hà
Bây giờ ta mới tới
Gặp lại em hôm qua”
Nơi ngăn kéo của trí nhớ ấy có: Nguyễn Thị Hoàng – nông trại đồn điền hoang trống PCT gửi lại ở Phi Nôm / Nghiêm Xuân Hồng “Anh (PCT) mà không dịch Nagarjuna thì sẽ có tội đối với cả chư thiên” / Nh.Tay Ngàn – người bạn ở Paris với câu thần chú PCT đọc riêng cho anh ấy “Tất cả thi sĩ sớm muộn gì cũng phải tự tử. Bước đi vào trong cái hoang vu nguy hiểm của ngôn ngữ thì rất dễ điên và rất dễ tự tử/ Nhất Linh – một thế giới thơ mộng, bi đát và cô độc – nơi bàn làm việc chỉ có duy nhất 1 tác phẩm dày cộm và nhàu nát : Chiến Tranh Và Hòa Bình / Có Vũ Khắc Khoan, có Mai Thảo, có Henry Miller…
Những đường tơ mối chỉ chằng chịt kéo người đọc vào một mê cung của vùng – lãng – quên, nơi vùng – lãng - quên ấy chúng ta bắt đầu học lại cách nhớ. Nhớ gì? Nhớ về tất cả gì thuộc về kiếp người, nhớ về tất cả những va chạm/ những xuyến xao của đời sống đã mang lại:
“Nó đi cái đi, nó đứng cái đứng…nó im lặng cái im lặng, nó đau khổ cái đau khổ, nó vui cái vui,…nó phá hoại cái phá hoại, nó xây dựng cái xây dựng,..nó có cái có, nó không cái không”
Cứ thế đọc ĐCHMĐHVTMĐ vừa là một sự trải nghiệm cái trải nghiệm vừa là một sự phá hủy cái phá hủy…và ĐÓ/ NÓ chính là con người Phạm Công Thiện, một sự rốt ráo cuối cùng từ chính bên trong ông, ông hủy diệt sự hủy diệt và cũng chính ĐÓ/ NÓ, tái tạo cái hủy diệt…Với một sự “bản ngã nhị trùng” như thế, mới thấy tiếng nói nội tâm của ông - ở đây được nói ra bằng chính những điều giản đơn cuồng nộ ấy – khiến đọc PCT cũng chính là lúc người ta đang đọc lại cái sự đọc, trải qua sự trải qua của chính bản thân mình.
“Hiểu được cái hiểu được này thì hiểu được tất cả cảm giác trí óc của loài người”
Đi đến những bãi bờ hoang sơ và tịch liêu / đi về những ghềnh đá của một thời tuổi trẻ hoang dại /đi về những Việt Nam ngàn trùng và Hoa Kỳ tưởng ngay sát mà xa xôi/ đi cho đến Tây Tạng để thốt lên 1 chữ A duy nhất/ đi ngược cố hương 30 năm chưa lần ghé để làm-cho-xong-hết-cuộc-tiễn-đưa, tiễn đưa hình ảnh thơ mộng của tuổi thơ – của những chiếc tàu chìm nơi bờ sông Mỹ Tho…
“Những cây dừa ở cầu tàu Mỹ Tho cũng từng chứng kiến cảnh chàng trai thất tình ngồi ngó bâng quơ ra đám lục bình trôi chả ngồi ngó bâng quơ ra đám lục bình trôi chảy lắc lư trên con nước buổi chiều. Lúc đó nó vừa đúng 16 tuổi và mang danh hiệu “thần đồng”…
Ôi Mỹ Tho, sinh quán bặt mù bóng chim tăm cá, nơi sinh ra một người-thơ-rất-mực để từ đó sinh ra những câu văn đẹp hoang liêu như chính đời ông
"Nó thường đùa với mấy đứa bạn Tây rằng nó sinh ra đời ở Mytho, nghĩa là Mythologie, nghĩa là nó sinh ra đời trong "thần thoại"...
Nó sẽ tìm ra nơi phát nguyên sông Cửu Long ở núi cao Tây Tạng và nó sẽ đứng nơi đỉnh cao đó mà đái những giọt nước đái cô liêu cho chảy dài từ Tây Tạng đến thành phố Mỹ Tho…”
Bỏ qua những đoạn ông Thiện va chạm với “tám nghìn thế giới thơm” sách vở/ lý thuyết/ triết lý/ mệnh đề/ luận đề…mà ông đã đọc trong suốt 46 năm trên cõi sống – va chạm dẫn đến phản kháng, dẫn đến suy luận, dẫn đến..va chạm khác…, và điều đó dễ khiến người ta gọi ông bằng những danh xưng như triết gia, học giả. Bỏ qua hết những va-chạm ấy. Với quyển sách này, tôi muốn gọi ông bằng một danh từ duy nhất: người thơ của Việt Nam.
Bởi lẽ, chỉ có một con-người-thơ (và đồng thời cũng là 1 con người tạo-ra-thần-bí), mới có thể làm cho ý nghĩ, cảm xúc của mình như vượt thoát khỏi kiếp này, rong ruổi qua những kiếp khác, qua một cõi-ta-bà-khác, nơi đó, chính mộng và thực là một vậy.
ĐCHMĐHVTMĐ của một người-thơ-rất-mực ấy chính là một trường thi bất tận (ông đã vẽ cuộc đời ông bằng một bài thơ, đời ông - đã sống - như thể là một bài thơ … bởi đến cuối cùng, như một “nhà thơ” khác đã nói: thơ cần thiết cho ai nếu như không phải là CHO những người KHÔNG đọc nó?)
PCT tìm lối về với tịch mịch của một đền đài/ chùa chiền/ bảo tháp…trong lòng mình , ông đi theo những tiếng gọi, từ hiện kiếp mà ngỡ như tiền kiếp – những tiếng nói vang lên từ tâm thức “chỉ còn một âm thanh lơ lửng như tơ trời, tiếng nó nhẹ nhàng như hai cánh con phù du, đôi lúc tiếng nó cũng thình lình trở nên vang dội, như ngày xưa còn bé trốn học tắm sông nghe tiếng Mẹ kêu inh ỏi: Thằng đó, NÓ đi đâu mất rồi?”
“Thoắt đi một đời người
Buồn hoài cũng thế thôi
Triệu năm là giây phút
Chưa đi đã tới rồi”
ĐCHMĐHVTMĐ cũng chính là “một chuyến lộn ngược quay đầu trở về quê hương” – “quê hương như một thánh tích” như tên một tập thơ của Hoàng Bảo Việt, thánh tích ấy được tìm về/ được khai quật từ chính con chữ Việt Nam, trên những bước chân trải qua hơn 300 trang giấy hoang vu của nghìn nghịt những ký tự (và còn nữa giữa ba ngàn thế giới của những khoảng trống giữa hai dòng.
Giữa những khoảng trống ấy, người ta có thể nói ông là một kẻ điên, những câu văn hoang đường và bất thường, thì ngay trong quyển sách này ông cũng đã có sẵn câu trả lời - tất cả chỉ là “tiếng chửi HƯ VÔ gửi về với HƯ VÔ, trong tiếng cười của một thằng điên giữa cơn bão tố tàn khốc của ĐỊNH MỆNH”. Tiếng của một-con-người “đẩy sự ly hương đến cùng độ để biết thế nào là nỗi nhớ quê hương”
Hãy đọc quyển sách này với tâm thế đọc một PCT “sau 17 năm bỏ viết tiếng Việt, bây giờ bắt đầu khiêm tốn học viết lại từng nét chữ linh hiện của tổ tiên”
Chính “Chuyến lộn ngược quay đầu trở về quê hương” ấy còn là để BẮT ĐẦU kham-nhẫn học lại từ đầu tiếng Việt, học lại để đi cho hết MỘT ĐÊM HOANG VU – đi cho hết TIẾNG NÓI VIỆT NAM:
“Con kiến không phải con bò mà tại sao lại bò trong trí nhớ cô liêu của nó?/ Tại sao lại ăn nói mà không phải uống nói?/ Tại sao mũi lại viết bằng dấu ngã?/ Nó đang mủi lòng về việc xỏ mũi trâu?/ Chân lý rờ cái đầu nó mà nó không thể nào rờ cái đầu chân lý, Decscartes tưởng chân lý có cái đầu và định chụp đầu chân lý, BĂT ĐẦU mọi sự…/ Đồng xoang đồng điệu, đồng ưu cộng lạc, đồng vợ đồng chồng, nhưng thường đồng sang dị mộng… / Không có dân tộc nào gọi sao một cách đầy thành kính như dân tộc Việt: ngôi sao/ vì sao. Tại sao lại vì sao/ Đi cũng có nghĩa là té tới trước…cho đến lúc nào hết đêm hoang vu thì té xuống mồ…vân vân & vân vân…” (hoặc 8 đoản khúc nhỏ http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do…)
Trong ngào ngạt những trí nhớ ấy, PCT để dành riêng một chương. Chỉ 1 chương toàn những câu bốn chữ nhưng đã đủ làm bùng vỡ lên hết được 1 đoạn đời/ cuộc đời kỳ dị và kỳ tài của PCT nơi có cả những tịch mịch hồng và huyên náo xám.
Kịch tính, và bình thản…Biến động, và im lìm…Vun vút, và khoan thai…Gàn rỡ, và tỉnh táo. Bình thường, và lạ thường. Như thế, và không-như-thế.
“Xin thầy mở cửa. Có người muốn gặp. Nó lìa khỏi phòng. Bước ra phòng khách. Ngôi chùa Việt Nam. Thành phố thiên thần. Đọc Los thành Lost. Chỉ thêm chữ t. Như tên của nó. Người lạ ngồi đó. Cô gái người Huế. Con ngưỡng mộ thầy. Đọc sách thầy nhiều. Con gối đầu giường. Cô đừng gọi thầy. Cô đừng xưng con. Tôi không có tu. Tôi chỉ ở chùa. Không biết ở đâu. Từ Pháp mới qua. Từ năm tám ba. Bây giờ tám bốn. Gần được một năm. Hôm nay mười bảy. Bây giờ tháng Tư. Cô gái ngồi ghế. Dạ thưa lễ phép. Ngồi một hồi lâu. Nó được mời ăn. Cùng nhau đi tiệm. Ngồi quán Doanh Doanh. Nó ăn bì bún. Nàng ăn nem nướng. Dăm ba câu chuyện. Rồi lại im lặng. Nó ngó khoảng trống. Hai người chia tay. Nó trở về chùa. Nằm im trong phòng. Ngó ra cửa sổ. Không nhớ gì hết. Quên phứt gái Huế. Nằm đọc Lăng Già. Tụng chú Tây Tạng. Ngó lên bầu trời. Mây trắng vẫn bay. Ở yên trên chùa. Suốt tháng suốt năm. Rồi một thời gian. Nó đi diễn thuyết. Ở Garden Grove. Thính giả có người. Cô gái đã gặp. Quê từ sông Hương. Tên là Lô An. Cô làm nước cam. Đem lên diễn giả. Nó ngó lãnh đạm. Diễn thuyết xong rồi. Nó trở lại chùa. Nằm im ngó mây. Rồi một thời gian. Bỏ chùa đi chơi. Ngủ nhà học trò. Rồi trở lại chùa. Nằm im nghe chim. Suôt năm suốt tháng. Tu hành lai rai. Rồi một thời gian. Trốn chùa đi chơi. Say rượu suốt ngày. Say mèm suốt đêm. Làm báo Động Đất. Tạo cớ đi chơi. Chơi hoài ngày tháng. Nằm ngủ say mèm. Một hôm muốn gặp. Cô gái sông Hương. Hai người gặp lại. Nó thấy dễ thương. Nhưng nó chưa thương. Nó trở lại chùa. Nhập thất mười tháng. Nằm im ngó mây. Rồi một thời gian. Bỏ chùa đi chơi. Say sưa suốt tháng. Gặp lại gái Huế. Đi bãi biển chơi. Laguna Beach. Hai người ôm nhau. Sau một thời gian. Ngựa quen đường cũ. Nó trở về chùa. Nằm ngó mây bay. Ngựa quen đường cũ. Bỏ chùa đi chơi. Bay qua Úc Châu. Nghe mưa phố lạ. Bỗng nhớ sông Hương. Bay về nước Mỹ. Nàng đón phi trường. Ngựa quen đường cũ. Bãi biển buổi chiều. Bãi biển trăng rằm. Hai người ôm nhau. Nó trở về chùa. Nằm ngó trăng khuya. Bồ câu bay lượn. Được một thời gian. Ngựa quen đường cũ. Sa mạc Tân Cương. Tam Tạng thỉnh kinh. Nó tụng tâm kinh. Thấy Tâm là Huế. Bỏ chùa lần cuối. Bây giờ ở đây. Cây cam sai trái. Cây chanh trổ bông. Qụa đen che chở. Thạch thảo đỏ hồng. Buổi chiều bốn giờ. Sông Hương lờ đờ. Cửu Long lặng sống. Sóng không phải sống. Con sông sóng lặng. Nó lặn xuống sông. Vớt lên hồng diệp. Mỗi ngày thức sớm. Chuông reo sáo giờ. Mỗi chiều chờ đợi. Chiều tới bốn giờ. Cây cam sai trái. Nó nằm ngủ mớ. Mỗi đêm động đất. Sao xẹt đầu ghềnh. Gió thổi quạnh hiu. Bãi biển buổi chiều. Không người lui tới. Nó ngồi trên ghế. Đít nóng bất động. Tham thiền nhập định. Thở ra thở vô. Quán chỉ thanh tịnh. Mấy giấc chiêm bao. Nhất thế pháp không. Huế tức thị không. Không tức thị Huế. Huế bất dị không. Không bất dị Huế. Ngồi yên suốt ngày. Ngồi ngó quạ bay. Ngó cam sai trái. Ngó đường vắng tanh. Ngồi viết bốn chữ. Bán tự vi tử. Anh có thương em. Em có thương anh. Nó thương cái thương. Nó ghét cái ghét. Như hư không nhẫn. Học mãi cái quên. Ngồi yên bất động. Tậm nhảy lung tung. Cứ cho nó nhảy. Ngựa quen đường cũ. Sa mạc Tân Cương. Ngồi nhớ cái quên. Rồi quên cái nhớ. Văn chương bốn chữ. Số bốn linh thiêng. Nhất cá nhì tôm. Vèo đi nửa kiếp. Giựt mình thức dậy. Vô nhân vô ngã. Vô hết tất cả. Không còn chúng sinh. Không còn thọ giả. Ngồi đọc Kim Cang. Mất hết bốn hàng…”
Người đọc có hiểu? Hay không hiểu? Có thấy gần hơn với điều “hết một đêm hoang vu”?
“Thôi thì cứ tha hồ thơ mộng thoải mái sống với cái “không hiểu gì ra gì cả”. Cứ coi mình như hư không và thế gian nhân loại như hư không. Hư không đang ngồi viết. Hư không xuống dưới bếp uống nước chanh đường…”
Hư vô không thuộc về ai cả. Mà tất cả đều thuộc về hư vô!
Cám ơn ông đã mơ về những giấc mơ đẹp như đời thật & đã sống một cuộc đời thật như một giấc mơ…ĐCHMĐHVTMĐ rốt cuôc rồi cũng sẽ đến một …buổi chiều...
“Mưa chiều thứ bảy tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông…”
Cuối đêm hoang vu ấy - Tất cả bông khế đều rợp trời, bừng lên như những cơn mơ, như những cụm mây tha thiết trôi nghìn đời, hay tất cả là KHÔNG, vắng lặng, tịch mịch, không một bông khế nào nữa… Không còn gì cho không-còn-ai nữa…
ĐI cho hết…TÉ ra là…
/./



















































Đi

Đã đi thì đã đi rồi
Thượng phương trùng điệp thấy gì nữa đâu
Hạ phương ngày tháng bể dâu
Sắt son tình cũ phượng cầu túy hương
Có còn gì nữa mà thương
Buổi trưa nằm ngủ thấy nường năm xưa.

Đã đi rồi đã đi chưa
Thượng phương lụa trắng đong đưa giữa trời
Đã đi mất hẳn đi rồi
Hạ phương tịch mịch trùng khơi phong kiều
Chuyển hình trên đỉnh cô liêu
Lửa bay thành ngọn hồng điều mật ngôn
Đại Huyền biến ngưỡng triêu tôn
Tiền thân Tây Tạng nhập hồn chiêm bao
Án nga nga nẵng bạch nào
Một luồng sáng rực chiếu vào trái tim

Năm nàng thiên nữ tôn nghiêm
Trùng quan ngũ sắc ứng điềm tán không
Án Đa La tịch mịch hồng
Mười phương xuất hiện những đồng sinh thiên
Bát Nhã là gái thiên tiên
Khoan thai cởi áo mây hiền trên cao
Gió lùa thơm tóc tơ đào
Thập bát Không Định tiêu dao tiếng đàn
Trời mưa chim ngủ trên ngàn
Sắt son tình cũ nước tràn sang sông

Đã đi rồi có đi không
Thượng phương trùng điệp cỏ hồng thúy hương
Đi đâu mà lại lên đường
Hạ phương còn gặp cô nường năm xưa
Đã đi rồi đã đi chưa
Sắt son triều ngưỡng tình xưa hiện về
Phượng cầu ngũ lĩnh sơn khê
Một bông hồng nở bốn bề lặng im
Năm nàng tiên đậu vào tim
Âm nhập dương khởi lim dim xuất thần

Nhập định tam muội tần thân
Trở về động cũ như lần gặp xưa
Đã đi rồi đã đi chưa
Đền thiêng triệu ngưỡng người xưa kiếp nào
Tình bay lên nóng trăng sao
Gió lùa thơm tóc cô nào năm xưa
Đã đi rồi đã đi chưa
Thương phương lụa trắng đong đưa giữa trời
Đã đi mất hẳn đi rồi
Hạ phương tịch mịch bỏ đời biệt tăm.

(PCT)

Duyên Anh & Phạm Duy trên tuần báo Tuổi Ngọc

$
0
0
IMG_3563IMG_3564IMG_3565IMG_3566IMG_3567


BÚT KÝ - CŨNG GỌI LÀ MỘT CHUYẾN ĐI

IMG_3594
IMG_3569IMG_3570IMG_3573IMG_3574IMG_3575IMG_3576

IMG_3580IMG_3581IMG_3582IMG_3583IMG_3584

IMG_3588IMG_3589IMG_3590IMG_3591IMG_3592IMG_3593

PHẠM DUY TRÊN TUỔI NGỌC IMG_3542
IMG_3548

MT
IMG_3543IMG_3544IMG_3547IMG_3545IMG_3546IMG_3556IMG_3557IMG_3558

DUYÊN ANH VIẾT VỀ PHẠM DUY IMG_3559

BÀI TRÊN CÓ LẼ ĐỂ ĐÁP TRẢ LẠI CUỐN SÁCH NÀY (CŨNG XUẤT BẢN NĂM 1971) FullSizeRender
IMG_3618
IMG_3620FullSizeRender_1FullSizeRender_2FullSizeRender_3

MỘT VÀI TÂM TÌNH CỦA DUYÊN ANH VỚI BẠN ĐỌC


IMG_3571
IMG_3572IMG_3577IMG_3578IMG_3585IMG_3586



KỶ NIỆM ĐINH TIẾN LUYỆN - DUYÊN ANH  (từ facebook nhà văn / hoạ sĩ ĐTL)

XÁC LÁ PARIS - XÁC LÁ DUYÊN ANH
Thời gian anh DA đoàn tụ với gia đình trên đất Pháp, tôi liên lạc với anh đúng một lần, và đó cũng là lần duy nhất, ngay cả cho tới sau này khi đoạn đời cầm bút của anh đã chuyển từ tay phải qua tay trái, bởi những đòn thù oan nghiệt giáng xuống đời anh, (bị liệt nửa phải và đi cần nương gậy), chúng tôi đã mất liên lạc hoàn toàn. Không bi quan nhưng anh không đủ lạc quan để đặt định cho tương lai mình. Cậu biết không, truyện 'Đồi Fanta'đăng nhiều kỳ trên Paris Match nhé, cũng chỉ đủ sống cho 1 tháng ở đây ( Cuốn Đồi Fanta viết trong thời gian tác giả còn ở VN, tôi cũng tham gia một lần vào 'đường dây' chuyển tác phẩm này đi Pháp). Không dấu được nỗi cô đơn, anh đã để lộ ra tuyệt vọng: Rồi tôi sẽ chết như một con chó ghẻ trên xứ người này thôi. Tôi không khỏi lặng người khi xem tới phần cuối của video clip bài nhạc do anh sáng tác 'Em, Anh đã tới Paris'. Anh nằm đó lẻ loi, đơn độc, lặng lẽ…Rồi bay đi rồi tan đi rồi chìm vào trong lãng quên. Như xác lá trong bao xác lá nơi xứ người, xác lá DA, anh sớm hòa tan vào mọi thứ bụi bặm cõi trần, cả thương yêu lẫn hận thù, cả bao dung và ngộ nhận. Tất cả đã chôn vùi theo một con người. Nhưng còn đó trong chúng ta, thời TN, Thời 'của những tháng năm đẹp nhất đời người'.
Image may contain: text


VIẾT VĂN & LÀM BÁO


Bữa nào tới lượt trang truyện dài của mình phải xếp chữ lên khuôn, tôi thường mất một đêm trước ở nhà viết cho xong, tới tòa soạn chỉ lo việc biên tập không cũng chẳng kịp, chưa nói chi tới chuyện thả hồn theo văn mà tuôn ra chữ trong cái không khí của một i tòa soạn nơt ấp nập kẻ ra người vào và không ngơi nghỉ là tiếng xầm xập của máy in, tôi không thể nào tập trung được. Với anh DA và một số người viết chuyên nghiệp thì khác. Họ thu mình vào một góc và chỉ cặm cụi trên xấp giấy trước mặt mình. Áp lực công việc rất rõ rệt, nhất là các nhật báo, bài không kịp thì làm sao kịp cho báo phát hành. Những người làm tin hay phóng sự thì câu chữ của họ không cần văn, ít màu mè và sáng tạo thường lại ngắn. Rất ít người ngồi tòa soạn viết văn, cả những tay chuyên nghiệp viết phơi-ơ-tông, truyện dài đăng báo, cũng rất hiếm. Duyên Anh là một trong số hiếm ấy. Chuyện thường tuần ở tòa soạn báo TN , chủ nhiệm gọi xếp typô , anh ta khoác vội cái áo bước vào hớn hở / Bữa nay anh có bài sớm ? / Sớm mẹ gì chưa có hột nào. Cái đuôi còn tiếp kỳ trước đâu ?/ Thói quen, phần cuối bài kỳ trước bao giờ xếp typô cũng chừa một khúc, xé lại để cho tác giả xem mà viết tiếp đoạn sau / Anh cho sớm sớm, chỉ còn bài anh là lên khuôn chiều cho máy chạy / Tôi đẩy tới cho anh DA xấp giấy , (xấp bản tin của Việt Tấn Xã in roneo hàng ngày cung cấp tin tức nhà nước cho các báo , giấy in một mặt, lật mặt trắng chúng tôi thường dùng để viết. Giấy mềm, ăn mực, lại luôn sẵn luôn dư để có thể dễ tìm và dễ quăng đi không cần quan tâm). Thói quen, anh DA xếp mép xấp giấy để căn lề viết chon ngay ngắn. Giấy không có dòng kẻ nhưng viết rất thẳng hàng, anh DA luôn cho một bản thảo đẹp, rõ ràng mà thợ nhà in rất thích. Thường là bản thảo của anh rất ít dập xóa, nhưng khi cần thì anh cũng dứt khoát đóng ô và gạch chéo bôi đi rất gọn gàng và dễ nhìn. Tôi quan sát và học tập cách làm việc của anh và dần cũng thành thói quen. Bản thảo của mình phải cố gắng rõ ràng và dễ nhìn dễ đọc gây cảm tình trước tiên cho những người có nhiệm vụ biên tập chọn bài. Tiếp theo là nếu không dễ nhìn dễ đọc thì các ông nhóc xếp chữ có ông chưa đọc thông thì hỏi sao xếp cho đúng. Thế là văn của cậu hết hơi bay lượn, chưa tới tay độc giả nó đã sớm bay vào sọt rác, uổng công. Khi rảnh rỗi tôi thường được anh nhắc thế ( Ngày nay với computer, chuyện viết tay trở thành ngoại lệ, có lẽ quý hóa chỉ còn dành cho…thủ bút). Đôi khi những điều sơ đẳng lại là cơ bản để công việc trở thành dễ dàng. Anh còn khuyên tôi. Khi bị chựng ý viết, đừng nên đọc đi đọc lại nhiều lần những điều mình vừa viết, nó làm chậm nhịp và khiến công việc tiếp tục trở thành gồ ghề khúc khuỷu hơn. Cố gắng viết một mạch, và khi đã liên tục dập xóa nhiều lần thì tốt hơn hết hãy bỏ đó mà đứng lên. Nếu là nghệ thuật thì trong nghệ thuật không phải nhọc nhằn mãi mà có được. Một bài thơ, một đoạn văn, một bản nhạc hay thậm chí một bức tranh, có khi cáí nào làm nhanh, liền được một mạch, thì cái đó dễ thành công hơn là việc cứ cặm cụi chau chuốt mãi.

Chừng nửa giờ sau người thợ trở lại, Tác giả "Thư tình trên cát"đẩy trang chữ vừa viết xong cho anh ta xếp trước. Viết tới đâu xếp chữ tới đó. Mới xong nửa trang, xé trước nửa trang. Thiếu mươi hàng nữa thì viết tiếp mươi hàng nữa, cho tới khi mở ngoặc còn tiếp ở cuối trang là buông bút. Nhưng bữa nay dù người thợ báo đủ rồi mà tác giả vẫn hăng say viết tiếp. Thư tình đang lai láng sao dừng được. Anh cười cười và giao tất cả cho người thợ: Cậu giữ đi cho chắc, lỡ bà đầm nhà tớ vơ đại nhóm bếp hay tệ hơn nữa là tưởng tớ viết thư tình cho em nào thì có mà bỏ hút.

Tác giả của chúng ta, anh DA, cũng như phần đông những người cầm bút thời ấy, điếu thuốc lá là phần không thể thiếu tạo ra khuôn mặt của hắn ta ( Thế hệ trước còn là á phiện ) Bỏ hút đồng nghĩa với bỏ nghề và ra đi ( Riêng với hai nhà văn nhà giáo NTiến và LTĐiều, nơi đây tôi không dám xếp họ chung bàn chung chiếu). Ý định tôi sẽ kể tiếp về sự việc viết văn làm báo chuyên nghiệp và giá trị văn phẩm mà họ đã dựng nên trong những hoàn cảnh như thế nào. Nhưng xin gượm đã. Nhắc đến truyện dài "Thư tình trên cát", tôi có khối chuyện để kể về tác giả và những mối tình có tên và không có tên trong các tác phẩm của anh.

Hình ảnh post kèm theo là do anh NTH cung cấp, trong cuốn: DA và tôi







DUYÊN ANH , GIA ĐÌNH VÀ NHỮNG "NGƯỜI ĐI QUA ĐỜI TÔI"
Một buổi sáng thật sớm, anh DA tới nhà tôi : Tớ phải đi xa một chuyến thôi. Nhìn cái vali nhỏ vừa đặt xuống và cái túi xách anh còn khoác trên vai, tôi biết anh không đùa. Truyện dài của gia đình anh tôi không lạ, cơm lành canh ngọt khi nào tôi không biết, nhưng hễ cơm sống cơm khê thì tôi biết liền. Không hỏi gì, tôi chở anh ra ga xe lửa (Nhà tôi ở Hòa Hưng, có ga xe lửa ngay sau lưng). Anh đi Nha Trang. Vừa ngồi sau xe anh vừa dặn dò. Truyện dài kỳ trước còn nhiêu đi nhiêu. Nhìn xuống cuộc đời chêm thêm bài độc giả vô vài trang cũng được. Nhưng cậu nhớ viết thư tòa soạn nhé, như ý mình bàn rồi đó. ( Kỳ nào nhận viết thư tòa soạn tôi rất mừng, vì để chủ nhiệm viết, ông chuyên nghề buôn than, không chuyện giá giấy lên thì tới chuyện số lượng in giảm. Ca bài ca con cá riết rồi độc giả cũng ngán ngẩm...lặn theo cá thì hỏng hết. Sau chuyến đi ấy , chừng vài tuần chi đó, khi về anh có ký sự "Cũng gọi là một chuyến đi"đăng liên tiếp mấy kỳ trên TN. Nha Trang, Ba Ngòi, Đại Lãnh, Tuy Hòa… và bạn bè cùng văn hữu… Còn chuyện gì thêm nữa, có lẽ nhà văn Võ Hồng biết nhiều hơn. "Phượng yêu' và "Thư tình trên cát", mái tóc người con gái nào còn vương gió biển theo về, gót chân người nữ nào còn in dấu cát để lại trong tâm người dư âm song biển. Nha trang, Tuy Hòa mùa hè ấy, nhà văn VHồng cũng chẳng thể biết nhiều hơn. Cho đến khi trong những xấp thư dày cộm hàng ngày chuyển về tòa soạn có một cái tên dài người con gái mà tôi phải lưu ý NgNgThKh. Mỗi ngày nhận thư thường gom lại đó, từng bó lớn bó nhỏ, rảnh việc mới cắt ra, cắt không hết, lưu lại từng chồng , chẳng tủ chẳng kệ nào chứa hết, có khi phải chất cả góc phòng. Thường là những phong bì căng phồng bài vở, văn hoặc thơ và kèm theo lá thư. Các bạn đọc tới thăm tòa soạn chúng tôi thường chìa cho họ cái kéo và nhờ làm công việc này. Cắt các phong bì ra và phân loại thơ văn hoặc chuyên mục xếp riêng, thư xếp riêng để trả lời. ( Thư viết cho ai thì cũng chỉ một người trả lời, khi tới phiên). Tình cờ, sau ngày mà chủ nhiệm của tuần báo của tuổi yêu thương giang hồ một chuyến về, có một lá thư không viết trên giấy học trò, mà viết trên giấy pơ-lua màu xanh bay về theo. Tôi lướt nhanh và biết thư ấy là thư riêng không trả lời trên báo. ( Cũng xin mở ngoặc nói thêm ở đây, thời ấy cũng là thời xanh lơ của thư ký tòa soạn, từ địa chỉ đường Phạm Ngũ Lão tới Bùi Thị Xuân , ai trong tòa soạn cũng biết phải để riêng những thư có dán con tem hình nữ hoàng Elizabeth cho tôi, thường thì một tuần hai lần NHỮNG CON TEM NÀY XIN XEM TRONG SLIDE SHOW BÀI HÁT HOÀI CẢM CỦA CUNG TIẾN POST TRONG THÁNG TRƯỚC ). Tìm lại chiếc phong bì có ấn dấu bưu điện Tuy Hòa không thấy, nhưng để ý ngay lần sau đó tôi thấy ngay, không bóc ra và tôi để riêng trao cho chủ nhiệm. Chuyện cảm tình độc giả với tác giả và tác phẩm không có gì lạ, nhất là trong thời thanh xuân những tâm hồn nữ mỏng manh dễ bay bổng lắm, có khi từ mộ mến tác phẩm đến thần tượng tác giả là cùng một nhịp tim đập, yêu lúc nào chẳng biết.( Ngày nay không có chuyện…vơ vẩn đó, nhưng nhìn các fan nữ cuồng nhiệt trong các live show thì biết tâm hồn nhẹ nhàng thơ mộng một thời đã không còn nữa, cái đẹp phải có thương hiệu và mẫu mã bắt mắt) Nếu có bạn nào thắc mắc, vì sao phải xếp riêng một lá thư từ địa chỉ cát trắng ấy? Xin thưa, một chủ nhiệm dày dạn tình trường như anh DA, đẹp trai và tài hoa cùng mình, đã say sóng rồi đấy. Không bao giờ kể tôi nghe nhưng là người nhạy cảm, chỉ liếc qua mỗi khi anh dừng bút trong "Thư tình trên cát" là tôi nhận ra ngay. Vâng trong tờ thư giấy pe-lua màu xanh lơ kia tôi đã nhận ra tất cả âm vang trong bản nhạc "Nha Trang ngày về". Có con ốc bơ vơ nằm trên cát, có sóng nhồi lớp lớp trôi đi, có ngực mềm da ngát hương…
Nói đến chuyện tình của các nghệ sĩ thường hấp dẫn tò mò, người viết lại nhiều khi phải thêu dệt thêm để chiều ý độc giả, Tình tiết éo le hay ly kỳ bi đát để có tác phẩm này hay tác phẩm kia. Tôi không, chỉ tóm tắt sau đó, khi trao các phong bì có dấu ấn bưu điện Tuy Hòa ấy, tôi thấy anh DA không bóc ra nữa.
Anh để đâu đó, trong một ngăn nào của trái tim mình, và chắc chắn không bao giờ anh đem về để trong ngăn kéo nào trong nhà mình.
Có thể không vì yêu nhiều người mình "đã chọn đời nhau là dấu chấm", nhưng thực sự anh rất yêu các đứa trẻ trong nhà mình. Yêu con cái, yêu gia đình, thứ mà anh không bao giờ chấp nhận chịu đổi chác. Công bằng mà nhận xét, anh DA là một một người có mã bảnh bao, luôn đi xe bốn bánh và luôn có dịp đổi xe mới, tư chiếc Dauphine cũ rồi đến 404, Pinto ( xe thể thao) và sau cùng là 504 ) ăn nói lịch lãm và nhất là tài năng của anh không thể phủ nhận, sao có thể không có nhiều trái tim nữ say đắm. Tôi biết người con gái Châu Kool mạnh mẽ, biết người phụ nữ thường tới tòa soạn vào mỗi chiều thứ năm (Người phụ nữ này suýt ôm đi bức tranh của tôi treo ở tòa soạn, khi DA đã tìm ra tờ giấy báo gói bức tranh này lại thì may là tôi vừa kịp có mặt). Tôi cũng từng là bồ câu đưa thư cho cô nữ sinh Trưng Vương vừa bước vào tuổi sinh viên Văn Khoa - cô bé có chiếc răng khểnh - và ngồi sau chiếc Velo solex của nàng để ngụy trang tới điểm hẹn. Sau này trong cuốn DA và tôi, tác giả nhắc tới người đàn bà mang tên tắt Ng. khi anh lưu vong đời văn trên đất Mỹ, tôi có hỏi lại anh VTHiền, nhưng tôi cũng không rõ lắm có gì để liên tưởng tới quá khứ.. Bất chợt, lúc này đây, khi vừa lật lại cuốn sách này để rõ thêm chi tiết, tôi vừa tìm thấy đoạn: Chuyện này anh chưa kể với ai, trừ em (tác giả VTH). Anh cũng chưa từng đưa vào truyện nào. Có chăng là khi viết hồi ký. Người con gái viết rõ tên Thủy, quê Chợ Mới khi còn là nữ sinh, anh là thày giáo, gặp lại cô đã " như trái cây chín mọng, đẹp không thể tả". Lúc ấy anh đang làm báo Xây Dựng. Trong đoạn này tôi thấy tác giả còn nhắc tới nhiều cái tên trong làng báo mà tôi biết và nhiều những chuyện trong góc khuất tối rất tối của các tay trong cái làng ấy mà tôi không biết. Lúc ấy quen với anh DA tôi mới chỉ là một học sinh vừa tốt nghiệp tú tài, chưa hề có mối tình vắt vai, say mê làm báo và được anh ưu ái chia việc không cần công ở tất cả những báo anh đang làm (Báo Sống, Xây Dựng và sau là Công Luận) Giờ thì tôi mới hiểu sao ông ĐMNgọc, quản lý báo Xây Dựng (Chủ nhiệm Lm. NQLãm) dạo đó đã nói với người nhà của tôi: Đừng cho thằng L. đi theo bọn nó- dân làm báo- hư thân. Thực sự lúc đó hay cho đến bây giờ tôi không bao nghĩ DA là một tay chơi, dù biết anh còn ngòi bút Thương Sinh rất sống sượng trắng trợn. Tác giả " Cám ơn em đã yêu anh", dù có xuất bản (cái tựa ) ấy nhiều lần thì anh cũng chưa bao giờ cho tôi thấy việc dễ dãi trong tình cảm của mình. Anh thường đùa trêu tôi là thánh Phaolô ( Có lẽ chỉ biết tượng ông thánh dựng trong sân trường Saint Paul, nơi con gái học). và cười tôi làm báo mà hiền quá, thấy con gái còn đỏ mặt. ( Sau này tôi "khoe" thành tích này với ngườiphụnữcủađờitôi, she tủm tỉm miệng, vâng anh ấy hiền lắm, con ruồi đậu không dám đuổi, con gái ngồi trong lòng không dám xua. Sao em siêu thế, con ruồi bay qua mà còn biết… Tôi giả lả, she bồi tiếp, Xưa rồi, bây giờ không những biết con nào ruồi đực con nào ruồi cái mà còn phải biết con nào là con ruồi…bống nữa cơ. Vậy là em đã thất bại trong hôn nhân chứ gì ? Haha, riêng vụ này em thắng lớn).
Viết hồi ký cùng lúc viết nhật ký, điều này giúp tôi hứng thú là mình vẫn sống thực, không hoài niệm . Tôi giống anh DA ở chỗ, dù say đắm hay dù ngang trái tới đâu chăng nữa, cả trong văn nghiệp, thì bao giờ gia đình mình cũng nguyên đấy, một gia đình. Không bao giờ phá vỡ. Nhưng tôi phải cho bạn bIết tiếp chi tiết nhân vật mà nhà văn hào hoa của chúng ta chưa từng tiết lộ, dù trong thân tình bạn bè hay trong sách trước đây, người con gái tên Thủy quê ở Chợ Mới ấy sau khi biết DA đã có gia đình, DA phải chạy vô nhà thương Đô thành để ôm xác nàng. Đây có phải cũng là một phần trong góc khuất của một người văn dịu dàng nhưng lắm đam mê?
Hình post dưới đây là Vũ Nguyễn Thiên Hương, con gái anh DA, trong ngày cưới. tại Pháp. Chú rể là người Tô Cách Lan.



Image may contain: 1 person, plant and indoor




BƯỚC VÀO LÀNG BÁO BẰNG CÂY CỌ VẼ
Trong một buổi họp mặt gia đình khá long trọng, tôi được anh DA giới thiệu với một vị thày cũ của anh. Là nhà văn thì non, là nhà báo còn sữa hơn, anh bèn gọi tôi là họa sĩ. Khi vị thày hỏi: Theo trường phái nào ? anh không chút do dự với nụ cười dí dỏm: Trường phái …mắt to. Cái trường phái chẳng có trong sách vở nào nhưng lại đúng là tôi, vẽ cô bé nào cũng có đôi mắt tròn vo giương to.
Tôi thích vẽ hơn thích viết. Học trung học không có buổi triển lãm tranh nào tôi bỏ sót, tuần nào cũng lượn lờ qua, không Phòng Thông Tin Đô Thành thì Nhà Văn Hóa Pháp, là hai địa điểm thường tổ chức những cuộc triển lãm tranh ảnh hàng tuần. Đậu kỳ thi trung học xong tôi thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Gia định. Rớt là chuyện đương nhiên, vì tôi đâu biết phối cảnh, truyền thần, trang trí là gì. Thích là thích vậy thôi, tôi chẳng có chút căn bản nào về hội họa. Học không giỏi, nhưng tổ đãi, tôi băng băng qua tú tài 1 rồi 2, chưa hề phải thi lại lần nào ( Dạo ấy kỳ thi căng nhất có lẽ là thi tuyển vào trường công, tôi cũng có mặt). Nhưng tôi bị khựng lại ở ngưỡng cửa đại học (mãi sau này khi đi lính rồi tôi mới học tiếp). Mùa hè năm ấy, đúng ra tôi đã có cơ hội học Kiến trúc, nhưng vì ham theo anh DA làm báo nên để vuột mất thời điểm ghi danh. (Ai cũng tưởng tôi sẽ học Văn Khoa nhưng tôi lại chọn Luật khoa, sau đó). Khi ấy anh DA vừa viết tiểu thuyết cho báo Xây Dựng vừa phụ trách trang Búp Bê cho báo Sống. Tôi phụ anh chọn bài sửa bài rồi dần dà thấy tôi "cũng được" anh giao tôi công việc thay anh trả lời thư độc giả hàng ngày trên báo. Tôi cũng không bỏ lỡ cơ hội vẽ hình minh họa cho các mục này mục nọ và được in ngay. Các tòa soạn báo nào cũng vậy, người viết thì luôn thừa nhưng người vẽ thì rất hiếm. Chẳng phải vì thiếu họa sĩ, nhưng họa sĩ vốn dĩ là nghiệp ngoài đời chỉ nhai bánh mì , thì trong làng báo lại càng khiêm tốn hơn, có gì ăn nấy, đơn giản chỉ vì việc ít thì mơ gì thấy cơm hay phở, nên những giới có hoa tay ấy ít khi đoái hoài tới. Tôi chỉ biết kể tới dăm ba họa sĩ như Văn Trác hay Tổng giám thị trường tôi, thày Mạnh Tuân vẽ truyện tranh cho báo Tuổi Xanh. Họa sĩ Văn Hiếu vẽ cho báo Công Luận, và ông Đinh Hiển báo Con Ong. ( Sau này có họa sĩ trẻ ViVi - Vĩnh Long, Việt Nam?- tạo được ấn tượng sâu đậm cho hình ảnh báo Tuổi Hoa cùng với loạt sách TH Đỏ, TH Tím…) . Còn những ai chuyên trình bày bìa sách hay các ấn phẩm khác thì tôi ít có dịp biết tới. Ông Đằng Giao thư ký tòa soạn báo Sống cũng là tay trình bày sách báo đẹp. Ông vẽ bìa cho một số những cuốn sách đầu tiên của DA, trong đó có bìa cuốn Điệu ru nước mắt mà tôi rất nể. Lúc này , tác giả loạt sách viết về các tay anh chị trong xã hội đen vừa dứt truyện dài Sa Mạc Tuổi Trẻ trên báo và in thành sách ngay. Sách in sắp xong mà bìa chưa thấy đâu. Hình như ai đó hẹn sẽ giao mẫu bìa nhưng mãi vẫn chỉ hẹn, anh DA nói với tôi: Cậu vẽ đi. Chưa bao giờ vẽ bìa nhưng tôi hào hứng nhận ngay. Nhận ngay là có ngay. Ngày hôm sau tôi giao bìa và được chấp nhận liền đi thẳng tới nhà in, không có thêm bất cứ ý kiến gì hay sửa đổi gì. Đó là mẫu bìa đầu tiên của tôi .
Tôi vẽ không đẹp, ngay cả viết cũng vậy, đâu có gì hay. Tôi biết, còn rất nhiều người hơn tôi bội phần. Nhưng tôi có đam mê và thực sự là có cơ hội. Điều mà người ta thường gọi là cái duyên, tôi có cái duyên trong nghiệp văn nghiệp báo. Nhưng bạn à, cái duyên ấy sao mỏng quá. Chỉ có chừng ấy thôi mà … má đã mòn và tóc đã bạc hết trơn.
BÌA SMTT LẦN ĐÂU VÀ TÁI BẢN


Image may contain: 1 person


No automatic alt text available.


TN VỚI TỔ HỢP HẢI ÂU / CÙNG VỚI ANH CHỊ TỪ - NHÃ
Là người viết văn làm thơ, thường có đời sống rất thoáng. Cái thoáng ấy dường như mang chút tính chất cẩu thả của tâm hồn, nhếch nhác trong đời sống cá nhân. Những người làm nghệ thuật nói chung thường có đam mê và hắn dễ bị chết chìm trong cái đam mê đó, hệ lụy kéo theo những người thân. Là những người cầm bút nhưng anh chị Từ Nhã khá rạch ròi phân biệt trong công việc của mình, không vì chuyện phong phú ngòi bút mà lảm nghèo đời sống gia đình. Họ viết văn làm thơ để vui nhưng làm báo làm sách để sống. Hồi ở Saigòn họ thuê nhà in và theo đuổi ngành xuất bản, Qua Cali họ có tờ Thời Báo, khá ổn định. Khoảng năm 1990 khi ra tù (vụ án Hồ Con Rùa) dạo ấy tôi đã lập gia đình, anh chị xuống Biên hòa thăm chúng tôi và khuyến khích: Cậu vẽ đi. Rồi khi được bảo lãnh qua Thụy Điển anh cuộn theo một số tranh khổ nhỏ của tôi mang đi. (anh có gửi cho tôi vài tấm hình trong buổi giới thiệu tranh nhưng sau đó hình như cũng không được chú ý lắm). Tôi không nhớ bao lâu sau anh Nguyễn Hải Chí - Họa sĩ Chóe - có xuống thăm tôi và trao quà của anh chị cùng vài thứ lặt vặt khác (của ai đó còn nhớ thời TN). Gặp nhau sau thời khổ ải tù đày ai cũng hom hem ngơ ngác như nhau. Chỉ ngồi với nhau hết một chai bia thôi mà đã chuyếnh choáng tới trưa. Anh Chí cao to là thế, chiếc xe môtô phân khối lớn kềnh càng là thế, thế mà cả hai không vọt nổi con dốc trước cửa nhà, nếu tôi không kịp nhào tới đỡ anh. (Về sau tôi mới biết anh ôm theo nhiều bệnh tật trong người, thêm những ủ ê trong đời sống, anh không vượt nổi con dốc đời mình, bỏ bạn bè, bỏ cuộc sớm. ) Ngay hồi còn ở Saigon anh Từ cũng đã dự tính in cuốn hí họa Chóe, hình như ở Cali anh cũng vẫn còn giữ ý định ấy, không biết có thành ? Dù không có nhiều việc với nhau nhưng tôi và anh chị Từ Nhã vẫn thỉnh thoảng còn giữ liên lạc với nhau qua e-mail. Khi biết tin gia đình tôi định cư ở Mỹ, anh muốn tôi liên lạc với con gái anh là Sông Văn, đại diện cho Thời Báo của họ ở Houston, nhưng phần vì xa xôi phần vì tôi cũng không còn cảm thấy hứng thú lắm trong hoạt động báo chí Việt ngữ nơi xứ người, nên tôi tìm việc làm công nhân phổ thông cho một hãng điện tử gần nhà, chỉ 15 phút lái xe. Ở cái xứ sở bao la nhộn nhịp này khoảng cách tính bằng giờ bay giờ xe, chờ có dịp nhân tiện này nọ chứ chẳng khi không mà bỏ đi thăm nhau được. Khi nhà thơ làm nhạc, anh Tử có buổi ra mắt CD Trăm Năm Nụ Cười ở Houston, chúng tôi mới có dịp gặp lại nhau. Gặp mà kể như chưa gặp, ai nấy cũng chỗ này chỗ kia vài câu vài ngưởi rồi sau buổi trình diễn lại hối hả "see you later". Chị Nhã nói, mấy đứa con gái nhà chị vẫn còn nhớ bức tranh cô bé ôm con mèo bé tẻo teo của chú Luyện mà hồi nhỏ chúng treo ở đầu giường đấy.( Bây giờ tôi mới sực nhớ, mấy bức tranh sơn dầu làm bìa Xuân Hồng TN dạo đó về địa chỉ nhà này hết, trong đó có cả bức chú nai con mắt xoe tròn miệng ngậm cỏ non) Tôi chẳng biết đứa nào với đứa nào. Còn đang lơ ngơ gần sân khấu sau buổi trình diễn thì có tiếng : Chú Luyện đây phải không, cho cháu ôm chú một cái. Rồi chú chú cháu cháu choàng vai nhau chụp vài tấm hình, con mẻo con mèo nào hồi xưa hồi này, quay đi quay lại cũng biến đâu mất. Mấy tháng sau có dịp qua Cali tôi tới thăm anh chị Từ Nhã tại tòa soạn Thời Báo, thấy được cơ ngơi tươm tất và thân thiện hơn thời chúng tôi cùng đeo bám ở Tổ hợp Hải Âu nơi nhà in Nguyễn Bá Tòng rất nhiều. Chị Nhã tiếp chúng tôi trong căn phòng riêng của chị, ấm cúng và dịu sáng như ánh nến, vương vất mùi thiền, nhẹ nhàng tâm mộc. Cũng màu nâu ấy tôi còn gặp lại chị với tài tử Kiều Chinh, cùng xâu cùng chuỗi, nhân dịp ra mắt sách của bạn bè tại Orange County vào tháng bảy năm 2016. Vẫn vui vẻ vậy ôm nhau khi vừa thấy nhau. Nhưng lần này không thấy anh Từ. Anh ấy yếu rồi. Còn uống rượu được không. Còn chút chút. Vậy cũng chưa già lắm đâu.
Chưa già lắm đâu, nhưng chúng tôi đã quên lời chào hẹn gặp lại. Dù thế cũng đẹp lắm rồi, như những mảnh vỡ có chung một quá khứ không hẹn mà còn có dịp ráp lại với nhau. Chẳng để làm gì, hay chỉ để nhìn lại nhau cũng đã là ấm áp lắm, khi tuổi trẻ một thời đã mất tăm.

Image may contain: 3 people, people sitting and indoor

TUỔI NGỌC Ở TỔ HỢP HẢI ÂU CÙNG VỚI NHÃ CA - TRẦN DẠ TỪ Chủ biên báo Tự Chủ rồi bào Nhà Văn, khi TN đóng đô ở tổ hợp Hải Âu một thời gian thì ông bà TDTừ và NhCa chuyển sang làm xuất bản với tủ sách Trăng Mưới Sáu và chị Nhã Ca cũng rất duyên dáng trong ngòi bút dành cho Tuổi mới lớn với một loạt sách như Ngày Thơ, Tình Thơ - Bước Tới Người Thương… Tôi bỗng được ưu ái khi chỉ chọn duy nhất (là họa sĩ) để thiết kế bìa sách cho tủ sách TMS. Chẳng phải vẽ đẹp nhưng tôi biết mình chỉ thích hợp với hình ảnh của những mộng mơ tuổi mới lớn. Chị NhCa giả bộ săm soi bức tranh mà tôi vừa đóng khung và treo nơi góc tòa soạn ( Bức Trăng xanh, về sau lạc mất ) Xem kìa, cô bé của hắn cái gì cũng nhỏ nhắn chút nị hà, thấy thương chưa. Nè chị hỏi thiệt nhé, L. có người mẫu không hay chỉ tưởng tượng thế. Tội đáp bừa: Vẽ theo ký ức. Chúa ơi, thế thì tội lỗi quá. Chị kêu lên và tiếp tục khiêu khích cậu trai tơ là tôi mà mãi sau này tôi mới nhận ra. Cũng như khi nhà thơ NHĐịnh từ "phố núi cao phố núi đầy sương" tới thăm tòa soạn TN, chị cười cười với lời thơ được phổ nhạc: … Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông, nên mắt em ướt, nên tóc em ướt , nên ấy em ướt ướt… nên em mềm như …Mọi người cười rộ, chỉ mình tôi đến bây giờ mới… biết cười. Ngày ấy thường cuối tuần nào tôi cũng có mặt tại ngôi biêt thự cổ nhưng khá khang trang của gia đình anh chị Từ Nhã tại Gia Định, với lý do chính đáng là luôn có những bạn lớn họp mặt, không bàn chuyện văn chương mà bàn về…tây đầm. Những tay không độc thân ( Như DA hay thày giáo HPA, triết gia NXH…) đôi khi lấy cớ ở nhà đánh bài với vợ (bất đắc dĩ) vui hơn, nên vắng mặt. Đợi mãi, như sợ đợi tuổi độc thân bay đi mất, có khi chỉ mình tôi với ông MThảo và chủ nhà cũng cưa gần hết chai rượu Gin (thứ voka 2 lít chai vuông cạnh của Nga, chảy vào họng tới đâu biết tới đó), rỉ rả ngồi buồn "rút tít" với nhau, thế mà cũng trắng đêm. ( Nếu sau này có gặp nhau lại ở Las Vegas, nơi mà tự nhận là sin city, khi đã tới lúc không còn gì để già hơn thì cũng như nhau thôi, như nhau tội lỗi của những thằng đàn ông) Nhớ lại, sao hồi ấy so tuổi tác hay tuổi nghề thì tôi cũng chỉ đáng ngồi chiếu dưới khối anh chị trong làng, nhưng cùng bàn viết hay quanh bàn vui họ cũng không ngại ngồi chung với tôi (có lẽ họ thấy tôi dễ thương hay…đáng thương chăng). Khi có cuốn sách mới in thì tác giả thế nào cũng phải có buổi "ra mắt" cho phải phép. Tôi là kẻ ít có sách nhưng không có account ở nhà băng ngay tại nhà mình mà lại lãnh hai ba thứ lương hàng tháng nên bạn bè dễ quản lý giùm những vụ tương tự. Thường cũng từng ấy khuôn mặt, một chai Black and White hay Johny Walker ( dạo ấy Napoleon khá thịnh, nhưng ngài tướng này say hỗn quá, anh em chê) thế là cũng đủ, tội lỗi vừa phải ( Cũng vì câu vừa phải này về sau tôi cũng khá thấm thía với lời phán của thiên sứ được sai đến sống trong nhà mình. She kém tôi nhiều tuổi nhưng khi đã được thiên mệnh thì she cũng có hào quang. Tôi nói, nếu không có đàn bà thì tất cả đàn ông đã ngồi chung bàn với thần thánh / trích /. Vâng, riêng anh, anh được ngồi chung với á thánh mà anh không biết đó thôi. / hết trích /) Sợ tham lam miên man lạc đề trên FB vốn dĩ ít chữ, tôi sẽ trở lại tiếp chuyện ở tổ hợp với anh chị Từ Nhã sau. /// Hình post kèm theo bài là buổi gặp lại lần đầu sau 40 năm, trong buổi ra mắt CD Nụ Cười Trăm Năm của nhà thơ nhà nhạc Trần Dạ Từ, tại sảnh đường của một trường đai học ở Houston, (tháng 6 năm 2011) trong đó có thêm ôb Dương Phục và Vũ Thanh Thủy, cặp phóng viên chiến trường trước đây và hiện là giám đốc đài phát thanh Việt ngữ sở tại. Ca sĩ chính trong buổi trình diễn này: Khánh Ly


Image may contain: 6 people, people smiling, people standing and suit


Image may contain: 1 person





TƯỞNG NHỚ NGƯỜI ANH CẢ
Tối qua nhận được tin nhắn của anh Trần Quốc Bảo, theo đường link tôi chỉ biết anh đang ở Garden Grove, Cali. Tôi chưa từng biết anh, nhưng khi anh nói báo Thế Giới Nghệ Sĩ của anh sẽ ra số báo nhớ về nhà văn Duyên Anh 20 năm khuất bóng, tôi sững người. Có những người còn lưu dấu anh nhiều hơn tôi tưởng. 6.2.1997, tôi vừa lật lại cuốn "Duyên Anh và tôi, những câu chuyện bên ly rượu" của anh Vũ Trung Hiền tặng, để xác định con số 20 năm ấy. Biết nói sao nhỉ, thời gian vẫn cứ phải làm tròn phận việc của nó, là chôn vùi mọi thứ. Tôi vốn tâm niệm không ôm quá khứ, không hoài niệm và cũng không núp bóng quá khứ dù nó có đẹp tới đâu chăng nữa. Ích gì, nếu nó không giúp ta sống tốt hơn trong hiện tại. Lại thêm tôi vốn xem nhẹ chuyện văn chương viết lách của mình, chẳng chuyên chở được gì, chẳng qua là một thời bay bổng, rồi qua. Qua rồi thôi. Hãy làm chuyện khác. Tôi không có được cốt cách của một nghệ sĩ thực sự, phóng mình trong nghệ thuật, tôi biết mình chỉ tầm tầm thế thôi khi thỏa thuận với sự chừng mực trong đời sống, thỏa thuận với hạnh phúc bình dị chung quanh. Song đến bây giờ, có lẽ tôi bắt đầu ngồi nhiều hơn xê dịch. Ngồi chờ rong rêu phủ và dùng những key word tìm lại đôi ba vụn vặt, những mảnh vỡ của mình còn vương vãi đâu đó, nhặt nhạnh lại trên Net, có khi lóng lánh thấy vui. Những mảnh vỡ ấy có tôi thời trẻ và bạn bè, có tôi thời làm báo và bóng dáng lớn người anh cả Duyên Anh, người mang dấu ấn sâu đậm khi tôi mới bước chân vào đời, định hình một phần con người tôi sau này .

Lúc nào tôi cũng mang nhiều xúc cảm khi nhắc tới anh Duyên Anh và thời gian cả hai gắn kết với một tờ báo tâm huyết. Anh DA làm nhiều báo, nhưng anh chỉ hãnh diện khi nhắc tới TN. Cũng như viết nhiều nhưng anh chỉ muốn mình được nhắc tới với ngòi bút tuổi thơ. TN xuất bản được đúng 4 năm thơ mộng rồi cũng theo dòng biển dâu mà trôi đi. Cả một thế hệ trôi đi. Chúng ta lạc nhau. Tôi cũng lạc mất người bạn vong niên đã đưa tôi vào nghề, yêu nó, mê nó nhưng rồi, cũng chỉ ngần ấy thôi, khi chúng tôi vĩnh viễn lạc nhau.

Thời gian anh DA nằm viện ở Pháp, sau khi bị đòn thù hận giáng xuống đời người, còn ập theo bao nhiêu oan nghiệt bám riết. Khi ấy đứa con gái duy nhất của anh là cháu Vũ Nguyễn Thiên Hương cùng chồng mới cưới (là người Tô cách Lan) về thăm vợ chồng tôi, nói rằng ba con muốn hỏi chú, ba con muốn về quê dưỡng bệnh có nên không. Tôi hiểu nỗi đau đớn của anh không phải là vết thương nằm, mà là vết thương đau nhói bẽ bàng vì cuộc đời ngộ nhận mọi thứ. Anh không thuộc về ai, anh thuộc về độc giả, những người đã mộ mến dựng "nhà" trong tâm họ. Qua Thiên Hương, tôi gửi nhiều tâm sự tới anh. Nhưng không bao giờ tới. Chuyến đi ấy đã trở thành định mệnh của vợ chồng cháu. Chuyến máy bay trở về Pháp đã bị rơi trên không phận Thái Lan. Vài ngày trước đó khi chụp hình chung với vợ chồng tôi, con bé còn đùa: Chụp hình 3 người xui lắm cô chú ơi. 

Khoảng năm 1991, nhà văn V P, biên tập viên của BBC có ghé Biên Hòa thăm tôi muốn tìm hiểu cặn kẽ về thực hư chuyện làm ăng ten trong thời gian đi tù của anh DA ra sao. Tôi thật sự cay đắng. Biết bao người kinh nghiệm chính trường chính trị, dày cộm chủ thuyết học thuyết, uyên bác văn học văn chương sao lại không rõ chính kiến của một con người như DA đã trải tâm huyết qua hàng ngàn trang giấy như thế. Những kẻ đã tan hàng còn bị dí theo xua cho tan tác dẫm đạp lên nhau nghi kỵ nhau chụp mũ nhau vò nát nhau…thử hỏi, hỏi gì nữa đây.

Tôi vẫn nuôi ý định, không xa, mình sẽ có dịp trình bày những tấm bìa cho sách anh Duyên Anh khi tái bản rộng rãi, cả trong nước lẫn ngoài nước.

(Hình ảnh post kèm : Nhà văn DA- cầm bút tay trái- tại báo Người Việt, 1995- trích sách DA và tôi của nhà văn Vũ Trung Hiền )

Image may contain: one or more people and text





TUỔI NGỌC - DUYÊN ANH & TÔI
Trước năm 75, đã có những cuốn sách viết về DA. Sau này thêm nữa, nhiều những trang web công phu còn tổng hợp được nhiều tác phẩm của anh. Nhiều nhận định của các nhà văn, nhà phê bình tiếng Việt hay tiếng nước ngoài cũng đánh giá về văn nghiệp của DA, mà "hai đời văn trong một đời người"đã lưu lại tên tuổi. Tôi không đủ chữ nghĩa để thêm nữa, thực là như thế, trên vai tôi còn có nhiều đại thụ, và chính anh DA cũng là một đại thụ phủ bóng trên tôi. Mọi người nhắc tới tôi như một cặp đôi sóng tên nhau trên báo TN một thời. Thế thôi. Một thời sau lại khác, khi bỏ xứ mà đi, anh có nhiều bạn hơn, nhiều rượu và nhiều tiếng chửi thề hơn, nhiều ê chề vả nhiều trăn trở dằn vặt hơn. Khi thì ở Pháp, lúc qua Mỹ, nơi nào anh cũng cặm cụi như một thợ, phải viết, phải tuôn trào. Sách của anh in ở nhiều nơi, cả những ấn bản Anh và Pháp ngữ. Nhưng hình như cũng chỉ bọt bèo thôi, là phận bạc của người cầm bút. Còn hơn thế, phận bạc của người cầm bút khi đã lạc mất độc giả. Một tác giả từng có 10 ngàn ấn bản cho một lần in còn đòi thương lượng, đến khi chỉ mong in ra 5 trăm, còn phải trông đợi vào buổi ra mắt sách. Buồn này biết gửi về đâu, một thời đã trôi, một thế hệ đã qua rồi . Tôi nhận ra nỗi buồn này khi nhà văn cũng là nhà xuất bản VT Hiền hỏi anh: Những cuốn sách sắp tới anh định in với NXB nào. Anh đáp: Tuổi Ngọc. 

 Vỡ Lòng Ca Dao, Về Với Ca Dao, Ca Dao Quyện Lấy Miếng Ngon Dân Tộc, Những Đứa Trẻ Con Mỹ Hẩm Hiu, là tên của những cuốn sách anh DA viết bằng tay trái khi ở Pháp và ra mắt phát hành tại Mỹ, năm 1995. Sau đó không thấy tác giả "DA và Tôi" nhắc tới tên sách nào nữa. Dĩ nhiên cái tên TN chỉ còn mơ hồ, đã rơi hẳn về quá khứ. Logo của NXB Tuổi Ngọc là một bông Hướng Dương 12 cánh, là ấp ủ của anh em chúng tôi, chỉ đóng "mác" cho sách mình và những cây viết TN.( Lần cuối cùng, hàng ngàn ấn bản cuốn Bé Yêu với khổ nhỏ của DA khi in xong đã rơi vào những ngày cuối của tháng 4 năm 75 và không bao giờ phát hành). Cũng vắn số như TN, bông hướng dương ấy sớm héo rũ khi không còn thấy ánh mặt trời nữa.

Khi viết những dòng này tôi nghĩ tới có ai sẽ share nó hoặc trích đăng ở đâu đó. Không chính thức để ghi nhận hay bình luận về một con người hay sự kiện nào trong quá khứ. Nó không bao giờ là tài liệu. Xin coi đây chỉ là những tâm tình, những xúc cảm của một người về một thời, chia sẻ với những độc giả của TN mà tưởng đã thất lạc nhau mãi mãi, nay còn tìm lại. Một thời TN, một thời của chúng ta.
Cho đến bây giờ, khi những bữa ăn không thiếu gì rượu thịt, khi tuổi đời đã không còn đủ… răng đề ăn nữa, nhưng miếng ngon bao giờ cũng thuộc về quá khứ. Mà quá khứ thì không bao giờ thiếu vắng những người thân yêu được. Câu chuyện của tôi đây : Một buổi sáng anh DA kéo tôi vào quán nằm bám ngay sát tòa soạn (khi ấy tòa soạn trên đường PNL). Đúng nghĩa quán cóc, vì nó chỉ ghệ mái vào vách tường sát hẻm. Còn cóc hơn khi tô phở chỉ có 5 đồng. Cái tô nhỏ lại vơi, lều phều vài cọng vài miếng. Lùa vớt chỉ vài gắp chưa kịp tráng bao tử đã hết. Nhưng nước lèo chưa hết. Còn cơm nguội không bác Bảy? Tưởng đùa, nhưng bác chủ quán vui vẻ bươi ra hai chén cơm thiệt, cơ chừng vét nồi của tối qua, nó cũng vơi như hai tô phở. Trời ơi ! Các bạn đừng cười. Ngon như chưa bao giờ ngon thế. Và quý bả cũng đừng tìm hiểu sao cơm nguội chan nước phở lại tuyệt vời đến thế. Cứ ….LIKE đi rồi biết.


No automatic alt text available.

KỶ NIỆM CỦA VĨNH PHÚC (CỰU KÝ GIẢ BBC) VÀ DUYÊN ANH
(BÀI VIẾT NHÂN 20 NĂM TƯỞNG NIỆM NGÀY DUYÊN ANH MẤT)
http://hung-viet.org/a23718/duyen-anh
Hôm nay, mở Email, tôi thấy một bài, tựa đề 20 Năm Nhà Văn Duyên Anh Lìa Cõi Tạm. Kèm theo, có ít lời của Nguyễn Tiến Đức và ba bài viết về Duyên Anh của Nguyễn Hữu Ích, Đinh Tiến Luyện, và Julie.

Tôi biết gì về Duyên Anh?
Cái Email này khiến tôi không thể làm thinh sau mấy năm qua đã quyết định gác bút, bế môn tạ khách và diện bích. Lý do khiến tôi cầm bút lại, là vì lời nhắc nhở hai mươi năm nhà văn Duyên Anh lìa cõi tạm đã gây xúc động mạnh trong tôi. Tôi ngồi lặng người, để mặc cho bao nhiêu ký ức về Duyên Anh chợt dồn dập trở về. Thì ra, những sự việc tôi tưởng đã có thể quên được sau quyết định gác ngoài tai mọi chuyện đời để chỉ sống với mình, nay vẫn còn đậm nét và nguyên vẹn như mới xảy ra hôm qua, tuần trước. Tôi còn nhớ như in, chiều ngày 30 tháng chạp năm Bính Tý, từ Luân Đôn tôi bàng hoàng nhận được tin Duyên Anh qua đời ở Paris ngày hôm trước. Tính theo dương lịch thì là ngày 6 tháng 2 năm 1997. Tang lễ cử hành 10 giờ sáng 14/2/1997, hoả thiêu lúc 14 giờ cùng ngày. Cuối cùng, tôi đi tới quyết định phải kể lại những điều tôi biết về Duyên Anh, để giúp những người ái mộ nhà văn hiểu rõ hơn về anh, đồng thời đính chính những hiểu lầm của người đời, do vô tình hay cố ý.
duyenanhNgay khi Duyên Anh sống trên trại đảo Pulau Bidong thuộc Mã Lai chờ được sang Pháp xum họp với vợ con, anh đã liên lạc với tôi ở Ban Việt ngữ đài BBC Luân Đôn. Và cũng vào thời gian này, rắc rối đã xảy ra. Hồi đó, có người kể lại với tôi rằng một số người trên đảo nghe nói là Duyên Anh làm ăng ten khi đi tù cộng sản, nên họ dọa đánh. Cũng trong thời gian này, con gái Duyên Anh là Vũ Nguyễn Thiên Hương gửi cho tôi và giáo sư Patrick Honey (cố vấn cho Ban Việt Ngữ – BBC ) bản thảo hai truyện Đồi Fanta, và Một Người Nga Ở Saigon. Tôi thấy trong Đồi Fanta tác giả mượn lời mấy đứa trẻ bụi đời, để chửi các nhân vật lãnh đạo cũ của VNCH như Nguyễn Vă Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ, hoặc nhà văn Mai Thảo. Tôi dùng bút chì đánh dấu những chỗ đó rồi chú thích đề nghị Duyên Anh bỏ các đoạn đó đi, với lý do chúng chỉ làm rẻ tác phẩm mà thôi. Sau đó tôi cảm động và ngạc nhiên khi thấy Duyên Anh nghe theo lời khuyên mà bỏ những đọan văn đó. Tôi mừng vì nghĩ rằng môt con người cao ngạo và bướng bỉnh như Duyên Anh mà bây giờ biết “tu tỉnh” và biết nghe lời khuyên hợp lý rồi chăng? Nhưng không lâu sau thì chứng nào vẫn tật nấy khiến tạo ra biết bao nhiêu là hệ lụy. Tuy nhiên, trong mối giao tình suốt gần hai thập niên 1980 – 90, đã có những lần Duyên Anh chịu lắng nghe tôi.
Có thể nói rằng Duyên Anh mang một cuộc sống nội tâm nhiều dằn vặt. Phải chăng điều này tạo ra một Duyên Anh bề ngoài khinh mạn, bướng bỉnh, phá phách? Có những chuyện riêng tư dường như Duyên Anh chỉ giữ kín trong lòng không hề thố lộ với ai, kể cả người bạn thân nhất, từng gắn bó với Duyên Anh từ thời trai trẻ hàn vi hồi mới di cư, từng hy sinh rất nhiều cho Duyên Anh cả về vật chất lẫn tinh thần, là Đặng Xuân Côn. (Đặng Xuân Côn lớn tuổi hơn Duyên Anh nhưng lấy cô em vợ Duyên Anh – cô Minh ). Đây là ví dụ cho thấy tình thân giữa hai người bạn, và sự hy sinh của Đặng Xuân Côn dành cho Duyên Anh như thế nào: Hồi hai người còn nghèo, với đồng lương thư ký và chỉ đi làm bằng chiếc xe mô-bi-lét cọc cạch, mà Đặng Xuân Côn dám mua chiếc xe vespa mới toanh đầu đời cho Duyên Anh. Và ba lần vợ Duyên Anh đi sanh, thì chính Đặng Xuân Côn là người vào bảo sanh viện trông nom săn sóc sản phụ và hài nhi, khiến cho các bác sĩ và y tá cứ tưởng Đặng Xuân Côn là cha mấy đứa trẻ!
Tôi nghĩ rằng hệ lụy đeo đẳng cuộc đời Duyên Anh có lẽ đã từ khi Duyên Anh kết hôn. Duyên Anh theo đạo Phật trong khi vợ theo đạo Chúa. Song hình như Duyên Anh cũng không quan tâm chuyện tôn giáo. Nguyễn Ngọc Phương – vợ Duyên Anh – là con nhà đại điền chủ Mìền Nam Nguyễn Ngọc Đề, em Phó Tổng thống thời đệ Nhất Cộng Hòa Nguyễn Ngọc Thơ. Ở Long Xuyên có con kinh gọi là Kinh Ông Đề, chính do cha vợ Duyên Anh cho đào để đem nước vô giúp dân làm ruộng. Dù lấy vợ nhà giàu và có thế lực nhưng Duyên Anh hầu như không nhờ nhà vợ gì cả, vì mẹ ruột Ngọc Phương mất sớm, và ba chị em gái gặp bà dì ghẻ khắc nghiệt. Tuy vậy cũng khó tránh được “lời ong tiếng ve” và chính Duyên Anh sau này có viết mấy lần về thái độ xem thường của cậu em vợ, để rồi khi đã có danh vọng thì Duyên Anh “tuyết hận “ (chữ của Duyên Anh). Sau này nhờ có dịp tiếp xúc nhiều nên tôi được biết khá rõ về tính tình của vợ Duyên Anh. Chính vì giữa hai vợ chồng không có được mối quan hệ hoà thuận kẻ tung người hứng, hiểu nhau, thông cảm cho nhau, nên gia đình thỉnh thoảnh xảy ra cảnh bất hoà. Theo ông Trần Kim Tuyến, hồi những năm trước 1975, cứ trung bình khoảng 2 – 3 tháng, vợ Duyên Anh lại đến khóc lóc nhờ ông và linh mục Thiên Hổ (Nguyễn Quang Lãm, báo Xây Dựng ) đi tìm Duyên Anh vì anh chàng cãi nhau với vợ, đã bỏ nhà đi biệt. Hai vị niên trưởng lại phải cho người đi dò la tin tức Duyên Anh, rồi khuyên nhủ hắn về với gia đình. Đã đành vợ chồng nhà nào cũng đôi khi có chuyện mà người ta gọi là “bát đĩa có khi xô”. Nhưng với Duyên Anh hình như tình trạng này không phải chỉ xảy ra “thỉnh thoảng”. Sau này, khi đã lâm cảnh mất nước, mất nhà, thân đi tù đi tội, thế mà cũng vẫn còn cảnh xào xáo lục đục. Lắm khi tôi cứ giả thiết: nếu Duyên Anh lấy một người vợ tính tình nhu mì, biết cách chiều chồng, biết nhẫn nhịn chịu đựng, thì có lẽ Duyên Anh đã không gây gỗ và có cuộc sống gia đình thật hạnh phúc. Duyên Anh ham bạn, rồi khi có sẵn đồng tiền thì lại ham chơi vung vít. Khi sống cuộc đời tỵ nạn ở Paris, không còn tiền để vung vít nữa, nhưng tính ham bạn vẫn còn. Cộng thêm hoàn cảnh sống gò bó cả tinh thần lẫn vật chất, nên càng thèm bạn và chỉ còn cách tìm sự khuây khỏa bằng ly rượu. Bởi vậy, trong một lá thư gửi cho tôi hồi cuối năm 1987 trước khi bỏ Paris sang Hoa Kỳ, Duyên Anh viết:
duyenanhguivinhphuc

Đây là lần duy nhất Duyên Anh thổ lộ tâm sự với tôi, còn bình thường không hề hé môi.
Trước đó không lâu, Duyên Anh tỏ ra buồn và cô đơn vì cuộc sống ở Paris không thích hợp với mình, nên đã làm bài thơ Lưu Đầy gồm 100 câu gửi tặng tôi.
duyenanhtangvinhphucbailuuday
Hiểu rõ tâm trạng Duyên Anh, tôi đã viết trả lời bằng bốn câu có giọng hơi trách móc như sau:
Đến được đây ta ở lại đây
Có ai vui kiếp sống lưu đầy
Sao vội quên câu “sông có khúc …”
Địa ngục, Thiên đàng, ai tỉnh say?

Viết như vậy, nhưng tôi biết rất rõ rằng Paris không phải nơi có thể cầm chân Duyên Anh được. Tuy nhiên, tôi vẫn muốn cho Duyên Anh biết rằng đất Mỹ cũng chưa hẳn sẽ là nơi thích hợp với anh. Bởi vì bây giờ thời thế đã đổi khác. Những người bạn mà anh tưởng có thể chia bùi sẻ ngọt, những người trước kia đã nhờ vả anh hoặc tỏ ra hào sảng với anh; tất cả bây giờ đã đổi khác rồi. Sẽ khó trông mong gì ở họ. Có kẻ gặp vận may trở nên khá giả, nhưng họ làm mặt xa lạ chứ không nồng nhiệt với anh. Có những người còn tình nghĩa nhưng lâm cảnh “ốc chưa mang nổi mình ốc làm sao mang cọc cho rêu”. Tôi cũng nhắc nhở Duyên Anh rằng nếu vẫn cứ muốn đi Mỹ thì phải rất thận trọng. Vì đất Mỹ vốn có lối sống rất bạo động, mà bằng cách ăn nói, viết lách đụng chạm, gây thù oán với nhiều người của Duyên Anh, thì khó tránh được tai họa.
Nhưng sau khi đọc hai lá thư cuối cùng của Duyên Anh viết từ Paris, tôi mới hiểu rõ thêm những nguyên nhân thúc đẩy Duyên Anh có quyết định dứt khoát. Trước nhất là sự việc liên quan đến buổi ra mắt 3 băng cassette nhạc do Duyên Anh thực hiện. Trước đó một thời gian Duyên Anh viết cho tôi, nói rằng cần tiền để làm việc này. May mắn là một mạnh thường quân giúp một khoản lớn, một vài anh em khác ủng hộ những món nhỏ. Và Duyên Anh ngỏ ý “vay” tôi một khoản nhỏ, hứa bán xong cassette sẽ trả ngay. Tôi đã gửi “ủng hộ, chứ không vay mượn gì cả”. Chẳng ngờ, khi buổi ra mắt băng nhạc được tổ chức khá xôm tụ với hy vọng tràn trề của Duyên Anh, thì bất ngờ vợ Duyên Anh ập đến phá đám. Bởi vì vị mạnh thường quân của Duyên Anh là một phụ nữ. Người này tôi đã biết, và khoảng nửa năm trước đã mời tôi cùng Duyên Anh về nhà ăn cơm. Đây là một phụ nữ đã có 2 con gái học trung học và đại học ở Mỹ. “Bị” mời thì tôi đến, nhưng tôi không tỏ ý kiến tán thành hay phản đối mối liên hệ này của Duyên Anh. Vì tôi nghĩ bạn tôi đã quá khôn ngoan từng trải và nhiều tài hoa. Do đó đi đến đâu cũng có rất nhiều người mến mộ. Đó là chuyện … bình thường. Còn tôi “tài hèn trí đoản”, nên chỉ biết an phận mà thôi. Vì vụ đánh ghen bất ngờ đó mà Duyên Anh và vị mạnh thường quân được bằng hữu đưa vội ra cửa sau, biến mất; còn quan khách cứ tự động giải tán trong sững sờ. Sau đó, vợ Duyên Anh tịch thu hết băng nhạc, cho nên không ai mua được, và chỉ một số rất nhỏ bạn thân của Duyên Anh có được các băng nhạc đó mà thôi. Sau vụ này Duyên Anh viết cho tôi:

thubutduyenanhguivinhphuc
Tất nhiên, không khí gia đình Duyên Anh càng kém vui hơn. Có lẽ sự dằn vặt của vợ đã khiến cho Duyên Anh đi đến quyết định dứt khoát là bỏ gia đình, bỏ Paris để đi Mỹ, mặc dù chưa có quốc tịch Pháp, mà cũng chẳng có một thứ bảo hiểm nào cả, trong đó bảo hiểm du lịch là tối quan trọng. Chính vì vậy mà khi bị hành hung ngày 30/4/ 1988, Duyên Anh lâm vào tình trạng rất bi đát.
Trong lá thư cuối viết từ Paris để tỏ cho tôi biết quyết định dứt khoát, Duyên Anh viết: ….

thubutduyenanhguvinhphuc
Hình như khi sang Mỹ, Duyên Anh đến ở với gia đình Đặng Xuân Côn một thời gian ngắn, rồi đi gặp một số bạn cũ và mới, rồi cũng viết cho một hai tờ báo (hồi đó báo chí VN ở hải ngoại còn phôi thai lắm). Và dĩ nhiên, Duyên Anh cũng đả kích vung vít khá nhiều người. Đụng chạm lớn nhất có lẽ là với mặt trận Hoàng Cơ Minh mà nghe nói hồi đó đang phát triển mạnh lắm.
Những hệ lụy do Duyên Anh tạo ra khiến đưa đến vụ hành hung thô bạo. Tôi thương và buồn cho Duyên Anh. Không lâu sau khi Duyên Anh đến Paris từ Pulau Bidong, tôi đã sang ngay để phỏng vấn và tường thuật trên BBC. Còn nhớ, tôi đã chỉ mặt Duyên Anh mà bảo: “Thôi nhé. Từ nay hãy chôn bỏ những thằng Thương Sinh, Bếp Nhỏ, Thập Nguyện v.v… mà chỉ giữ lại thằng Duyên Anh nhé! Để cho người ta thương và tránh gây thù chuốc oán. Vả lại, viết lách và làm báo ngoài này rất khác với trong nước như cách các ông quen làm trước 1975”. Khi đó, Duyên Anh đã cười, trả lời, “Tôi hứa với ông và thề sẽ chỉ giữ lại một thằng Duyên Anh thôi”. Và vợ Duyên Anh đã đúng khi nói: “Anh Duyên Anh thề cá trê chui ống!”

Những huyền thoại quanh vụ Duyên Anh bị hành hung.
Đã 29 năm rồi, kể từ cái ngày định mệnh 30/4/1988, ngày nhà văn Duyên Anh bị đánh suýt vong mạng. Lúc đó là 5 giờ sáng giờ Luân Đôn. Chuông điện thoại reo, tôi ngạc nhiên bật dậy khỏi giường và lẩm bẩm, “Ai gọi sớm thế!” Đầu giây bên kia, tiếng vợ Duyên Anh khóc và kể rằng chồng bị người ta đánh hôn mê bất tỉnh, chắc là chết mất! Tôi sững sờ, hỏi xem tình trạng Duyên Anh ra sao. Chị Ngọc Phương vẫn mếu máo, bảo, “đưa vào nhà thương, nhưng vì anh Duyên Anh không có giấy tờ, không có bảo hiểm, nên chúng nó vất nằm một xó như con chó, không biết gì cả. Anh làm ơn gọi ngay cho bệnh viện, bảo lãnh cho anh Duyên Anh, thì họa may họ mới chữa cho. Anh làm ngay đi!” Tôi hỏi tên bệnh viện, số điện thoại, và tên bác sĩ trực hôm đó. Vợ Duyên Anh cho mọi chi tiết. Bây giờ tôi chỉ còn nhớ được ông bác sĩ hôm đó có tên Fernandez (?) nên đoán ông ta gốc Mễ. Tôi gọi ngay, xin nói chuyện với ông ta, xưng tên họ, là Senior Producer trong đài BBC London, cho số điện thoại sở cũng như nhà riêng, kèm theo địa chỉ. Tôi cho biết Duyên Anh là một nhà văn nổi tiếng của VNCH, từ Paris sang Mỹ chơi, chứ không phải một tên vô gia cư (homeless ). Và tôi thay mặt gia đình Duyên Anh, hứa sẽ thanh toán mọi phí tổn của bệnh viện. Sau đó, tôi gọi luôn đại diện PEN CLUB International ở Mỹ, nói cho biết sự thể, và đề nghị họ cũng gọi cho bệnh viện để giới thiệu thân thế và sự nghiệp Duyên Anh. Tôi lại gọi đại diện Secours Catholique của Pháp (một Tổ chức Thiện nguyện Công giáo) yêu cầu họ làm tương tự. Rồi sau được biết là Đặng Xuân Côn và con trai lớn của Duyên Anh là Vũ Nguyễn Thiên Chương đã từ Texas bay sang ngay để săn sóc cho Duyên Anh và lo mọi thủ tục giấy tờ.
Tôi yên tâm vì Đặng Xuân Côn và Thiên Chương đã có mặt ngay bên cạnh Duyên Anh. Rồi được biết là sau một thời gian chữa trị trong bệnh viện, Duyên Anh được cho về. Một mạnh thường quân dấu tên (sau này nghe nói là Bùi Bỉnh Bân ), đã bí mật đem Duyên Anh về tiếp tục săn sóc. Theo gia đình Duyên Anh thì người này phải giữ hoàn toàn bí mật, vì vào thời điểm đó người Việt tỵ nạn sống ở Mỹ rất hoang mang sau vụ Duyên Anh bị hành hung. Trước đó đã thỉnh thoảng có người bị khủng bố hoặc sát hại vì bày tỏ thái độ chính trị. Vợ con Duyên Anh còn sợ rằng kẻ thù sẽ tiếp tục truy tìm để làm cho Duyên Anh chết luôn hầu bịt miệng. Cơ quan FBI gặp bế tắc vì cộng đồng người Việt tại Orange County không có ai dám hợp tác để giúp cho cuộc điều tra truy tìm hung thủ. Người ta sợ và hèn!
Trong khi đó, lại không thiếu những tin đồn, những lời rỉ tai trong quần chúng cũng như trong giới cầm bút về tình trạng sức khoẻ của Duyên Anh. Những người bạn tốt muốn tìm hiểu sự thực cũng mù tịt, trong khi có người tung tin là Duyên Anh đã về Pháp rồi. Thậm chí có một vài ông trong giới cầm bút còn tuyên bố (như thật) rằng Tổng thống Mỹ ra lệnh dùng một chuyến bay riêng để đưa Duyên Anh về Pháp, có nhân viên FBI đi theo bảo vệ! Ông khác lại nói rằng Tổng thống Pháp ra lệnh đem một máy bay đặc biệt sang đưa Duyên Anh về Pháp. Ấy thế mà người Việt mình quả thật quá dễ tính, cứ tin là có thật. Nực cười nhất là cho đến tận ngày nay mà vẫn còn có nhiều người tin như vậy.
Vậy sự thật ra sao? Sự thật là sau một thời gian chờ đợi cho Duyên Anh phục sức để có thể ngồi máy bay về Pháp, tổ chức thiện nguyện Secours Catholique của Pháp gửi tặng 2 (hai) vé máy bay. Một cho Duyên Anh và một cho một người thân đi theo săn sóc. Chỉ có vậy thôi. Và từ đó, tại Paris, mỗi tuần Duyên Anh phải vào bệnh viện mấy lần để cho bác sĩ theo dõi sức khoẻ, rồi được cho tập vận động nhẹ nhàng (physio therapy), nếu không thì sẽ bị bại liệt luôn. Thế rồi, với thời gian, với việc tập vận động, lần lần Duyên Anh sử dụng được tay trái và chân trái. Nghĩa là nửa người bên trái phục hồi tuy không mạnh như xưa, còn nửa bên phải vẫn liệt. Tôi lại luôn luôn gọi qua Paris khích lệ để Duyên Anh đừng nản chí. Tôi thường nhắc Duyên Anh về một thí dụ mà chính Duyên Anh đã viết trong truyện của mình về tấm gương nghị lực và ý chí phấn đấu không chịu khuất phục trước nghịch cảnh, đó là con gọng vó (một loài nhện nước chân dài lêu khêu trông như những gọng của cái vó đánh cá). Trong một đoạn văn, Duyên Anh tả con gọng vó đứng trên một dòng nước chảy xiết. Nó bị dòng nước cuốn xuôi, nhưng không chịu thua. Nó gắng hết sức vượt lên, ngược dòng. Rất nhiều lần nó bị cuốn xuôi, nhưng nó nhất định không chịu khuất phục, lại vượt lên ngược dòng. Và tôi đã nhắc Duyên Anh hình ảnh con gọng vó để cho Duyên Anh lên tinh thần, khắc phục nghịch cảnh. Duyên Anh hứa với tôi sẽ làm như con gọng vó. Qủa nhiên, một thời gian sau, Duyên Anh đã viết bằng tay trái khá nhanh, tuy không đẹp được như ngày xưa viết bằng tay phải. Ngày xưa Duyên Anh nổi tiếng viết khá nhanh, chữ nhỏ li ti như con kiến, và rất đều, thẳng tắp. Bây giờ viết tay trái không nhanh và đẹp bằng, nhưng chữ cũng nhỏ và đều đặn.

thubutduyenanhguivinhphuc20091992
Họa Vô Đơn Chí
Duyên Anh bị hành hung 30/4/1988, còn đang thời kỳ phục hồi sức lực và gậm nhấm đau thương thì thảm họa lại bất ngờ chụp xuống đầu anh một lần nữa. Đó là sự mất đi đứa con gái duy nhất mà Duyên Anh rất thương vì cháu rất thông minh lanh lợi: Vũ Nguyễn Thiên Hương cùng chồng tử nạn trong chuyến máy bay trở về, sau chuyến đầu tiên về thăm quê nội làng Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Chồng của Thiên Hương là David McAree, một thanh niên hiền lành gốc Tô Cách Lan. David nói tiếng Việt khá giỏi và trước kia có thời gian làm cho đài BBC. Khoảng gần cuối năm 1988, một hôm vợ Duyên Anh gọi điện thoại than phiền với tôi rằng con gái muốn đem chồng về thăm quê nội, nhưng chị không muốn. Chị cố thuyết phục và ngăn cản, nhưng nó vẫn giữ ý định. Cuối cùng, chị nói, “Tao bảo mày không nghe, mày cứ đi, nếu mày có rớt máy bay mày chết, tao cũng không thương đâu!” Tôi kêu lên, “Sao chị ăn nói gì kỳ cục vậy? Nói gở như vậy, nếu rủi có chuyện gì xảy ra thì chị sẽ ân hận suốt đời đấy!” Rồi vì bận rộn công việc, tôi cũng quên chuyện đó. Cho tới một hôm, em trai của Thiên Hương là Thiên Sơn gọi điện thoại sang báo tin, “Bác ơi! Chị Hương cháu tử nạn máy bay rồi! Bố cháu bảo cháu báo tin cho hai bác.” Tôi như bị điện giật, sững người đi một lát mới hỏi, “Sao? Còn thằng David? Bố cháu nay ra sao?” Sơn đáp: “Cả anh David cũng chết luôn. Bố cháu chỉ ngồi yên, không nói gì.”

vietnamairlineflight831chocingaiduyenanhbirot
Thì ra, vợ chồng cháu Hương về Việt Nam, ghé về quê nội thăm họ hàng. Ở chơi ít ngày, David còn nhảy xuống tắm ở ao làng, cả làng ra xem. Không ngờ trên chuyến bay đến Bangkok trước khi về Pháp thì máy bay đâm xuống ruộng lúa khi gần tới thủ đô Thái Lan làm 76 người thiệt mạng. Bà mẹ góa của David McAree xin đem hài cốt của con trai và con dâu về chôn trong hai ngôi mộ cạnh nhau ở gần nhà, trên Tô Cách Lan. Một thời gian sau, vợ chồng Duyên Anh được Thiên Chương là con trai lớn cùng Đặng Xuân Côn từ Mỹ sang, đưa đi thăm mộ Thiên Hương trên Tô Cách Lan. Họ ghé nhà tôi ở Luân Đôn làm trạm nghỉ chân ít ngày. Vợ Duyên Anh không ngớt cằn nhằn chồng tại sao để cho bà suôi gia giành lãnh hết tiền bồi thường của hãng hàng không. Phần Duyên Anh chỉ nói, “Cái mạng con mình đã mất rồi, còn chẳng giữ được, tranh giành tiền bạc để làm gì?”
Những tháng năm cuối đời
Bị tàn tật, chỉ sử dụng có nửa người bên trái, lại bị thêm thảm họa mất con gái, Duyên Anh như chết lịm hẳn đi. Nay trong mắt người vợ, Duyên Anh mất giá hẳn. Cho nên Duyên Anh lại càng phải nghe những lới cằn nhằn vốn đã quá quen thuộc. Tôi không ngạc nhiên khi thấy Duyên Anh rất muốn thoát khỏi không khí tù túng của gia đình. Thỉnh thoảng Duyên Anh sang ở với tôi ít ngày. Trong những dịp như thế, tôi lại đưa lên thành phố Cambridge cho thăm ông Trần Kim Tuyến và nhà văn lão thành Lãng Nhân Phùng Tất Đắc. Những lúc như thế, Duyên Anh vui lắm, cứ như cá gặp nước. Tuy nhiên, tôi vì bận công việc nên khó thu xếp thời giờ để luôn luôn giúp bạn vui. Ngay như ở Paris, không dễ gì để Duyên Anh có thể đi đây đi đó gặp gỡ bạn bè. Họa hoằn mới nhờ được người đem xe đến chở đi. Và người có lòng tốt cũng lại ngại ngùng không muốn làm phật lòng bà Duyên Anh. Hình như bà không muốn chồng đàn đúm, vui vẻ với bạn bè. Ngày xưa Duyên Anh còn khoẻ mạnh, sẵn tiền bạc, danh vọng, thì có lý do chính đáng để bà giữ chồng vì sợ tính nết trăng hoa của chồng đã đành. Nhưng nay Duyên Anh đã tàn phế, thất thế, không tiền bạc, mà bà cũng không muốn cho chồng ra ngoài. Cho nên Duyên Anh lại càng buồn bực khổ sở.
Khoảng giữa năm 1995, chẳng hiểu vì sao, Duyên Anh phải kéo lê cái va-ly nhỏ, được bà đầm hàng xóm kêu giùm cái xe taxi, để đến tá túc ở nhà bà Bích Thuận. Rồi bà Bích Thuận bị vợ Duyên Anh gọi điện thoại dùng lời lẽ khá bất nhã. May quá, dịp đó bác sĩ Tuyến đang có mặt ở Paris, liền mua vé máy bay cho Duyên Anh sang Luân Đôn, định đến ở nhà tôi. Nhưng lại gặp rủi, là vì đúng ngày hôm sau tôi phải lên đường đi Việt Nam trong công tác của BBC kéo dài sáu tuần lễ. Nên Duyên Anh phải lên Cambridge ở 3 tuần với bác sĩ Tuyến. Sau đó ông lại mua vé cho Duyên Anh sang Mỹ. Sang California, Duyên Anh được một số đàn em cưu mang: ở với Vũ Trung Hiền một thời gian, rồi Nguyễn Kim Dung đón về ở một thời gian.
Trong những năm này, có lần Duyên Anh trở về Paris để lấy quốc tịch Pháp. Nghe nói cũng thời gian này, FBI cử nhân viên sang Paris gặp Duyên Anh, cho biết họ đã tìm ra kẻ hành hung Duyên Anh trước kia. Nếu Duyên Anh muốn thì khởi tố, họ sẽ bắt và đưa hung thủ ra toà. Nhưng Duyên Anh trả lời rằng anh không muốn làm gì nữa. Người Mỹ làm việc quá chậm, còn anh thì đã cảm thấy chán hết mọi chuyện rồi. Thôi hãy bỏ đi! Cho nên vụ án này chìm và bị quên luôn! Không phải tới năm đó Duyên Anh mới “bỏ qua” vụ án. Năm 1991 Duyên Anh sang nhà tôi. Tôi đã phỏng vấn để phát trên đài BBC. Khi được hỏi về vụ bị hành hung, Duyên Anh trả lời không còn thù hận gì những kẻ hành hung mình. Duyên Anh bảo họ cứ sống thản nhiên, đừng lo ngại. Theo anh, có thể người ta nghĩ rằng anh đã sợ. Nhưng ai muốn nghĩ sao tùy ý.

Điều sót sa đau đớn cho Duyên Anh là trong những tháng năm cuối đời, khi đã thất thế, thân thể tàn tật, chỉ có thể sử dụng được tay trái và chân trái, nói năng cũng chậm chạp, đầu óc không còn minh mẫn như xưa, nên lắm khi cần phải có người giúp đỡ trong các sinh hoạt hàng ngày, tuy rằng vốn là người nhiều nghị lực và tự ái, Duyên Anh cố gắng, không muốn nhờ vả ai cả. Ngay trong gia đình đã thiếu đi tình thương yêu và sự an ủi săn sóc của một người vợ hiền. Cứ nhìn cảnh Duyên Anh ngồi ăn cũng đủ thấy hoàn cảnh bi đát của anh. Thường thường, Duyên Anh thích được ăn cơm để trong cái tô lớn, có chan canh, để có thể dùng tay trái xúc bằng muỗng mà ăn. Gặp những món ăn cứng, thái miếng to, hay phải gắp bằng đũa, thì chịu chết! Đã vậy, còn bị đổ vãi ngoài ý muốn. Có khi chỉ vì một sự bất ưng ý nào đó, tô cơm đang ăn bị lấy đi, đem đổ vào thùng rác! Cho nên, đã từ lâu rồi, Duyên Anh chỉ muốn vùi đầu vào ly rượu để quên đời, quên sầu tủi.
Con người Duyên Anh
Cái xấu
Ai cũng biết rõ là Duyên Anh có quá nhiều kẻ thù. Ấy là do tính tình ngang bướng, cao ngạo. Nhưng tại sao Duyên Anh có giọng điệu cao ngạo, xem thường thiên hạ? Tôi đã hỏi thẳng Duyên Anh điều này thì được trả lời,
“Ông thấy tôi khi vào đời chưa nổi tiếng, chưa là cái gì cả, chỉ mới viết được có vài bài phóng sự gây tiếng vang, thế là linh mục Trần Du (nhật báo Hoà Bình ) vội “đội” tôi lên. Rồi khi tôi “đánh” vài thằng tướng tá, chính khách tham nhũng và hèn, thì chúng nó “cúp đuôi” lại. Còn các bậc đàn anh mà tôi tin tưởng và quý trọng, hoá ra toàn là phường đạo đức giả hết. Thế thì làm sao tôi không khinh chúng nó, tôi không lộng?”
Khi đã có “thế” rồi, Duyên Anh khinh đời, bắt đầu viết lách, ăn nói bừa bãi, xem trời bằng vung, thì thiên hạ lại càng ngán. Cũng có người giữ thái độ “tránh voi…” hoặc “không dây với hủi”. Tôi hỏi Duyên Anh rằng ngày xưa có bao giờ dùng ngòi bút để tống tiền người ta không, thì được trả lời,
“Không. Nhưng khi tôi mới tung ra một bài điều tra về chuyện lem nhem ở một bộ — như Bộ Kinh tế chẳng hạn – thì lúc tôi đang ngồi ở bàn phé, tên bộ trưởng cho anh thư ký đem đến cho tôi cái phiếu mua xe lambrette rẻ. Một lát sau, một anh khác đến xưng là người nhà của đối thủ của anh Bộ trưởng, đưa tôi một phong bì. Tôi đang thua phé, thì dại gì không nhận hết? Còn hôm sau tôi viết gì là chuyện khác! Tôi chẳng bênh thằng nào cả. Cần phang là tôi vẫn phang.”
Duyên Anh còn có lối ăn nói như vả vào mặt người đối thoại khi không bằng lòng người ta, bất kể thân, sơ. Ví dụ một lần ngồi ăn ỏ Paris, trong cuộc tranh luận với Lê Trạch Lựu (tác giả bài Em Tôi) về âm nhạc và liên quan đến nhạc sĩ Lương Ngọc Châu. Lê Trạch Lựu lớn tiếng khoe: “Mày nên nhớ là tao ở gần anh Lương Ngọc Châu mấy chục năm rồi nhé!” Duyên Anh đáp liền: “Mày ở gần anh ấy mấy chục năm thì mày biết được anh ấy có mấy cái mụn ghẻ, chứ mày biết gì?” Chúng tôi phì cười cả. Một lần khác, tôi và Duyên Anh đang ngồi trong quán thì một anh tên M. ở Paris đã lâu nhưng chẳng có sự nghiệp gì cả, bước vào và đến bàn chúng tôi nói giả lả mấy câu. Chẳng ngờ Duyên Anh chặn liền: “Thôi anh hãy đi về mà tắm đi đã, vì anh hôi lắm không thể nói chuyện văn nghệ với chúng tôi được!” Tôi đá nhẹ vào chân Duyên Anh dưới gầm bàn ra ý trách móc. Thì Duyên Anh nói nhỏ: “Thằng này chuyên đi dò la rồi báo với Pháp những quán ăn, cửa hiệu nào của người Việt trốn thuế, tôi khinh nó!” Lại một lần khác trong quán của bà Đào Viên là bạn chúng tôi, một anh ăn mặc có vẻ diêm dúa, sán đến nịnh Duyên Anh: “Tôi rất quí anh Duyên Anh. Tôi thích những anh em làm văn nghệ như anh.” Ai ngờ Duyên Anh đập lại liền: “Anh biết gì về văn nghệ mà đòi nói chuyện văn nghệ với chúng tôi?” Ngoài ra, Duyên Anh còn bị nhiều người ghét, vì thói viết chửi bới người ta. Số người bị là nạn nhân của Duyên Anh không ít. Đến nỗi một lần mấy thân hữu ở Paris nói với tôi, “Ông Duyên Anh chửi hết mọi người, chẳng từ ai cả. Chỉ còn có ông Vĩnh Phúc là chưa bị chửi thôi. Chưa, chứ không hẳn là không đâu nhé!” Tôi chỉ cười. Chứ còn biết nói sao? Tuy nhiên, hình như Duyên Anh có sự đối xử đặc biệt dành cho tôi? Có những lần bị tôi nói thẳng, sửa lưng, mà Duyên Anh không giận. Hay là Duyên Anh thấy tôi… vô hại, nên không chấp? Tôi thấy một điều là Duyên Anh rất thèm bạn, những người bạn chân tình, không dối trá.
Cái tốt
Nhân vô thập toàn. Ngoại trừ các bậc thánh, còn phàm nhân, ai cũng có một phần xấu và một phần tốt. Những bậc hiền sĩ, những người giàu lòng khoan hòa độ lượng thì sẵn sàng bỏ qua cái xấu, lỗi lầm của tha nhân. Riêng tôi dễ chấp nhận một người bạn với cả cái xấu lẫn cái tốt, miễn là người đó thực lòng với tôi. Có người hỏi tôi tại sao Duyên Anh tai tiếng và có nhiều kẻ thù như vậy mà tôi vẫn thân. Tôi chỉ có thể trả lời rằng chắc chắn tôi không thuộc số những người thù ghét Duyên Anh, và vì tôi quí tài của Duyên Anh.
Theo tôi, Duyên Anh đa tài. Nếu tài của Văn Cao bao trùm ba lãnh vực thi, nhạc, họa, thì Duyên Anh cũng có khả năng cao khi viết văn, làm thơ, và sọan nhạc. Nhưng trước hết, cũng cần nói rằng Duyên Anh là người thông minh, lanh trí, óc tưởng tượng phong phú, và có một trí nhớ rất đáng nể (khi chưa bị đánh đến chấn thương não bộ). Học hành chẳng có bằng cấp gì, nhưng chịu đọc, chịu học ở trường đời; và sự hiểu biết, sự suy nghĩ vượt xa nhiều người mang những học vị cao. Có lần ngồi uống rượu ở Paris, khi đã líu luỡi rồi, mà Duyên Anh còn có thể đọc liền một lúc 390 câu thơ anh đã làm trong tù. Ở nhà tôi bên Luân Đôn, Duyên Anh nói, “Ông cứ cho tôi uống rượu đi, tôi say, tôi đọc thơ cho ông nghe.” Duyên Anh không thích rượu mạnh, chỉ uống rượu chát, và hai thứ anh ưa nhất là Côte du Rhône và Beaujolais. Tuy nhiên nếu bạn bè khui rựơu hiệu gì, Duyên Anh cũng hoan hỉ chấp nhận, không kén chọn.
Về tài năng làm thơ và viết tiểu thuyết của Duyên Anh, hiển nhiên tôi chẳng cần đề cập. Nhưng có lẽ rất ít người biết là Duyên Anh cũng viết nhạc. Và đáng lẽ đã có 3 băng cassette được trình làng khoảng giữa năm 1987. Đó là các băng Ru Đời Phù Ảo, Còn Thoáng Chiêm Bao, và Hôn Em Kỷ Niệm, nhưng buổi ra mắt ở Paris bất ngờ tan vỡ vì bà vợ Duyên Anh đến phá khiến cho Duyên Anh và vị “nữ mạnh thường quân” phải biến mất qua cửa sau. Tất cả các băng nhạc bị vợ Duyên Anh thu hết không cho bán ra. Bởi vậy nhạc của Duyên Anh chìm luôn, chỉ vài bạn thân còn giữ được do Duyên Anh gửi tặng từ trước. Sau này nhân một dịp Mai Hương được mời hát mấy bản ở California, nên có một số người được biết và còn nhớ. Nhạc của Duyên Anh mang nét đặc biệt khác lạ, từ những nốt đang hát khó đoán được những nốt kế tiếp. Chính Mai Hương đã nói rằng “nhạc của Duyên Anh khó hát. Nếu vô ý rất dễ rớt đài.” Ngoài ra, ý và lời đẹp, nhiều tính sáng tạo, giống như ý và lời trong văn và thơ của Duyên Anh vậy.
duyenanh2
Nguồn: duyenanhvumonglong.wordpress.com
Theo tôi, trong Duyên Anh có hai con người. Nếu muốn cũng có thể bảo rằng hai con người đó tượng trưng cho hai mặt tốt và xấu của Duyên Anh. Mặt xấu chính là Duyên Anh làm báo, dưới những bút hiệu như Thương Sinh, Bếp Nhỏ, Thập Nguyên, Mõ Báo v.v., vì “đánh đấm” lung tung nên bị nhiều người oán ghét. Còn Duyên Anh nhà văn, nhất là nhà văn của tuổi thơ, nhà văn viết cho tuổi ô mai, Duyên Anh chủ trương tuần báo Tuổi Ngọc, thì trái hẳn lại, được nhiều người thương. Có ai đã đọc Con Sáo Của Em Tôi mà không thấy lòng mình chùng lại và dám nói là thù ghét Duyên Anh? Nguyễn Mạnh Côn là người đầu tiên đọc truyện ngắn này, thích quá, nên giới thiệu và chọn đăng ngay. Rồi Nguyễn Mạnh Côn bảo Duyên Anh, “Cậu viết hay quá! Nhưng tôi sợ rằng viết như thế này, cậu sẽ không thọ!”. Và câu nói của Nguyễn Mạnh Côn đã như một lời tiên tri: Duyên Anh lìa đời cách đây 20 năm, khi mới 63 tuổi. Vào thời buổi này, với những điều kiện vật chất văn minh và đầy đủ, mà sống có bấy nhiêu năm thì quả là “yểu mệnh” thật.

Vĩnh Phúc
Tháng 2, 2017


Tạp chí Văn số cuối cùng (26/03/1975) & Mục Lục Toàn Bộ Văn

$
0
0
Image may contain: 1 person


tháng tư tôi đến rừng chưa khóc
mưa vẫn chờ tôi ở cuối khuya
có môi chưa nói lời gian dối
và mắt chưa buồn như mộ bia

tháng tư nao nức chiều quên tắt
chim bảo cây cành hãy lắng nghe
bước chân ai dưới tàng phong úa
mà tiếng giầy rơi như suối reo

tháng tư khao khát, đêm vô tận
tôi với người riêng một góc trời
làm sao em biết trăng không lạnh
và cánh chim nào không bỏ tôi ?

tháng tư hư ảo người đâu biết
cảnh tượng hồn tôi : một khán đài
với bao chiêng, trống, bao cờ xí
tôi đón em về tự biển khơi

tháng tư xe ngựa về ngang phố
đôi mắt nào treo mỗi góc đường
đêm ai tóc phủ mềm nhung lụa
tôi với người chung một bến sông

tháng tư nắng ủ hoa công chúa
riêng đóa hoàng lan trong mắt tôi
làm sao em biết khi xa bạn
tôi cũng như chiều : tôi mồ côi ?

tháng tư chăn gối nồng son phấn
đêm với ngày trong một tấm gương
thịt xương đã trộn, như sông núi
tôi với người, ai mang vết thương ?

tháng tư rồi sẽ không ai nhớ
rừng sẽ vì tôi nức nở hoài
mắt ai rồi sẽ như bia mộ
ngựa có về qua cũng thiếu đôi !

tháng tư người nhắc làm chi nữa
cảnh tượng hồn tôi đã miếu thờ
trống, chiêng, cờ xí như cơn mộng
mưa đã chờ tôi. mưa...đã...mưa

mai kia sống với vầng trăng ấy
người có còn thương một bóng cây ?
góc phố đèn treo đôi mắt bão
ai nhớ ngàn năm một ngón tay ?
(DTL)

Tháng Tư -"thịt xương đã trộn, như sông núi/ tôi với người, ai mang vết thương ?"!!! 
Những câu chuyện sách vở, qua cơn trầm luân, qua điêu tàn “phần thư” còn được mở ra, nơi đó, những linh hồn đang còn muốn nói, nơi đó - những câu chuyện “ai giải oan ai sử nợ này…”(*) còn vướng vất mãi không thôi…

Nước mắt trước cơn mưa, đã vô tình, đã điềm-báo, đã oan-khiên, http://huyvespa.blogspot.com/2017/02/nuoc-mat-truoc-con-muahay-nhung-tap-chi.htmlvà hơn thế, những siêu nhiên cũng như một điềm chẳng lành…

 “Còn 1 điềm báo trước lúc chính quyền SaiGon thất thủ: Tại bãi biển Ninh Chư quê hương của Nguyễn Văn Thiệu hiện hữu 2 vật thể sừng sững trên biển: Hòn Đao & Mặt Quỷ theo nhà địa lí học ( Thầy Địa Lí) Lê Bá Hoà: Khi nào Hòn Đao chém Mặt Quỷ thì chế độ Đệ II CH mất!!! Thực vậy khi xảy ra hiện tượng thiên nhiên: Cây (hòn) Đao ngã & chém theo hướng vào mặt quỷ chính quyền thời bấy giờ cố gắng trục vớt để đẩy cây đao đứng trụ vững giữa biển trời nhưng mọi nỗ lực khoa học công nghệ, máy móc trục vớt đều vô vọng!!! Và kết quả tất yếu như chúng ta đã , đang & sẽ gánh chịu thế hệ 1000 năm cũng chẳng nhiều gì cho lắm!!! Còn nữa trước đó là đàn bướm hàng triệu, triệu con bay tràn về Vườn hoa Phan Thiết đầu tháng 2/1975!!!” (Comment trên facebook)

Những dự báo rùng mình khi VĂN số cuối cùng (ra ngày 26/3/1975) là chủ đề…VĂN HỌC NGHỆ THUẬT VIỆT NAM Ở HẢI NGOẠI)
Trong (những) số cuối cùng, đáng chú ý là những bài dạng NHẬT KÝ của MAI THẢO , những “kỷ niệm” rời, những “dấu ấn” hiu hắt “buồn vào hồn không tên” kéo dài từ Tết đến những ngày “gần cuối”vớimột phong cách rất mai-thảo … Đọc và hình dung ra dánh dấp của một văn sĩ nhỏ nhẹ
Số cuối cùng, trang cuối, giới thiệu những tập sách sẽ ra mắt, với dự án NHẬT KÝ MAI THẢO - Quyển sách dang dở và sau này, một cách nào đó, được nối tiếp bằng SỔ TAY MAI THẢO trên VĂN hải ngoại …
Và trước khi xem lại toàn bộ số VĂN cuối cùng này, cùng đọc lại một kỷ niệm buồn giữa nhà văn Viên Linh và thư ký toà soạn tạp chí Văn – Trần Phong Giao (**), một kỷ niệm xót xa giữa hai người nặng nghiệp với văn chương, hai nhân chứng của 20 năm huy hoàng một nền văn chương khai phóng và nhân bản, câu chuyện về một thân phận bất hạnh sau cơn hồng thuỷ - cũng là câu chuyện bất hạnh của những cái đẹp , của sách vở miền Nam không may đã cùng vào cuộc tử sinh trong cơn hồng thuỷ – Câu chuyện đã làm lòng tôi khẽ nhói lên một nỗi sầu dao cứa … và trong những kỷ niệm rời này, xác quyết một điều : “…Người ta quí sách cũ không hẳn vì nó hiếm, nó ít ra đã ghi dấu và mang trong lòng những tờ giấy mong manh những thần thức tinh hoa của một thời đại đã mất…” : 
“Có một hôm đang làm việc tại tòa soạn trong khu báo chí ở Little Saigon, một người đàn ông bước vào hỏi tên tôi, và vào đề ngay: “Nghe nói ông muốn mua sách báo cũ miền Nam, tôi có nguyên bộ tạp chí Văn, không thiếu số nào vì tất cả đã đóng gáy mạ chữ vàng, ông có muốn mua không?” Câu trả lời là có, và kinh nghiệm dạy rằng cần phải để xem người bán muốn bán đến độ nào, người bán là dân trong nghề văn nghề báo hay dân mại bản.
Tôi từng chưng hửng khi cách đó khoảng năm năm, một người ở Houston liên lạc về chuyện báo cũ, chủ đề là bộ Bách Khoa, và nói giá một cách rất hăng hái: phải 15,000 Mỹ kim mới bán. Bách Khoa có hai đời chủ nhiệm, sống được khoảng 18 năm, từ 1957 tới 1963 tên Bách Khoa, chủ nhiệm Huỳnh Văn Lang, thư ký tòa soạn Lê Ngộ Châu, từ 1964 tới 1975 phải đổi tên là Bách Khoa thời đại, vì ông Huỳnh là người của chế độ cũ, mà chế độ đó vừa bị lật đổ hồi 1 tháng 11 năm trước, nên ông Châu lên làm chủ nhiệm, sống thêm 11 năm nữa. Báo ra hai kỳ một tháng, nếu không “sốt tê” (nhảy) một số nào, số chót phải là 432, nhưng chắc chắn không tới con số bụ bẫm toàn vẹn đó, thiếu hụt đâu khoảng vài ba chục số. Thời Việt Nam Cộng Hòa, các tạp chí bán ra khoảng thập niên 60 trung bình, đổ đồng là 30 đồng một số, đầu thập niên 70 giá lên đến 200 đồng một số, đại khái so với Mỹ kim mỗi số báo chỉ giá vài chục xu, mà đòi bán 15,000 Mk bộ Bách Khoa khoảng 400 số, thì quá đáng, cho dù đã đóng bìa cứng mạ chữ vàng đi nữa. Bách Khoa như cái tên, bài viết có từ khoa học quân sự kinh tế chính trị đến văn học nghệ thuật, mình chuyên về có một môn, mua tờ báo có tới 5 môn, là mình không dùng tới 4 môn kia, phí quá.
Nhưng đó là một vụ lẻ loi. Người đàn ông tới tòa soạn tờ báo kiếm tôi muốn bán bộ tạp chí Văn 245 số đã đóng thành 42 tập. Ðương nhiên là tạp chí Văn đối với người viết văn đáng quí hơn là tạp chí Bách Khoa. Người bán không chịu ra giá. Hỏi nhiều lần anh cũng không nói. Người bán không nói giá, người mua không biết đâu mà tính, nhưng cứ khả năng mình, tôi nói sẽ biếu anh nguyên bộ Khởi Hành trị giá lúc ấy khoảng 300 Mỹ kim, cộng thêm 1500 Mỹ kim tiền mặt, anh nhìn tôi lặng lẽ đi ra. Khoảng vài chục thước, anh quay lại nói: “Tôi nợ credit card sát ván rồi, nên mới phải bán bộ báo Văn.” Hỏi anh bộ báo của chính anh mua rồi mang từ Việt Nam qua hay của ai, anh nói khi còn ở Việt Nam, anh chỉ mua tiểu thuyết đọc, chứ không mua tạp chí.

Nhưng một hôm vào cái ngõ ở khu Tân Ðịnh, thấy một ông mập mạp cởi trần đang ngồi bán mấy thứ lặt vặt trước nhà, anh hỏi mua sách, thì ông nói có bộ báo Văn, có mua thì ông bán. Ông mang ra cho xem mới thấy ở gáy tập báo nào cũng có tên chủ nhân mạ chữ vàng in nổi trên cái bìa simili màu xanh xám: Trần Phong Giao. Tôi im lặng nhưng lòng trĩu nặng, đó là thư ký tòa soạn tạp chí Văn, đó là bạn tôi, đó là người mang hết tinh hoa kiến thức của mình gầy dựng nên tờ báo văn chương có nhiều năm bán chạy nhất ở miền Nam. Năm 1975 từ Virginia tôi gửi thư về địa chỉ ở Tân Ðịnh cho bạn, nhưng thư bị trả về, bên ngoài phong bì có nét bút gạch chéo sỗ sàng, và mấy chữ “không có ở đây.” Người bán sách cũ nói thêm anh không định mua bộ báo, chỉ khi biết người đó là Trần Phong Giao, người làm ra bộ báo, anh mới mua, để giúp ông, vì đoán chừng ông đang cùng quẫn ở thành phố bị giặc đỏ hoành hành. Anh chỉ thích mua tiểu thuyết, không thích báo bao nhiêu.
Suy nghĩ tới lui: nợ credit card hết mức rồi thì chắc là 5,000 Mk, bỏ ra số tiền ấy để mua bộ báo cũ, nhà thơ nghèo không kham nổi. Người bán sách báo cũ nghĩ sao, cho tôi số điện thoại và số nhà ở Los Angeles rồi mới quay đi. Hẳn anh hy vọng biết đâu tôi có thể đổi ý. Quả là cách đây vài ba năm tôi có kiếm anh, vì có một hai bạn đọc tri âm muốn mua bộ báo đó tặng lại tôi, song anh không còn ở chỗ cũ.
Trong vài chục năm nay mua sách báo cũ, thư viện của tôi đã không còn chỗ chứa, nay đang phải làm danh sách để bán bớt đi một nửa, khoảng gần một ngàn cuốn. Sách chồng chất quá cao, lên tới sát trần nhà, kê thêm tủ để chứa sách thành ra lối ra vào không đủ tiêu chuẩn 36” bề rộng, nhân viên chữa lửa đã từng cho chủ nhân cái hạn hai tuần để kê lại. Thế mà gần đây có chàng còn muốn bán rẻ cho tôi 20 cuốn báo Sáng Tạo (không đủ bộ 31 cuốn) đòi có 20 Mk một tờ. Bộ Thời Tập 23 cuốn có đủ, giá mua 500 Mk. Bộ Nghệ Thuật Mai Thảo chủ nhiệm, Viên Linh thư ký tòa soạn, 57 cuốn thiếu 5 cuốn, 500 Mk cộng thêm 25 Mk tiền gửi đi sau khi báo được mang từ Tuy Hòa qua San José, từ San José mang xuống Westminster. Bộ Khởi Hành xuất bản trong nước, 156 số từ 1969 tới 1973 ở Sài Gòn, là bộ báo cũ người viết bài này quí nhất, chủ nhiệm Anh Việt Trần Văn Trọng, nhạc sĩ đại tá chủ tịch Hội Văn Nghệ Sĩ Quân Ðội, thư ký tòa soạn Viên Linh, tờ báo tôi được trao toàn quyền thực hiện, suốt bốn năm tờ báo hiện diện người chủ nhiệm ít nói, nghiêm nghị mà cởi mở, không bao giờ đến tòa soạn.
Nếu phải mua lại bộ báo quí giá ấy, không biết làm sao người ta có thể kham nổi. Nó quí vì nhiều lý do, tờ báo đã khám phá ra nhiều tài năng mới, sau này nổi tiếng, tờ báo đã được sự cộng tác của hầu hết các tác giả danh tiếng nhất Việt Nam, mà sau một năm có mặt, đã in tên tất cả các tác giả ra ngoài bìa. Chủ nhân bộ báo anh L. Ð. đã tặng không cho tôi với lời thư giản dị: như là báo tôi làm ra, thì anh tặng lại tôi bản chính, chỉ cần gửi lại cho anh một bản photocopy là được rồi. Ðiều ấy đã đáng ca ngợi, nhưng điều đáng kính phục nhất là khi biết tôi đang tục bản tờ báo cũ ở California, thì tờ Khởi Hành bộ cũ của gia đình anh, anh mua từng số khi phục vụ trong quân ngũ, lúc ở Tây Ninh khi ở Sài Gòn, còn để trong thùng sắt, cái thùng còn chôn trong vườn nhà. Khi anh chị qua được Hoa Kỳ, mẹ anh vẫn ở trong ngôi nhà đó.
Cách đây khoảng mười lăm năm, lúc tình hình còn khó khăn, Chị L. Ð. đã về Sài Gòn, và mang hơn một trăm số báo đó bằng máy bay qua Hoa Kỳ, để rồi anh chị đóng thùng, gửi qua bưu điện cho tôi. Không bao giờ tôi có thể quên gia đình anh chị, nhất là mẹ anh đã tích cực bảo tồn các di sản văn hóa của người quốc gia, dù vẫn sống trong gông cùm cộng sản. Khi những dòng này được viết ra, người trong nước vừa lập ra một hội nhà văn mới, mà ngay lá thư thông báo đã dùng mấy tiếng “văn học đô thị miền Nam” để ngụ ý đó là “văn học miền Nam.” Ðiều đó ngay lập tức vô hình trung đã cảnh báo rằng văn học của miền Nam, sách báo cũ của miền Nam, là di sản càng ngày càng quí, đến nay họ vẫn sợ hay đã quá quen phải tránh nói đến nó, chưa dám nhắc đến nó một cách bình thường. Người ta quí sách cũ không hẳn vì nó hiếm, nó ít ra đã ghi dấu và mang trong lòng những tờ giấy mong manh những thần thức tinh hoa của một thời đại đã mất”(**)

(**) Những tờ báo cũ miền Nam http://www.nguoi-viet.com/van-hoc-nghe-thuat/Nhung-to-bao-cu-mien-Nam-1249/

huyvespa@gmail.com

Phụ Lục : MỤC LỤC TẠP CHÍ VĂN (tổng hợp từ sachxua, từ anh Nguyễn Ngọc Hoài Nam, từ http://giaocam.saigonline.com/HuongXuaVanNDV/VanNDVMain.php)




Năm thứ nhất 1964:

#1 - Tuyển tập Thơ Văn
#2 - Đặc biệt về Albert Camus
#3 - Giai phẩm Xuân Giáp Thìn - Tuyển tập Thơ Văn
#4 - Tuyển tập Thơ Văn
#5 - Những tiếng nói mới trong văn học
#6 - Tuyển tập Thơ Văn - Những cây bút trẻ
#7 - Đọc văn Stefan Zweig
#8 - Tuyển tập Thơ Văn
#9 - Đọc văn Alberto Movaria
#10 - Văn hóa Phật giáo
#11 - Những cây bút trẻ đang lên
#12 - Đọc văn Guy de Maupassant
#13 - Thơ văn nữ lưu
#14 - Tưởng niệm Nhất Linh
#15 - Tưởng niệm Tagore
#16 - Tuyển tập thơ văn - Đêm tóc rối của Dương Nghiễm Mậu
#17 - Đặc biệt: Jean-Paul Sartre
#18 - Thơ văn có lửa
#19 - André Maurois tự thuật
#20 - Tuyển tập Thơ Văn
#21 - Đọc văn André Malraux
#22 - Tưởng niệm Khái Hưng
#23 - Đọc thơ Jacques Prevert
#24 - Đọc văn Marie Noel

Năm thứ hai 1965:

#25 - Số đặc biệt Đệ Nhất chu niên - Albert Camus
#26 & 27 - Giai phẩm Xuân Ất Tỵ
#28 - Tuyển tập Thơ Văn
#29 - Tưởng niệm Lê Văn Trương
#30 - Đọc văn John Steinbeck
#31 - Tuyển tập Thơ Văn
#32 - Một tác giả: Erskine. Một tác phẩm: Kinh nghiệm đời văn
#33 - Đọc văn Lâm Ngữ Đường
$34 - Truy niệm Triều Sơn
#35 - Tản Đà
#36 - Tưởng niệm Thạch Lam
#37 - Đọc văn William Faulkner
#38 - Tuyển tập Thơ Văn
#39 - Tìm hiểu Franz Kafka
#40 - Tuyển tập Thơ Văn
#41 - Đọc văn Ernest Hemingway
#42 - Hà Nội, quê hương trong trí nhớ
#43 - 200 năm Nguyễn Du
#44 - 200 năm Nguyễn Du
#45 - Giới thiệu Francoise Sagan
#46 - Tuyển tập Thơ Văn
#47 - Giải Nobel Văn chương 1965
#48 - Kỷ niệm Đệ Nhị chu niên - Đọc văn Saint-Exupéry

Năm thứ ba 1966:
#49 & 50 - Giai phẩm Xuân Bính Ngọ
#51 - Đọc văn Somerset Maugham
#52 - Tuyển tập Thơ Văn
#53 - Đọc văn Anton Chekhov
#54 - Tuyển tập Thơ Văn
#55 - Đọc văn Luigi Pirandello
#56 - Tuyển tập Thơ Văn
#57 - Đọc văn Shintaro Ishihara
#58 - Tuyển tập Thơ Văn
#59 - Đọc văn Graham Greene
#60 - Tản Đà, Thạch Lam, Nguyễn Bính
#61 - Đọc văn Richard Wright
#62 - Tuyển tập Thơ Văn
#63 - Tuyển truyện Đại Hàn
#64 - Tưởng niệm Bích Khê
#65 - Đọc văn John Updike
#66 - Tuyển tập Thơ Văn
#67 - Tưởng niệm Vũ Trọng Phụng
#68 - Đọc văn Quỳnh Dao
#69 - Tuyển tập Thơ Văn
#70 - Đọc văn Hermann Hesse
#71 - Tuyển tập Thơ Văn
#72 - Mùa giải thưởng Văn chương

Năm thứ tư 1967:
#73 & 74 - Tưởng niệm Hàn Mặc Tử
#75 & 76 - Giai phẩm Xuân Đinh Mùi
#77 - Đầu Xuân Lộc Mới (Tuyển tập)
#78 - Đọc Simone de Beauvoir, nữ văn sĩ thời danh Pháp
#79 - Tuyển tập Thơ Văn
#80 - Tưởng niệm Hồ Biểu Chánh
#81 - Đọc văn Tennessee Williams, kịch tác gia lẫy lừng Hoa Kỳ
#82 - Nắng Hè (Tuyển tập)
#83 - Đọc văn Boris Pasternak, văn hào Nga, giải Nobel Văn chương 1958
#84 - Tuyển tập Thơ Văn
#85 - Đọc văn Marcel Proust, nhà văn kinh điển lớn của Pháp
#86 - Viết về Thơ
#87 - Tuyển tập Thơ Văn
#88 - Đọc văn Erskine Caldwell, tiểu thuyết gia thời danh Hoa Kỳ
#89 - Mây mùa Thu (Tuyển tập)
#90 - Tưởng niệm Hồ Thích, tư tưởng gia Trung Hoa
#91 - Thương nhớ Đinh Hùng
#92 - Tuyển tập Thơ Văn
#93 - Viết về Hội họa
#94 – Đọc văn André Gide, giải Văn chương Nobel 1947
#95 - Mưa cuối mùa (Tuyển tập)
#96 - Đọc Thomas Mann, văn hào Đức, giải Nobel Văn chương 1929 (số Giáng Sinh)

Năm thứ năm 1968:

#97 - Giới thiệu Eugene Evtouchenko, thi sĩ thời danh Nga-sô
#98 & 99 - Giai phẩm Xuân Mậu Thân
#100 & 101 - Viết trong khói lửa (Tuyển tập)
#102 - Mịt mờ thức mây (Tuyển tập)
#103 - Tưởng niệm Carlson McCullers, nữ văn sĩ danh tiếng Hoa-kỳ
#104 - Trên vai Việt Nam (Tuyển tập)
#105 - Đọc truyện Quách Lương Huệ, nữ văn sĩ thời danh Trung-hoa
#106 - Mảnh vụn trong hồn người (Tuyển tập)
#107 & 108 - Tưởng niệm Hoàng Đạo
#109 - Giới thiệu M.A. Asturias, nhà văn Guatemala, giải Nobel Văn chương 1967
#110 - Ngày trở lại Huế (Tuyển tập)
#111 - Mồng Một tháng Tám (Tuyển tập)
#112 - Giỗ đầu Đinh Hùng
#113 - Giới thiệu Bertolt Brecht, kịch tác gia bậc nhất nước Đức
#114 - Những cây bút trẻ (Tuyển tập)
#115 - Mở mắt nhìn quê hương (Tuyển tập)
#116 - Giới thiệu Norman Mailer, nhà văn nổi loạn xứ Hoa-kỳ
#117 - Thương nhớ Tchya Đái Đức Tuấn
#118 - Lối về chợ Trúc (Tuyển tập)
#119 - Tưởng niệm André Maurois, nhà văn lớn nước Pháp
#120 - Đêm Bethléem (Tuyển tập Giáng sinh)



Năm thứ sáu 1969:


#121 - Kỷ niệm Đệ Ngũ chu niên. Casey Calvert, nhà văn xứ Cuba
#122 - Mùa đông trong trí nhớ (Tuyển tập). Kawabata, nhà văn Nhật giải Nobel 1968
#123 & 124 - Giai phẩm Xuân Kỷ Dậu
#125 - Đầu Xuân Lộc Mới (Tuyển tập)
#126 - Như nước trong nguồn (Tuyển tập). Stefan Zweig, nhà văn Đức
#127 - Đầu mùa nắng lửa (Tuyển tập). Jakov Lind, nhà văn Đức
#128 - Số đặc biệt: Léon Tolstoi, văn hào Nga
#129 - Thương nhớ Y Uyên
#130 - Mặt trời tháng Tư (Tuyển tập). A. Solzhenitsyn, nhà văn Nga
#131 - Lệ đá đêm sâu (Tuyển tập). G.C. Infante, nhà văn xứ Cuba
#132 - Phượng trong thành nội (Tuyển tập)
#133 - Về nhánh sông xưa (Tuyển tập). Klaus Rochter, nhà văn Đức
#134 - Sầu xưa chín rụng (Tuyển tập). I.B. Singer, nhà văn Do-thái
#135 - Tuyển tập văn mới
#136 - Trên ngọn sầu đông (Tuyển tập)
#137 - Người đàn bà thành Prague
#138 - Những cây bút trẻ (Tuyển tập)
#139 - Nói với mùa thu (Tuyển tập). Tiber Déry, nhà văn Hung-gia-lợi
#140 - Số đặc biệt: Kawataba Yasunari
#141 - Phiến đá chưa mòn (Tuyển tập). John Cheever, nhà văn Hoa-kỳ
#142 - Đường bay của nghệ thuật (họa và thơ)
#143 - Mưa khóc tan mùa (Tuyển tập). Rafael Steinberg, nhà văn Hoa-kỳ
#144 - Bình an dưới thế, số đặc biệt Giáng sinh


Năm thứ bảy 1970:

#145 - Tưởng niệm Đông Hồ
#146 & 147 - Giai phẩm Xuân Canh Tuất
#148 - Đầu Xuân Lộc Mới (Tuyển tập trẻ)
#149 - Tuyển tập Thơ Văn
#150 - Số đặc biệt: Vũ Hoàng Chương
#151 - Tuyển tập Thơ Văn. Bernard Malamud, nhà văn Hoa-kỳ
#152 - Số đặc biệt: Jean-Paul Sartre (Pháp)
#153 - Trong nỗi buồn vàng (Tuyển tập trẻ)
#154 - Số đặc biệt: Mừng Phật đản 2514
#155 - Tuyển tập Thơ Văn. Irwin Shaw, nhà văn Hoa-kỳ
#156 - Số đặc biệt: Hoài niệm Nhất Linh
#157 - Số đặc biệt: Simone de Beauvoir (Pháp)
#158 - Mưa chưa dứt hạt (Tuyển tập trẻ)
#159 - Số đặc biệt: Hoài niệm Tchya Đái Đức Tuấn
#160 - Tuyển tập Thơ Văn. Dylan Thomas, nhà văn Anh-cát-lợi
#161 - Số đặc biệt: thi sĩ Quách Tấn
#162 - Tuyển truyện Á châu
#163 - Tuyển tập Thơ Văn. Alexander Solzhenitsyn, nhà văn Nga-sô
#164 - Đi giữa mùa Thu (tuyển tập trẻ)
#165 - Tuyển truyện Phi Châu da đen
#166 - Tuyển tập Thơ Văn. Irwin Shaw, nhà văn Hoa-kỳ
#167 - Tuyển tập Thơ Văn. Akutagawa Ryunosuke, nhà văn Nhật-bản
#168 - Tiếng hát lên trời, tuyển tập. Số đặc biệt mùa Giáng sinh

Năm thứ tám 1971:

#169 - Tưởng niệm Phạm Duy Tốn
#170 & 171 - Giai phẩm Xuân Tân Hợi
#172 - Đầu Xuân Lộc Mới (Tuyển tập trẻ)
#173 - Tuyển truyện "Gió Đông" của các nhà văn Á châu (tập 2)
#174 - Tuyển tập Thơ Văn
#175 - Số đặc biệt: Viết về Tản Đà
#176 - Bóng tối vây quanh (Tuyển tập trẻ)
#177 - Tuyển tập Thơ Văn
#178 - Tuyển truyện Nga-la-tư
#179 - Số đặc biệt: Viết về Hàn Mặc Tử
#180 - Tuyển tập Thơ Văn. Alexis Tolstoi, nhà văn Nga
#181 - Khi mùa mưa tới (Tuyển tập trẻ)
#182 - Tuyển tập Thơ Văn. Slawomir Mrozeki, kịch tác gia Ba-lan
#183 - Tuyển tập Thơ Văn. Sata Ineko, nữ văn sĩ Nhật-bản
#184 - Tuyển truyện Hung-gia-lợi
#185 - Tuyển tập Thơ Văn
#186 - Tưởng niệm Đông Hồ
#187 - Tuyển tập các tác giả trẻ
#188 – Tuyển tâp thơ văn
#189 – Viết về Nguyễn Bính
#190 – Thư chủ nhiệm gửi thân hữu và bạn đọc (15/11/1971)
#191 – Nhà văn Nhật Naoya Shiga, Pablo Neruda Nobel 71 (1/12/1971) rất đẹp
#192 – Số đặc biệt Giáng Sinh 1971 (15/12/1971)

Năm thứ chín 1972:
#193 Kỷ niệm đệ nhất bát chu niên
#194-195 – Giai phẩm xuân Nhâm Tý (1/2/1972)
#196 – Số đặc biệt đầu năm (15/2/1972)
#197 – Số đặc biệt Sáu nhà văn trẻ (1/3/1972)
#198 – Số đặc biệt về thơ (15/3/1972)
#199 – Số đặc biệt về hội họa
#202 – Sáu nhà văn trẻ (15/5/1972)
#203 – Tuyển truyện Ý Đại lợi
#204 – Tùy bút, Bút ký, Hồi ký
#205-210

CÁC SỐ GIAI PHẨM VĂN:

1)   Giai phẩm Văn 1 :   Ngày 28/9/1972
2)   Các nhà văn châu Mỹ La Tinh:   13/10
3)   Tuyển tập thơ văn: 26/10
4) Giai phẩm Fédor Dostoievsky (11/72)
5)   Quỳnh Dao/H.Boll: 27/11
6)   Giáng Sinh 72: 12/12
7)   Xuân Quý Sửu 73: 10/01/1973
8)   TT Thơ văn Tân niên: 15/01
9)   Nhà thơ Hồ Dzếnh:   12/02             
10)   TT Thơ văn:    24/02
11)   Văn chương trong thời bình:    16/3
12)   Rainer Rilke/ Franks Kafka: 31/3
13)   Tưởng niệm Doãn Dân:  17/4
14)   Tuyển tập tháng năm:   02/5
15)   Đặc biệt nhà thơ Bùi Giáng: 18/5
16)   Hiện tượng sách dịch:    8/6
17)   Tháng sáu mùa hạ: 25/6
18)   Năm nhà văn nữ Việt Nam: 13/7
19)   Ôn như hầu Nguyễn Gia Thiều:  30/7
20)   Tuyển tập tháng 8: 16/8
21)   Số đặc biệt văn hào Stendhal:   1/9
22)   Vũ Khắc Khoan:      24/9
23)   Tuyển tập tháng 10:   12/10
24)   Thanh Tâm Tuyển:  9/11
25)   /11
26)   Giáng Sinh 73 và Patrick White Nobel 73:   1/12
27)   /12
28)   /1/1974
29)   Giai phẩm Xuân Giáp Dần (7/1/1974)
30)   Tuyển tập đầu năm Giáp Dần :   1/2
31)   /2
32)   Số đặc biệt nhà văn Võ Hồng:    15/3
33)   Tuyển tập tháng 3:     23/3
34)   3 nhà văn Hoa Kỳ:    18/4
35)   /4
36)   Tám Người Tên Tuổi : 1/5
37)   Vũ Hoàng Chương, Tô Thùy Yên… : 16/5
38)   Tuyển tập thơ văn:   8/6
39)   Vĩnh biệt nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh:   25/6
40)   Rimbaud:    15/7
41)   /7
42)   Tiểu thuyết và văn chương Võ Phiến:   1/8
43)   Ba Nhà Thơ Tiền Chiến:   20 /8
44)   Cung Oán Ngâm Khúc :    7/9
45)   Trần Văn Khê:     30/9
46)   Tuyển Tập Thơ Văn :  1/10
47)   Chương trình quốc văn lớp 12:   19/10
48)   Vấn Đề Văn Học :  15/11
49)   /11
50)   Những bài thơ tình Việt Nam hay nhất :    5/12
51)   Giáng Sinh năm 74:     23/12
52)   /1/ 1975
53)   Xuân Ất Mão:     24/1
54)   Văn chương nữ giới:   14/2
55)   /2
56)   Triển Vọng mới năm 1975:  4/3
57)   Văn học và nghệ thuật Việt Nam ở hải ngoại:    26/3

SÁCH PHỔ THÔNG DO VĂN XB:

Tháng 01-66: Tuổi nước độc, truyện dài Dương Nghiễm Mậu
Tháng 02-66: Bay đêm, truyện dài Saint-Exupéry, Lê Huy Oanh dịch
Tháng 03-66: Con yêu con ghét, tập truyện Nguyễn Mạnh Côn
Tháng 04-66: Thân phận con người, Akutagawa Ryunosuke, Diễm Châu dịch
Tháng 05-66: Viên đạn đồng chữ nổi, truyện dài Mai Thảo
Tháng 06-66: Chân dung Nhất Linh, hồi ký của 8 tác giả
Tháng 07-66: Chân dung nàng thơ, truyện Robert Nathan, Hoàng Ưng & Trần Phong Giao dịch
Tháng 08-66: Phấn đấu, truyện Dương Nghiễm Mậu
Tháng 09-66: Mặt trời mù, Curzio Malaparte, Bửu Ý dịch (Chuột nhắm)
Tháng 10-66: Thị trấn miền Đông, tân truyện Viên Linh
Tháng 11-66: Hồi ký viết dưới hầm, Fyodor Dostoyevsky, Thạch Chương dịch
Tháng 12-66: Ngôi trường đi xuống, truyện Vũ Hạnh
Tháng 01-67: Chuyến thư miền Nam, Saint-Exupéry, Nhã Điển d. (mục chân)
Tháng 01-67: Chị em Hải, truyện Nguyễn Đình Toàn
Tháng 02-67: Bóng tối thời con gái, truyện Nhã Ca
Tháng 02-67: Của chuột và người, John Steinbeck, H.N. Khôi & N.P. Bửu Tập dịch
Tháng 03-67: Một cái chết rất dịu dàng, Simone de Beauvoir, Vũ Đình Lưu dịch
Tháng 04-67: Khuôn mặt, tập truyện Thanh Tâm Tuyền
Tháng 05-67: Một kiếp giang hồ, truyện Hermann Hesse, Võ Toàn dịch
Tháng 06-67: Mưa không ướt đất, tập truyện Trùng Dương
Tháng 07-67: Thời nhỏ trong gia đình Luvers, truyện Boris Pasternak, Mặc Đỗ dịch
Tháng 08-67: Ngày qua bóng tối, Nguyễn Thị Hoàng
Tháng 09-67: Tâm cảnh 1, truyện André Maurois, Mặc Đỗ dịch
Tháng 10-67: Tâm cảnh 2, truyện André Maurois, Mặc Đỗ dịch
Tháng 11-67: Gia đình tôi, tập truyện Duy Lam
Tháng 12-67:
Tháng 01-68: Người về đầu non, truyện Võ Hồng
Tháng 02-68: Vỡ mộng, truyện André Gide, Bửu Ý dịch

(Mục lục các số giai phẩm - Bình quân 2 số/1 tháng . Những chỗ trống là chưa xác định được. Như vậy có khoảng 57 số giai phẩm)




IMG_3418IMG_4828IMG_4829IMG_4830IMG_4831IMG_4832IMG_4833IMG_4834IMG_4835IMG_4836IMG_4837IMG_4838IMG_4839IMG_4840IMG_4841IMG_4842IMG_4843IMG_4844IMG_4845IMG_4846IMG_4847IMG_4848IMG_4849IMG_4850IMG_4851IMG_4852IMG_4853IMG_4854IMG_4855IMG_4856IMG_4857IMG_4858IMG_4859IMG_4860IMG_4861IMG_4862IMG_4863IMG_4864IMG_4865IMG_4866IMG_4867IMG_4868IMG_4869IMG_4870IMG_4871IMG_4872IMG_4873IMG_4874IMG_4875IMG_4876IMG_4877web counters

"chở hết vàng son tới ủ ê..."

$
0
0
chiếc xe đò cũ hơn chùa miễu 
chở hết vàng son tới ủ ê
đêm đêm rực tiếng côn trùng dậy
trống trải hồn ta đến thấu trời 
RỒNG BAY PHƯỢNG MÚA - CAO ĐÔNG KHÁNH 
http://www.gio-o.com/thocaodongkhanh.html

...Rồi sẽ quay lại vàng son...?!?
Cùng trông lại - mà cùng (chẳng) thấy...
Một vệt dài 42 năm...những câu chuyện văn chương ... 
Của ngậm ngùi, "của tin "..."thác là thể phách còn là tinh anh"








“Giả sử ngày mai em về Sàigòn
Em có còn là em nữa không?
Em có còn ngọt ngào suối trong
Em còn thuộc ca dao,
còn giữ áo cho nhau thuở nào?
Sợ em đã quên mùi hoàng lan đêm xuân
quên hương cau, thông vàng, bụi phấn
Giậu hoàng cúc thu dạt dào nỗi mình xưa
nhớ chăng em. thềm trưa mây mưa?
Ôi giả sử ngày mai em về Sàigòn
Em thành người xa lạ quê hương
Em thành người đường quen xóa bóng
Linh hồn em lạnh cóng
Em vừa hay đã mất Sàigòn”
(Duyên Anh)


Image may contain: 9 people


Mời mọi người đọc lại 1 bài cũ :

3 số nguyệt san NHÀ VĂN đầu tiên và (cũng là) cuối cùng trước "tháng Tư úng thủy"

 http://huyvespa.blogspot.com/2015/04/3-so-nguyet-san-nha-van-au-tien-va-cung.html 
và vô tình các comment trên facebook đã dẫn dắt theo nhiều thông tin thú vị về các "mặc khách Sài Gòn" :
Khởi đầu từ 1 comment " Chỉ 20 năm văn học miền Nam, mà lưu luyến vậy đó..."
...và câu chuyện mở ra từ....nhà thơ Nguyên Sa (và tờ báo Hiện Đại, cũng như về người vợ "hôm nay Nga buồn như con chó ốm" của ông); vụ tranh luận nảy lửa giữa Nguyên Sa và Phạm Công Thiện; những ngày cuối của Mai Thảo ở Saigon với những tình tiết...li kì như film :(; vụ án văn hoá 1965 giữa Thích Nhất Hạnh & Bùi Giáng...

IMG_4947IMG_4948IMG_4949

NGUYÊN SA VÀ TẠP CHÍ HIỆN ĐẠI http://www.nguoi-viet.com/van-hoc-nghe-thuat/Nguyen-Sa-va-tap-chi-Hien-Dai-0446/
IMG_4950IMG_4951
MAI THẢO - MỘT ĐỜI Ở VỚI THƠ VĂN http://www.gio-o.com/Chung/VuongTanMaiThao.htm

IMG_4952IMG_4953

PHẠM CÔNG THIỆN VS. NGUYÊN SA http://nhilinhblog.blogspot.com/2012/06/pham-cong-thien-vs-nguyen-sa.html

PIMG_4954



VỤ ÁN VĂN HOÁ 1965 - THÍCH NHẤT HẠNH & BÙI GIÁNG 
http://www.gio-o.com/Tet/Tet2012PhamChuThaiTanMan.htm

VỤIMG_4955IMG_4956IMG_4957

VĂN HẢI NGOẠI - THỜI CÒN MAI THẢO
http://huyvespa.blogspot.com/2014/03/mai-thao-thanh-tam-tuyen-nguyen-sa-pham.html




FullSizeRender_4FullSizeRenderFullSizeRender_1FullSizeRender_2FullSizeRender_3


Cần tìm những quyển VĂN hải-ngoại
huyvespa@gmail.com

free hit counter

Nguyễn Thị Hoàng - Đất Hứa (tuyển truyện của NXB Hoàng Đông Phương năm 1969)

$
0
0

Tập truyện ngắn tôi thích nhất của Nguyễn Thị Hoàng - do NXB HOÀNG ĐÔNG PHƯƠNG (của chính bà xuất bản năm 1969) - với một văn phong "kiều diễm và thơ mộng" nhưng đằng sau những con chữ là nỗi quay quắt và luôn truy vấn chính bản thân nhân vật và người đọc, hoài nghi về nhiều ...ý nghĩa của cuộc đời / hoặc giả chăng truy vấn chính cuộc đời!

Những nhân vật trẻ tuổi ấy yêu hết mình, nhiều lúc tưởng như nắm bắt được hạnh phúc, nhưng thoắt cái, tất cả lại tuột khỏi tầm tay, biến mất, vỡ vụn. Con người dấn thân vào cuộc đời là dấn thân “vào nơi gió cát”. 

Những chữ, những dòng, những chấm và cả những-không-chấm trong truyện ngắn Nguyễn-thị-Hoàng…như một chiếc thuyền lòng đã mắt nạn và nằm kẹt lại vĩnh viễn nơi người đọc, những “triết lý”, những câu hỏi liên tiếp reo lên trong truyện ngắn của Nguyễn-thị-Hoàng neo lại trong lòng tôi một chút mơ màng trong đời sống chật chội này, nó cũng đủ làm dấy sáng trong tôi leo lét những lân tinh hy vọng, dù là ít ỏi… hy vọng lấy từ chút hơi tàn sức kiệt muốn sống và phải sống… Cái triết lý ấy từng được Nguyễn – thị- Hoàng nói đến dâu đó trong nhiều tác phẩm

“Trong mỗi mấp máy , bước chân đi vào hay ra khỏi đời sống hỗn tạp mang mang, trong từng thấp thoáng linh cảm hay cỏn con mơ tưởng của con người đều vẩn vơ dấu vết của bước chân định mệnh. Bước chân đó dù ghé dến thềm đời của một người nào, dù dịu dàng hay mãnh liệt, dù thầm kín hay ngang nghiên cũng đều là một ma lực kì dỵ, vừa dẫn dắt ta theo con đường  vạch sẵn từ tiềm thức nhưng đồng thời cũng dìu ta lên một cõi sáng láng nào, dù là khoảng cao phải trải qua bao nhiêu vực thẳm của đời sống và tâm hồn. Sự trốn chạy chỉ là một cách để dấn sâu thêm vào vực thẳm. Và sự dấn sâu tâm hồn hay đời sống vào vực thẳm cũng là một cách để cuối cùng bay vút lên cao” (Cho Đến Khi Chiều Xuống – truyện dài)

Đi sâu vào cõi sống tâm hồn và giải nghĩa… ý nghĩa của định mệnh , phải chăng Nguyễn-thị-Hoàng cố công đi tìm câu trả lời “Đừng hỏi chuông nguyện hồn ai, chuông nguyện hồn…anh đó” ?!?




Đọc ĐẤT HỨA ở đây
http://vietmessenger.com/books/?title=ddat%20hua (cần đăng ký để đọc)

Dưới đây là nguyên bản của những truyện tập hợp trong quyển này, xuất hiện lần đầu trên các tạp chí VĂN / TÂN VĂN / VẤN ĐỀ ....

dathuabiadathua256IMG_5726IMG_5702IMG_5703IMG_5704IMG_5705IMG_5706IMG_5707IMG_5708IMG_5709IMG_5710IMG_5711IMG_5712IMG_5713IMG_5714IMG_5715IMG_5716IMG_5717IMG_5718IMG_5719IMG_5720IMG_5721IMG_5722IMG_5723IMG_5724IMG_5725IMG_1685



IMG_1690IMG_1691IMG_1692IMG_1693IMG_1694IMG_1695IMG_1696IMG_1697IMG_1735IMG_1736IMG_1737IMG_1738IMG_1739IMG_1740IMG_1741IMG_1742IMG_1743IMG_3525IMG_3526IMG_3527IMG_3528IMG_3529IMG_3530IMG_3531IMG_3532IMG_3533IMG_3534IMG_3535IMG_3536IMG_3537IMG_3538IMG_3539IMG_3540IMG_3504IMG_3513IMG_3505IMG_3506IMG_3507IMG_3508IMG_3509IMG_3510IMG_3511IMG_3512















































IMG_5727IMG_5728IMG_5729IMG_5730IMG_5731IMG_5732IMG_5733IMG_5734IMG_5735IMG_5736IMG_5737IMG_5738IMG_5739IMG_5740IMG_5741IMG_5742IMG_5743IMG_5744IMG_5745IMG_5746IMG_5747IMG_5748IMG_5749IMG_5750IMG_5751





IMG_5680IMG_5681IMG_5682IMG_5683IMG_5684IMG_5685IMG_5686IMG_5687IMG_5688IMG_5689IMG_5690IMG_5691free hit counter

Joseph Huỳnh Văn & Tập San Văn Chương (1972 - 1974)

$
0
0

Joseph Huỳnh Văn, một “người-thơ” mà cách đây khoảng hai thập niên trước, khi tôi lần đầu chạm ngõ những bồi hồi chữ thấm đẫm “máu lệ chứa chan”, những bài thơ rung vang “khúc cầm dương sầu quý phái” của ông; tôi đã chạm vào một bàng hoàng xao xuyến, vì lúc ấy,  thấy, dường như đây chính là một thi sĩ – trong ngữ nghĩa cao quý nhất của thi ca – toàn tòng, một tâm hồn mơ huyễn chìm khuất giữa điêu linh và ảo ảnh, rồi những tinh huyết tràn ra trên những dòng thơ - những tiếng nấc nghẹn, những siết rên – qua đó tạo dựng một thế giới (mang nhiều tính âm) thâm trầm như bí tích, sang cả như , đẹp-đau-thương trong ngôn ngữ thi ca của mình và hơn thế, kiến tạo một thẩm mỹ khác ?!?
Lúc đó, đối với tôi, ông như một người thơ rất mơ hồ mông lung xa xôi – xa và… thơ như chính cái tên thánh của ông vậy – nhưng với những tận hiến trong từng dòng chữ viết ra, tôi như chạm gần đến ông hơn qua một khắc thăng hoa cảm xúc, chìm vào những vầng thơ đắm đuối mà vẫy vùng trong tinh tuyền của suối nguồn thi ca – trải nghiệm những “nát tan” nhất, những “đẹp thương đau” nhất, những “sầu ngất tạnh”, những ngàn trùng, những “hoàng hôn không cùng ngực tuyệt vọng”, những xám ngắt hiu quạnh của những buổi chiều…trong thơ ông, làm tôi run trong nỗi bàng hoàng rờn rợn, và cũng run lên vì đê mê “nhập thế” vào thế giới thi ca bi thiết mà vô ngần ơn phước ấy!
TẬP SAN VĂN CHƯƠNG - Với số ra mắt mang tên NHÃ TẬP (đến nay tôi chưa tìm thấy những số nào khác - và cũng chưa thấy trên mạng - ngoài 5 số sau:
Số 1 – chưa có tên TẬP SAN VĂN CHƯƠNG – NHÃ TẬP (MÙA CẦM XANH) – THÁNG 8/1972
Số 2 – số ra mắt TẬP SAN VĂN CHƯƠNG (?!?) – MỸ TỪ PHÁP – THÁNG 5/1973
Số 3 – SOLEILS PERDUS SOLEILS RETROVÉS – THÁNG 8 /1973
Số 4 – MÁI ĐÔNG – THÁNG 11/1973
Số 5 – TRUNG TÂN – 1974)
đọc lại để thấy rằng, đây chắc chắn là một trong số những tập san / tạp chí “văn nghệ” có giá trị nhưng vì nhiều lí do, hay thường bị quên đi khi người ta viết biên-niên-ký cho 20 năm văn chương miền Nam đã mịt mùng …nhưng chưa “tan đi như bụi mờ”.

huyvespa@gmail.com

“Huỳnh Văn là linh hồn, là tinh thần, và tổng thư ký của tờ báo.
Không có anh, chắc tờ báo không ra quá số hai. Sài-gòn nhỏ xíu: chiến tranh, nỗi sợ hãi, đời sống riêng tư của mỗi con người... làm người ta co cụm lại. Đám bạn bè tuy biết nhau, nhưng chỉ chịu ngồi bên nhau, khi có anh.
Tập san còn có Nguyễn Tử Lộc, đã chết vì bệnh tại Sài-gòn ít lâu sau 75. Phạm Hoán, Phạm Kiều Tùng, Nguyễn Đạt, Nguyễn Tường Giang... Không có Phạm Kiều Tùng, tập san không có một ấn loát tuyệt hảo. Nguyễn Đông Ngạc khi còn sống vẫn tự hào về cuốn Những Truyện Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương Chúng Ta (Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam) do anh xuất bản, Phạm Kiều Tùng, Phạm Hoán lo in ấn, trình bày. Bạn lấy đầu một cây kim chấm một đầu trang. Dấu chấm đó sẽ xuyên suốt mọi đầu trang thường của cuốn sách. Không có Nguyễn Tường Giang thì không đào đâu ra tiền và mối thiện cảm, độc giả, thân hữu quảng cáo dành cho tập san. Những bài khảo luận của Nguyễn Tử Lộc và sở học của anh chiết ra từ những dòng thác ngầm của nhân loại - dòng văn chương Anglo-Saxon - làm ngỡ ngàng đám chúng tôi, những đứa chỉ mê đọc sách Tây, một căn bệnh ấu trĩ nhằm tỏ sự khó chịu vì sự có mặt của những quân nhân Hoa-kỳ tại Miền Nam….
Tạp chí văn học 'Tập san Văn chương' ra mắt độc giả khoảng 1972-74, tại Sài-gòn. Chết trước ngày 30/ 4/ 75. Hình như là do Nguyễn Tường Giang, bác sĩ kiêm quản lý bất đắc dĩ của tờ báo chán chuyện đi lấy quảng cáo, mặc dù đi là có; mặc dù tập san có nhà in riêng - nhà in ABC của thân phụ anh Phạm Kiều Tùng” (theo hồi ức của nhà văn/ nhà phê bình văn học Nguyễn Quốc Trụ)

Joseph Huỳnh Văn sinh năm 1942 trên vùng đất Quảng Đà. Ông nguyên được đào tạo trong một trường dòng, lớn lên lại ra đời nhập thế, đi dạy học. Thi sĩ Joseph Huỳnh Văn tên thật là Huỳnh Văn Hiến. Ông có người anh ruột tên Huỳnh Văn Trọng, một trong những nhà tình báo của phe “cách mạng”, từng leo lên tới chức cố vấn đặc biệt (cùng với tướng tình báo Vũ Ngọc Nhạ) của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Năm 1969, vụ án gián điệp đổ bể, Huỳnh Văn Trọng bị bắt, đến 1973 được trao trả về phe “Chính phủ Cách Mạng lâm thời Miền Nam VN” tại Lộc Ninh. Nhà văn Cao Huy Khanh trong tập Chân dung “Những số phận đặc biệt” đang biên soạn truyền mạng, phần viết về Joseph Huỳnh Văn cũng xác nhận rõ mối quan hệ đặc biệt này” (Võ Chân Cửu)


“…nhưng không nhiều lắm chữ nghĩa thành thơ…”
Nguyễn Lương Vỵ
Giới thiệu thi tập
Thơ Joseph Huỳnh Văn 
(Giấy Vụn, 2011)

“Thi sĩ Joseph Huỳnh Văn (1942-1995) tên thật là Huỳnh Văn Hiến, quê quán: Thừa Thiên, Huế. Định cư tại Sài Gòn vào giữa thập niên 60, dạy học tại Thủ Đức, Biên Hòa. Sau tháng 4.1975, làm thợ mộc và hầu như không còn làm thơ nữa. (Vào khoảng cuối năm 1993, trong một lần uống rượu tay đôi với ông, thi sĩ, lúc đã ngấm rượu, cao hứng “khoe” và đọc cho tôi nghe một bài thơ ông mới sáng tác về Hà Nội với một giọng rất trầm ấm, khinh khoái. Hôm sau, đến thăm ông tại nhà, tôi xin ông được đọc lại bài thơ ấy, ông bảo, bài thơ vẫn còn nằm ở trong đầu, chưa vừa ý lắm, nên chưa viết ra. Sau nầy, hỏi gia đình ông, cũng cho biết, không tìm thấy bài thơ ấy trong di cảo!). Ông từ trần tại Sài Gòn ngày 28.02.1995 sau một cơn đột quỵ. Joseph Huỳnh Văn làm thơ từ thời còn là học sinh trường Quốc Học – Huế, nhưng, thơ của ông chỉ xuất hiện duy nhất trên Tập San Văn Chương. Ngay sau đó, đã tạo được sự quý mến, trân trọng của bằng hữu trong giới văn nghệ Sài Gòn và độc giả yêu chuộng văn chương.
Di sản thơ, cũng là di cảo, thi tập “Thơ Joseph Huỳnh Văn” chỉ có khoảng trên dưới 30 bài thơ, được thể hiện rất cô đọng trong 5 chủ đề: Mỹ Từ Pháp – Viễn Xứ – Hòa Âm Bên Khổ Tu Viện Xitô (gồm: Hòa Âm Trầm Ngữ – Hòa Âm Thu Rừng – Hòa Âm Mùa Cầm Xanh.) – Gởi Cho Chiều Hơi Thở Đất Sâu – Lộc Khổ Đau, Thạch Ngữ Khắc Vách Ngục. Ngôn ngữ, hình ảnh, nhạc điệu, cấu trúc trong thi pháp Joseph Huỳnh Văn mang phẩm cách rất riêng, nhất là sức nén rất sâu, sức ngân rất xa của Chữ. Thơ, đối với ông, như một đóa Thạch Hoa. Thi sĩ, đối với ông, như một Thuật Sĩ luyện kim, hứng trọn Lộc Khổ Đau ở chốn trần gian nầy, trầm mình trong hồn cốt của Chữ, âm vang và sắc màu, để thấy, nghe, cảm ứng với cái Đẹp trầm thống, bi thiết và u uẩn của kiếp người. Vì thế, số lượng thơ không nhiều, của đời thơ Joseph Huỳnh Văn, là điều dễ hiểu. Cũng vì thế, thơ Joseph Huỳnh Văn rất kén người đọc do tính cô đọng, hàm súc; tính ẩn dụ, biểu tượng đa tầng đa nghĩa của ngôn ngữ, cấu trúc thi pháp trong thơ ông.
* * *
Khoảng giữa năm 1973, tôi [Nguyễn Lương Vỵ] đang là sinh viên năm thứ 3, ban triết học, viện đại học Vạn Hạnh – Sài Gòn. Một hôm, tình cờ ghé vào sạp báo ở đường Trương Minh Giảng, thấy có bày bán Tập San Văn Chương, hình bìa trình bày lạ và đẹp. Không cần phải xem trang trong, tôi mua ngay và mang về căn gác trọ, mở ra đọc một hơi mấy trang thơ của Joseph Huỳnh Văn. Đọc xong, tôi buột miệng nhủ thầm: Thơ rất hay và rất lạ! Tên thi sĩ cũng rất lạ, tôi chưa từng thấy xuất hiện trên bất cứ tạp chí văn học nghệ thuật nào ở Sài Gòn lúc đó. Theo địa chỉ tòa soạn có in ở bìa trong tập san, tôi cao hứng, đánh bạo gửi một bài thơ khá dài – có nhan đề “Âm Nhạc” viết năm 1970 để tưởng nhớ Ludwig van Beethoven, nhạc sĩ cổ điển người Đức mà tôi rất yêu thích, có ảnh hưởng rất mạnh trong thơ tôi lúc bấy giờ – đến Tập San Văn Chương. Không ngờ, hơn hai tháng sau, bài thơ của tôi được chọn đăng trong Tập San Văn Chương số tiếp theo. Thi sĩ Joseph Huỳnh Văn đã đến tìm và gặp tôi tại hành lang viện đại học Vạn Hạnh. Từ đó, tôi có thiện duyên được làm người bạn vong niên của anh. Tôi rất quí trọng anh và anh cũng rất thương tôi như một người em. Lệ thường, mỗi chiều thứ Bảy hàng tuần, đã có hẹn trước, tôi ngồi đợi anh ở quán cà phê Nắng Mới, cạnh cổng trường viện đại học Vạn Hạnh. Anh dạy học ở Biên Hòa, đi tàu lửa về Sài Gòn khoảng 4, 5 giờ chiều. Hai anh em gặp nhau, ngồi uống cà phê cho đến lúc trời sẩm tối thì chia tay. Thời ấy, tôi vốn rụt rè, sống cô độc, ít nói. Anh cũng rất trầm tĩnh, kiệm lời. Lắm khi, hai anh em khi gặp nhau, chỉ vui vẻ cười chào, hỏi thăm nhau bâng quơ vài câu, rồi im lặng ngồi nhìn vạt nắng chiều đang dần sẫm lại, uống cà phê và đốt thuốc liên tục.
Sau nầy, khi khá thân thiết, tôi được biết anh đam mê cõi văn chương, nhất là thơ, từ khi còn rất trẻ. Giao tình và tri tình với anh ngày càng sâu đậm, tôi càng cảm nhận phẩm cách thi sĩ hiếm thấy nơi anh. Joseph Huỳnh Văn, thơ, người thơ và đời thơ: Nhất quán. Tầm kiến thức, tư duy về thơ của anh khá sâu rộng, lịch lãm. Sức sáng tạo trong thơ anh cuồn cuộn những mạch ngầm của biểu tượng và ẩn dụ với âm sắc rất đẹp rất lạ trong hồn cốt chữ nghĩa. Tôi hiểu một cách thâm thiết rằng: Thơ, với Joseph Huỳnh Văn, chính là Đạo Sống và Chết. Tận Hiến và Tuẫn Đạo.
Thi sĩ, kẻ thọ mệnh điêu linh, cô độc ngút ngàn. Thi sĩ không có bạn. Thi sĩ làm bạn với chính họ – hiểu theo nghĩa rốt ráo nhất. Nhưng, Chữ của thi sĩ thì vẫn có đồng vọng tri âm. Tôi tin một cách rất thơ mộng như thế!
…”


TẬP SAN VĂN CHƯƠNG LÀ GÌ ?
Nguyễn Quốc Trụ

Tạp chí văn học 'Tập san Văn chương' ra mắt độc giả khoảng 1972-74, tại Sài-gòn. Chết trước ngày 30/ 4/ 75. Hình như là do Nguyễn Tường Giang, bác sĩ kiêm quản lý bất đắc dĩ của tờ báo chán chuyện đi lấy quảng cáo, mặc dù đi là có; mặc dù tập san có nhà in riêng - nhà in ABC của thân phụ anh Phạm Kiều Tùng. Có lần, trên tạp chí Thơ, tôi đã viết về cái đức sửa mo-rát, sửa lỗi chính tả của anh. Tôi vẫn còn nhớ tiểu đề một số tập san, Mặt Trời Mất Đi Mặt Trời Tìm Thấy, do anh đề nghị. Bằng tiếng Tây: Soleils Perdus Soleils Retrouvés. Đây là một dị ứng, một phản ứng tự vệ, trước sự hiện diện, không phải với mấy anh chàng Yankees đứng ngơ ngẩn ở ngã tư đường phố Sài-gòn, tò mò nhìn phố xá, dòng người qua lại, vào những buổi cuối tuần, những ngày mới tới, mà là những thay đổi quá nhanh chóng của thành phố, cùng với sự hiện diện của họ.
Y hệt như một phim Viễn Tây, trên đường phố Sài-gòn đang biến dạng.
Trong bọn, chỉ có Nguyễn Tử Lộc là sớm sủa làm quen với tư tưởng, thí dụ, của một F. R. Leavis, 'phê bình gia lý tưởng là một người đọc lý tưởng, từ đó văn chương tùy thuộc hoàn toàn vào những từ ngữ của nhà thơ, hay tiểu thuyết gia mà kinh nghiệm đã đem tới cho họ.' Và ở đây, là tiếng Anh, 'thứ tiếng nói sức mạnh của nó thuộc về đất, như tổ tiên của họ là những người dân quê... Khi người ta thêm vào đó, rằng lời nói, theo một trật tự cổ xưa, là một dạng văn hóa nghệ thuật phổ thông, rằng người ta nói thay vì đọc, hay lắng nghe la-dô, đài'(1), Nguyễn Tử Lộc đã sớm nhận ra sự đa dạng của một chủ nghĩa tự chủ mang tính đồng quê, thuộc về 'đất và những người đã chết của nó' (la terre et ses morts)(2) anh có lẽ đã linh cảm, 'định mệnh của một tiếng nói, như hồi nhớ về biết bao nhiêu con ngườI' (Thanh Tâm Tuyền).
'Nếu muối mất vị mặn của nó, làm sao có lại được.' (Phúc Âm theo thánh Ma-thi-ơ). Nhà văn theo một nghĩa nào đó, là muối của đất, hay ngắn gọn hơn, là đất. Marguerite Yourcenar, thuộc Hàn lâm viện Pháp ghi nhận, trong tiếng Anh của người Mỹ, dirt, dơ dáy, là đất, theo nghĩa của người làm vườn; một thứ đất mầu mỡ, sẵn sàng để trồng trọt: 'Cho thêm tí dơ vào chậu bông này đi. (Put a little more dirt in this flower pot.)'
Hiểu như thế, một nhà văn, khi bị bứng ra khỏi đất, anh ta trở nên sạch, theo nghĩa vô dụng, hết xài, đã bị thiến. Cũng theo nghĩa đó, nỗi nhớ bùn là thê thảm nhất, trong mọi nỗi nhớ. Anh ta phải động viên mọi sức lực, quyền năng, nghệ năng, biến sở đoản thành sở trường, biến chữ thành đất: Chúng ta đi mang theo quê hương. Sự thành công của dòng văn chương di dân viết bằng tiếng Anh là một ví dụ.
Vả chăng, kinh nghiệm ăn nhờ ở đậu là rất một mình, mỗi người một kiểu. Bạn luôn đau nỗi đau nhớ nhà, nhưng tệ hại hơn, còn nỗi đau vong thân: tiến trình biến thân quen thành xa lạ, hờ hững. Người viết chưa gặp phải tình trạng này, nhưng hình như một số người Việt về nước đã gặp cảnh chua xót. Cứ nghe như quê hương nói mát nói mẻ: 'Ơ kìa, anh/chị này, tôi không quen!'Ôi nỗi xa lạ hờ hững, không phải của một dáng dấp chưa từng gặp, mà từ chính người yêu dấu, thân thương mới ngày nào còn là của mình!
Nhưng Nguyễn Tử Lộc đã chẳng cần tới mấy chuyện đó. Chẳng cần thứ kinh nghiệm đó. Anh ở lại mãi mãi, sau 1975, vì bạo bệnh. Đám tang anh, có Nguyễn Đạt, Joseph Huỳnh Văn, Phạm Kiều Tùng, Phạm Hoán, tôi... đi sau quan tài. Hình như chỉ thiếu Nguyễn Tường Giang. Sau anh là Joseph Huỳnh Văn. Mới đây thôi (20/2/95), vậy mà cũng đã mấy năm trời rồi.
Tôi biết Lộc, và J. Huỳnh Văn, là qua Tập san Văn chương. Không biết ai là người đầu tiên đưa ra việc làm báo. Khi có tôi, mọi chuyện đã được quyết định. Tôi nhận lời, phần lớn là vì hai người bạn mới. Nhất là J. Huỳnh Văn. Như một hậu quả tất nhiên của những buổi bỏ sở ra ngồi quán cà phê gốc me đường Nguyễn Du, hoặc bên đường Hai Bà Trưng, quãng gần ngã tư Gia Long, khi bên kia quá ồn. Số là lúc này, Bưu Điện đã phân đôi, thành Bưu Vụ, và Viễn Thông; tôi chuyển về Trung Ương, chuyên lo việc lên đồ biểu điện đàm/ điện tín, dưới quyền ông T. nghe nói người của Mỹ. Vào những ngày cuối cùng, trong lúc Đà Nẵng đang trong cơn hỗn loạn, tôi còn cố liên lạc với Phòng Điện Toán, xin con số điện đàm/ điện tín ... 'Anh có biết Đà Nẵng sắp sửa đi đoong không...",' tôi nghe tiếng người bạn bên kia đường dây hốt hoảng. Quay qua phòng sếp, một đống hồ sơ vẫn y nguyên. Đã hơn tuần ông chưa vô sở. Người Mỹ đã đưa ông và gia đình đi từ mấy ngày đầu tháng tư.
Huỳnh Văn là linh hồn của cả bọn, là tinh thần, và tổng thư ký của tờ báo. Không có anh, chắc tờ báo không ra quá số hai. Sài-gòn nhỏ xíu: chiến tranh, nỗi sợ hãi, đời sống riêng tư của mỗi con người... làm người ta co cụm lại. Đám bạn bè tuy biết nhau, nhưng chỉ chịu ngồi bên nhau, khi có anh. Anh nói, anh biết tôi từ hồi mồ ma tuần báo Nghệ Thuật. Từ những ngày, thỉnh thoảng ghé quán Cái Chùa, thấy một gã lúc nào cũng đeo kính đen, ngồi trơ một mình tại một chiếc bàn ở góc quán. Nếu không có Tập san Văn chương, chúng tôi chẳng bao giờ có dịp quen nhau. Và có thể chẳng bao giờ người đọc biết anh là một thi sĩ. Cũng chẳng mấy người biết anh dậy học, cho một trường tư ở Biên Hòa. Có thể những dòng Cầm Dương Xanh đã rong ruổi cùng với anh, suốt quãng đường Sàigòn-Biênhòa, và ngược lại. Chúng xuất hiện lần đầu tiên, và cũng là cuối cùng trên Tập san Văn chương. Nhà thơ Huy Tưởng, thay mặt anh em ở ngoài này tới gia đình đốt những nén hương tưởng niệm, sau đó gửi ra vài dòng. Về câu hỏi, 'chị còn nhớ..."': 'Thời gian sau này, bạn bè nhiều nhưng thật tình là tôi không được quen biết hết, chỉ có các anh là bạn cũ trước 75 thì tôi mới nhớ thôi.'
Thật đơn giản, nhưng...
Ba mươi năm sau, một tập san cùng tên (3) dự trù xuất hiện ở hải ngoại. Những dòng hồi tưởng ở trên, là do tôi muốn anh em chủ trương làm quen với những người đã cũ, hoặc đã chết. Muốn anh em chia sẻ cùng chúng tôi không khí ngột ngạt của Sài-gòn hồi đó. '... tôi hi vọng vào khoảng cách giữa các thế hệ. Hoàng Cầm và tôi là người cùng thời, nhưng ông có trước tôi một thời đại không lập lại nữa, hay dùng chữ của ông: một gia phả tinh thần mà dù đã được rũ bụi thì tôi cũng không đơn giản làm quen'. (Phạm Thị Hoài, Đọc Mưa Thuận Thành của Hoàng Cầm, Tạp chí Thơ, Mùa Đông 1997). Tôi không hiểu anh em trong ban chủ trương khi đồng ý với nhau về một danh xưng, có biết, có những người đã gắn bó với nhau chung quanh một cái tên như vậy. Rằng nó đã có một tiền thân" Hay đây chỉ là tình cờ" Và chủ trương, đường lối của tờ báo mới mẻ này có gì tương tự với tờ cũ không" Và liệu người cũ có cần làm một nghi lễ rũ bụi, trước khi ngồi xuống bàn viết, ở đây"
Bởi vì Tập san Văn chương quả có những nét riêng: nó cách mạng, lật đổ theo tinh thần bất bạo động, hoặc theo hiểu hiền lành của nhà văn Nga, Chekhov. Bây giờ, sau hơn ba mươi năm, trong số ít ỏi những thực sự quan tâm và gắn bó với một nền văn chương Miền Nam trước 75, có người đã nhận ra, bên cạnh cuộc cách mạng lớn, do Sáng Tạo hô hào, có một cách mạng nhỏ, thầm lặng của Tập san Văn chương. Ngay trong lời phi lộ số ra mắt, khi định nghĩa nhà văn, một người được thông tri đầy đủ (những dữ kiện của thời đại anh ta đang sống), chúng tôi đã hoài vọng một điều: hãy đưa ra thật nhiều thông tin, hãy giới thiệu những dòng tư tưởng đang ảnh hưởng đến toàn thể nhân loại, rồi để cho người đọc tự do chọn lựa, theo khẩu vị của họ. Cho phép tôi dùng chữ khẩu vị, theo nghĩa của Roland Barthes: Chữ viết ở khắp nơi, khi mà những từ có mùi, có vị (tri thức, savoir, và mùi vị, saveur, trong tiếng La-tinh là cùng một nguồn). Vả chăng, việc lập lại một cái tên theo dòng thời gian, vốn vô thường, liệu có liên quan đến lịch sử, vốn ưa lập lại" Hoặc đến huyền thoại Quy Hồi Vĩnh Cửu, vốn rất hàm hồ"
Cách mạng là một từ đã bị bão hòa. Ai cũng có, hơn một ý niệm, về nó. Michel Foucault, trong bài 'Khai sáng là gì" (What is Enlightenment")', viết: Ngày nay, khi một tờ báo đưa ra câu hỏi đối với độc giả, là để thâu gom một số ý kiến, về một vấn đề mà mọi người, nhiều hoặc ít, đã hiểu tại sao câu hỏi được đặt ra: chẳng hi vọng nhiều ở những cuộc thăm dò dư luận như thế. Vào thế kỷ thứ 18, giới in ấn, chủ báo thường hỏi công chúng về một vấn đề chưa có câu trả lời. Ông đưa ra thí dụ: vào năm 1784, một tờ báo Đức, Berlinische Monatschrift, đã đặt câu hỏi: Khai sáng là gì" (Was ist Aufklarung"). Và người trả lời, là Kant. Bài viết của Kant, theo M. Foucault, chỉ nhỏ nhoi thôi, nhưng nó mở ra một lối đi thận trọng vào lịch sử tư tưởng, về một câu hỏi mà triết học hiện đại vẫn chưa có đủ khả năng để trả lời, và cũng chẳng bao giờ rũ khỏi. Nó đã được lập lại, dưới những hình thức khác nhau, từ hai thế kỷ, bởi những triết gia, từ Hegel qua Marx, hay Max Weber tới Horkheimer hay Habermas, và tội thay, tất cả đều đã thất bại, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp, khi phải đối đầu với nó. Giả sử tờ báo Đức kia vẫn còn sống, và nó lại đặt ra câu hỏi: triết học hiện đại là gì" Có thể chúng ta sẽ nghe một tiếng dội: triết học hiện đại là một toan tính nhằm trả lời một câu hỏi đã được khinh suất đặt ra từ hai thế kỷ trước: Khai sáng là gì"
Bởi vì có thể vẫn là một định nghĩa tương tự đã được đặt ra, khi Tập san Văn chương ra đời hải ngoại: nhà văn là người được thông tri đầy đủ những dữ kiện của cả hai miền, về thời đại của chúng ta, với tất cả những vấn nạn của nó.
Chú thích:
(1) và (2). George Steiner, viết về F. R. Leavis, trong Ngôn ngữ và Im lặng.
(3) Bài viết cho tạp chí Văn Chương, dự định ra mắt tại hải ngoại.



IMG_6373-001



IMG_6374IMG_6496IMG_6498IMG_6499IMG_6500IMG_6501IMG_6375IMG_6502IMG_6503IMG_6504IMG_6505IMG_6506IMG_6507IMG_6508IMG_6509IMG_6510IMG_6511IMG_6376IMG_6512IMG_6513IMG_6514IMG_6377IMG_6515IMG_6516IMG_6517IMG_6518IMG_6519IMG_6520IMG_6521IMG_6522IMG_6524IMG_6378IMG_6536IMG_6526IMG_6527IMG_6528IMG_6529IMG_6530IMG_6531IMG_6532IMG_6533IMG_6534IMG_6535

CUỘC PHỎNG VẤN & LẦN XUẤT HIỆN (CÓ LẼ LÀ CUỐI CÙNG) CỦA JOSEPH HUỲNH VĂN TRÊN TẠP CHÍ "VĂN TUYỂN" TRONG NƯỚC - NĂM 1994
IMG_6449FullSizeRenderpage counter

"tìm nhau như Thiên Cổ tìm Nghìn Thu..."

$
0
0
“Chúng ta chỉ còn mãi mãi những gì đã mất đi vĩnh viễn…” (Mai Thảo)

Ngày 30/4, khi lang thang trong một nhà sách ở Bangkok, một quyển sách như nghiêng hẳn ra từ kệ, nằm đó sẵn đợi chờ, quyển sách với những hình ảnh Ngọc Đông Yêu Dấu (như cách Nguyễn Thuỳ Song Thanh gọi Sài Gòn trong tập thơ của bà) – Một Sàigòn sống động của “một thưở trần gian bay lướt qua” - đang nằm lạc loài lẫn giữa những gáy sách nổi bật và phù phiếm của quầy kệ “Sách Ảnh Thời Trang”

Trong đó có bức hình được dùng làm minh hoạ cho một bài rất hay của chủ trang gio-o
"Thi Ca Tình Si Nam 1975:
Trắng Nhẹ Lên Miền Thịt Da
Văn Chương Đô Thị Miền Nam"
– bức hình anh sinh viên Võ Bị kè cô nữ sinh trước một rạp chiếu bóng (?!?) - (mà đến thời điểm đó, bức hình trên gio-o vẫn còn ghi source: unknown)

Hồn vía của một thành phố được lưu giữ bởi nhiếp ảnh gia/ ký giả người Pháp đến Saigon những năm 1960s-1970s  như hiện về từ một cõi xa xăm nào đó, “tình cờ” xuất hiện …trong một ngày như thế…
IMG_5107



Những điều trùng hợp ngẫu nhiên, tôi may mắn “cứu chuộc” (lại) được (hay nói cách khác, những “điều” ấy cứu cuộc lại tôi…), cuộc sống nhiệm màu đã mang lại “những gì đã mất đi vĩnh viễn” – vậy là tôi có hai lần “những gì còn mãi mãi” đó!

Từ khi (lờ mờ nhận ra được (cái gì?!?) dẫn đi như trong một cơn mộng du về những điều “it happens for a reason” , đôi lúc dâng lên trong  tôi là một nỗi nhớ nhung kỳ lạ, nhớ không về thứ gì, nhớ về một điều vắng mặt, nhớ về những quãng đường chưa từng đến, nhớ về những điều “ta chưa bao giờ” (như điều phi lí mà có lần tôi đã cảm thấy không thể-tin-nổi khi nghe một bài hát với ca từ như thế)…
Và sau những choáng váng ngầy ngật ấy xảy đến, liền kề là…những câu chuyện dẫn dắt những câu chuyện, những trang sách quờ quạng ôm lấy những trang sách, những trang sách mà lửa đã cháy xém, khói bụi thời gian đã kịp vấy bẩn ….nhưng rồi, lửa cũng chỉ đã liêm liếm nơi mép sách, bụi cũng chỉ baylên chút mịt mờ… (?!?), những trang sách tiếp tục im ắng - chờ một ngày duyên đủ… đã bàng hoàng đến và ở lại!

Ôi, biết bao lần trong đời tôi có thể nghe một bài hát chỉ được hát lên một lần của Nguyễn Tất Nhiên trong ca từ có tên (rất gợi) của một tập truyện Nguyễn Thị Hoàng “ĐẤT HỨA”…

“Bên nhau dắt díu tay đan ngón yếu qua cầu nuối nắm nhau tình đau
Bên nhau ánh mắt vương tơ tóc buốt vào tim
Bên nhau thấy Chúa không cho ĐẤT HỨA chung về
Bên nhau thấy thế gian ngăn chắn lối chung đời
Ngồi bên nhau tiêu điều…”



FullSizeRender_2

Biết bao lần trong đời tôi có thể ráp nối một CHUYẾN TÀU cuối trước cơn hồng thuỷ từ những số báo ngẫu nhiên xô dạt vào đời tôi, những số báo theo thứ tự nhưng không lần lượt xuất hiện  - như những cánh rong trôi dạt về miền tôi…từ một miên viễn xa ngái nào đó… trôi về và neo tặng những cơn mộng đẹp… http://huyvespa.blogspot.com/2017/02/nguoi-con-gai-ngoi-oi-mot-chuyen-tau-ve.html

Biết bao lần trong đời, người ta có thể thật sự sống trong một giấc mơ? (hay nói cách khác mơ trong tuổi sống) – “Il vaut mieux rêver sa vie que la vivre, encore que la vivre ce soit encore la rêver” (cũng là câu trích của Marcel Proust mở đầu truyện ngắn Thành Phố Dốc Đồi). Đọc truyện-không-chuyện này trong một số Văn từ năm 1967 - Mây Mùa Thu và thầm nghĩ về nó –  nghĩ về nó đã 10 năm – với một ký ức không thật là mình “sẽ”/”đã” có nó – những ý nghĩ trở đi trở lại trong những lần đến Đà Lạt (mà tôi vẫn không đoan chắc, truyện ngắn ấy viết ở dốc đồi…Đà Lạt), và trong lần trở lại mới đây, cũng đến từ một cơ duyên không biết trước, tôi đã cầm được trong tay những miên-man-nghĩ, những câu văn chảy chầm chậm rót qua kẽ tay theo một nhịp thơ …thơ mộng …

"Hãy thinh không nhé, hãy trùng khơi/ Hãy im lặng đến thời lên tiếng/ Vì tiếng em cao vọng tuyệt vời" (Duyên Anh) 

Thinh không không trống rỗng mà chính là đang bát ngát mở ra gọi mời…

huyvespa@gmail.com

FullSizeRender_6IMG_6639IMG_6620IMG_6611IMG_6610IMG_6609IMG_6608 



Với 1 "không khí" (văn chương) đặc trưng (?!?) của miền Nam 1975, trong tập san Văn (số tuyển tập Mây Mùa Thu - ra ngày 1/9/1967 – với hình bìa là những nét vẽ của Nguyễn Trung) truyện ngắn tôi thích nhất là THÀNH PHỐ DỐC ĐỒI của hoạ sĩ/ nhà văn/ nhà thơ HOÀNG NGỌC BIÊN  viết theo "trường phái" tiểu-thuyết-mới)(sau đó được in lại trong tập tuyển truyện này - một quyển tôi rất thích- vì khi đọc nó cho độc giả một cảm giác không suy nghĩ về bất cứ thứ gì (& mặc dù đó cũng là điều (để) phải-suy-nghĩ), chỉ mặc cho tâm tưởng trôi theo những cảnh vật, những frame-by-frame của "hoàn cảnh" - sách do NXB Cảo Thơm phát hành - năm 1970, với bìa và phụ bản rất ấn tượng của Nguyễn Đồng, Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Đăng Thường.

Thành Phố Dốc Đồi là 1 trong những truyện ngắn nhiều "sắc màu", nhiều khung hình, nhiều miêu tả...ẩn sâu dưới vẻ (tưởng chừng như) điềm tĩnh của nhân vật chính trôi qua một cảnh huống (tưởng chừng như) đơn giản trong "kinh nghiệm" riêng của chính mình và những cách xoay sở riêng để "vượt qua" hay "chấp nhận" cảnh huống ấy...

Một truyện không có chuyện, chỉ là 1 lời tự sự, 1 im lặng thở dài, của 1 cô gái, về mối tình đã qua của mình...nhìn cảnh mà nhớ người..cảnh vật của 1 thành phố dốc đồi như trút tràn những nhớ thương, chập chùng những bóng hình và cũng chếnh choáng theo heo hút của từng kỉ niệm, kỉ niệm bủa vây lấy cô gái, từ một thanh âm nhỏ nhất cho đến những "tiếng động nào gõ nhịp khôn nguôi", những đổi thay bâng quơ, những xáo động như-nó-phải-là...
5 "truyện" trong Đêm Ngủ Ở Tỉnh vẫn một giọng văn đều đều như vậy, xuôi chảy theo dòng ý thức với giàu hình ảnh và cả chất thơ... trao cho độc giả những "mê đắm" xúc cảm (nếu có) tự thân rất thú vị.
Hãy cùng du hành trong một "chuyến đi" không định trước ở một "thành phố dốc đồi" không định vị cùng một nhân vật không danh tính...để cuối cùng … chỉ còn là…

THÀNH PHỐ DỐC ĐỒI

Il vaut mieux rêver sa vie que la vivre,
encore que la vivre ce soit encore la rêver.
(Marcel Proust)

Em nghĩ thầm, vài ngày nữa, vài tháng nữa, em sẽ trở về dạy học, em biết em sẽ không thể kéo dài tình trạng này lâu hơn nữa, vả lại rồi cũng chẳng đi đến đâu, ở lại đây cũng chẳng giúp gì được cho em, mà thật tình em cũng chẳng thấy cần phải được giúp đỡ, mọi việc rồi sẽ qua đi, em sẽ trả căn phòng thân yêu này lại cho một sinh viên lên trễ, em sẽ thu xếp để có một giấy chứng của bác sĩ đem về trường, mọi việc rồi sẽ qua đi, em tin tưởng...

Em trở về đây một lần nữa anh ạ, em đang ở đây, đang ngày ngày đi trên những con đường cũ bây giờ như đã được mở rộng ra hơn, kéo dài ra hơn, đang đêm đêm đi vòng quanh khu chợ sáng đèn, ngắm những tiệm tạp hóa hình như có vẻ huy hoàng hơn trước nhiều, và mỗi buổi sáng buổi chiều em lên xuống con dốc quen thuộc để đi ăn, giống như hồi còn đi học – em trở về đây một lần nữa, và em hiểu rằng đây sẽ là lần cuối cùng, bởi vì em nay đã hiểu được em, bởi vì em nay đã khôn lớn, đã trưởng thành, và em cũng đang buồn vì sự trưởng thành khôn lớn của em đây.
Mùa hè vừa chấm dứt ở Đà nẵng với những cơn nóng gay gắt, mỗi ngày em ra vào sửa soạn chuyến đi của em, em loay hoay thu xếp những quần áo ấm, em lôi ra từ dưới đáy hòm chiếc pardessus màu trời xanh mà anh và các bạn anh đã thích, những chiếc áo dạ áo len, tay dài tay cánh, và trong cái gay gắt của những buổi chiều nắng cuối hè ở đây, em đem những thứ đó ra ướm thử trước gương, như dạo trước, em thử làm những điệu bộ quen thuộc ngày xưa của em, và bất chợt em thấy mình đã khác nhiều, vẫn những cái ngước nhìn bâng quơ, những cái cười quay mặt cúi xuống đất, những cái lắc đầu lùa tóc về một phía, nhưng trong những điệu bộ diễn ra giữa khung cảnh, hay đúng hơn là giữa cái bố cục đoan chính cổ điển mà kín đáo của căn phòng hiện ra trong mặt gương phản chiếu, em đọc thấy một cái gì nhạt nhẽo vô vị, nếu không bảo là chua chát, những rung chuyển dịu dàng của thịt da trên hai gò má bây giờ đã bớt ửng hồng, những đường nhăn hai bên khóe mắt khi em cười ngày xưa em hãnh diện vì đã tạo cho em những nét độc đáo bao nhiêu thì những thứ đó ngày nay lại báo hiệu cho em bấy nhiêu muộn phiền, bấy nhiêu mất mát. Em cố tìm lại tất cả những đồ vật quen thuộc đã từng cùng với anh làm đẹp cho căn phòng nhỏ của em trên này, những cuốn sách, những tập ảnh, hộp phấn son, khung hình nhỏ lồng chiếc ảnh chụp anh ngồi cười trên mỏm đá giữa những bọt nước bắn tung tóe lên quá đầu người, em cố tìm lại tất cả những đồ vật đã từng cùng với anh làm đẹp cho những tháng ngày xa lạ của em giữa thành phố lạnh đó, em đem bày hết ra trong căn phòng đoan chính đức hạnh của em, em ngắm nghía những thứ đó với tất cả lòng thân yêu còn lại trong em, những vật tự nó chẳng là gì cả mà lại chan chứa, lại đầy dẫy sự hiện diện của anh – và đồng thời cũng ngập tràn sự vắng mặt mà em nghĩ đang bắt đầu quên, đang bắt đầu có thể quên được, có thể chịu đựng được, nghĩa là chịu đựng một cách thản nhiên, bởi vì suốt cả hai năm dài đối diện với đám bạn bè đồng nghiệp, những bạn gái và bạn trai, suốt cả hai năm dài đối diện với lũ học trò, suốt hai năm không hề được tin tức anh, không biết anh thức dậy buổi sáng thế nào, không biết anh ăn uống ra làm sao, không biết giờ ngủ của anh, những bạn bè của anh, những kẻ thù của anh, những người anh thương và những người anh ghét, không biết anh đau khổ hay hạnh phúc, có trầm tĩnh ở yên được một chỗ hay vẫn lông bông suốt ngày, suốt cả hai năm dài mà mỗi ngày buồn bã trôi qua, mỗi buổi chiều khi ra khỏi lớp, em lại tập dần thói quen ra biển, gặp mặt một vài người quen biết nhưng không hề có dịp chào hỏi, không hề có dịp tiếp chuyện, hay những du khách lạ mặt chợt đến chợt đi, tập quên dần nhữ g con dốc những ngọn đồi của anh, những tiệm ăn những rạp hát anh thường hay dẫn em đến, suốt hai năm dài đó em không thể bảo là em đã chịu đựng được sự vắng mặt của anh, em cô đơn sống hình như lúc nào cũng đợi cũng chờ, một lá thư của anh, của bạn anh, hay của bất cứ ai có biết và nhắc đến anh, em chờ đợi, cho đến khi em hiểu được anh, hiểu được em, tánh trẻ con của anh và sự ngộ nhận quá lâu của em, cho đến, cho đến khi em nghĩ đến chuyến đi – hay đúng hơn là chuyến trở về – mà mãi đến nay em mới quyết định được.
Em ở nhà suốt một tuần lễ, và trong lúc mẹ em, anh chị em em, là những người đang lo lắng hay ít ra cũng tỏ vẻ lo lắng vì thấy em buồn rầu quá lâu mà không ai an ủi được, không ai giúp đỡ được gì, trong lúc mọi người trong nhà, nhất là mẹ em, vẫn đinh ninh là em đang thu xếp để về Huế chấm thi, hay trở về trường dạy học, bởi vì hè sắp hết, những cơn gió biển thổi vào thành phố đã bắt đầu hơi trở lạnh, trong lúc mọi người trong nhà đều yên trí em đang quyến luyến với gia đình, với căn phòng mà ai cũng không ngờ được là em đã quá chán ghét này, thì thật ra em đang nghĩ đến anh, đến một căn phòng khác ở Dalat mà đêm đêm trước ngọn đèn bàn – quà của anh – chiếu thẳng vào khung hình nhỏ lồng chiếc cảnh chụp anh ngồi cười trên mỏm đá em vẫn cúi đầu trên trang sách đọc dở, cảm giác bàn tay anh ve vuốt trên tóc, em đã ở nhà suốt một tuần lễ, em quên dần những buổi tối dạo chơi ngoài bờ biển với mẹ và các em, em đang cố thu hết can đảm và nghị lực sống lại một mình những ngày đẹp của em, của chúng ta, em đang vùng vẫy ra khỏi em.

Em lên đây tính như vậy đã hơn tháng rưỡi rồi, các trường trung học đã bắt đầu khai giảng hơn hai tuần lễ nay, trên các ngả đường trong thành phố, những con đường cũ có vẻ đã được nới rộng ra hơn và những đường mới dường như chưa kịp mang một danh hiệu nào, lá cũng đã bắt đầu rơi nhiều hơn một tháng nay, còn em, em vẫn đang nghỉ hè trong mùa thu, những ngày hè buồn bã nhất mà cũng là những ngày hè hạnh phúc nhất của đời em, bởi vì em nay đã khôn lớn, đã trưởng thành, và em đang sống lại, đang tìm cách sống lại những ngày xưa, trên những con đường dốc sỏi mà anh đã thích đi (em thấy lại hai tay anh múa may phân trần giải thích, những ngày trời lạnh anh thường hay đút cả hai bàn tay đó vào túi quần hoặc ôm vòng kẹp vào nách, hai vai anh rút lên tận cổ chiếc áo len màu đen chính tay em đã đan tặng anh trong ngày sinh nhật, đôi chân anh nhún nhẩy thỉnh thoảng hất về phía sau đá lung tung những viên sỏi lăn dài trên mặt đường), dưới những chòm cây anh thích núp bóng mặt trời, trước những tủ kính mà mỗi khi có dịp đi qua anh vẫn dán sát khuôn mặt trẻ thơ của anh vào thật lâu để ngắm bìa những tờ tạp chí quen thuộc, những cuốn sách bìa cứng gáy mạ vàng, em đang tìm cách sống lại những ngày đó, những ngày non dại của em, sống lại một mình, không có anh, và trong cái lạc lõng mông mênh này em như đã tìm thấy được một thứ hạnh phúc mới, có lẽ là sự vắng mặt của anh, có lẽ thế thôi, bởi vì sau hai năm – hay hai niên học, em không còn nhớ nữa – sau hai năm xa anh, bây giờ em mới thật sự được nghĩ tới anh, được sống với anh một cách trọn vẹn, trong căn phòng thân yêu ở tầng lầu thứ ba, bây giờ em mới thật sự được nghĩ tới anh, tới đời sống của em. Học sinh đã tựu trường từ hơn hai tuần lễ nay, hơn hai tuần lễ nay em đã lại thấy những toán nữ sinh mặc đồng phục màu trắng lũ lượt kéo nhau lên con dốc trước chùa, trước ngôi chùa nằm lưng chừng con dốc quanh co mà anh vẫn thường phải đi ngang qua mỗi lần đưa em về nhà, em đã lại nghe những tiếng hát vui vẻ và tiếng vỗ tay cười la vọng ra từ sân vườn các lớp mẫu giáo, những du khách chen lấn nhau chung quanh khu chợ quá chật hẹp trong những ngày em mới lên đây bây giờ gần như đã lần lượt biến mất, hơn hai tuần lễ nay em vắng mặt không lý do ở trường, không thư tín không đơn từ, mọi người có lẽ đang thắc mắc về sự vắng mặt đó, chắc hẳn phải có đến ba bốn điện tín ở trường gửi về nhà, và nếu em cho địa chỉ chắc hẳn cũng phải có đến bốn năm điện tín ở nhà gửi lên đây, em đang kéo dài vụ hè của em, kéo dài nỗi cô đơn êm dịu của em, kéo dài cả sự bối rối âu lo, vì em đã cố ý thoát ra khỏi những ràng buộc thường nhật, thoát ra một cách lạnh lùng, dửng dưng, em đã im lặng trư ? nỗi hốt hoảng của mọi người, của mẹ em, của cả gia đình em, của các bạn đồng nghiệp, của mấy lớp học đang phải bỏ về khi tới giờ em phụ trách, của những người từ lâu vẫn hiện thân cho đời sống vô vị của em, đời sống mà em vô tình phải tham dự nhưng không hề sống đến.
Bây giờ em đang ở đây, trong căn phòng trọ ở tầng lầu ba mà anh đã từng lên xuống nhiều lần, em nằm trên chiếc giường một người mà có lẽ vì cảm tình bà chủ nhà đã cố ý cho mang lên, chiếc giường con bây giờ vẫn còn mang vết mực màu xanh đen mà hôm anh đến chơi lần đầu, gặp lúc em đang cho mực vào ống bơm cây bút máy chính anh đã tặng cho em một tháng trước, em đã cảm động đến nỗi đánh đổ cả lọ lên phía đầu nằm, bây giờ nhớ lại điệu bộ hốt hoảng của em khi chạy khắp phòng kiếm giấy để lau chỗ mực đang thấm dần vào chiếc drap trắng, nhớ lại cái nhìn dịu dàng thương hại của anh, với vẻ bối rối hiện rõ trên khuôn mặt của cả hai đứa, em mới nghĩ ra dạo đó chúng ta thật là trẻ con – hôm đầu tiên bà chủ nhà cho mang chiếc giường lên, thoạt trông thấy lại vết mực em đã thấy nhói lên một mối khổ tâm pha lẫn với một thứ hạnh phúc lạ lùng, em nghĩ đến anh như một ý nghĩ quen thuộc, nhưng vết mực kia, vết mực màu xanh đen đánh dấu ngày anh đến phòng em, bước một bước thật dài vào cuộc sống của em, quả thật nó có để lại một cái gì bất thường, cái bất thường mà em tưởng không bao giờ quên được nhưng rồi cũng đã quên đi. Bây giờ trời đang mưa, căn phòng trọ tối hẳn, em bật chiếc đèn nhỏ ở đầu giường và nằm ôm gối đọc sách, những đám mây đen kéo nhau chạy qua khung cửa sổ trước mặt em như những đoạn phim hư, những đoạn phim đang chiếu lại quãng đời vô vị lẽ ra em không nên sống theo – em nhìn những đám mây đó êm đềm trôi qua, lặng lẽ, và chính em cũng đang lặng lẽ trôi theo với những tháng ngày vô nghĩa, em biết mọi người đang thất vọng về em, về óc không thực tế của em, cha mẹ em trước tiên, rồi đến những đồng nghiệp, và biết đâu luôn cả lũ học trò của em – em nằm đây, trước cuốn sách của một tác giả quen thuộc của anh, em ôm chiếc gối màu trời xanh mà em đã cố tình đem lên đây, em nghe tiếng xe cộ vọng lên từ dưới con đường nhựa lởm chởm đá xanh trước mặt nhà, em nghe rõ từng tiếng bánh xe sụp xuống những ổ gà ăm ắp nước mưa, hòa với những âm thanh thường xuyên của một khu phố thương mại, em tưởng như nghe đâu đây trong tiếng gió lời trách mắng của những người thân, lời trách mắng thật là nặng nề, tưởng như thấy được cái nhìn thất vọng của cha em, của mẹ em, em cầm trên tay cuốn sách của một tác giả anh thường hay đọc dạo đó nhưng bây giờ có thể không còn là tác giả của anh nữa, và những hàng chữ tiếp tục nhảy múa, mờ dần, mờ dần, em không đọc được chữ nào cả.
Dạo trước, những buổi chiều mưa như thế này, em thường hay nghĩ đến anh, em cũng nằm trên chiếc giường con có một vết mực màu xanh đen ở phía đầu nằm, em cũng bật ngọn đèn đầu giường lên và đem sách ra học, nhưng dạo trước làm sao em có thể nằm yên như thế này được, chắc hẳn em sẽ khoác áo mưa vào, chiếc áo màu trời xanh mà anh và các bạn anh vẫn thích, em sẽ đến mở cửa (chiếc cửa nằm ngay chỗ cầu thang lên xuống mà mỗi lần đến thăm anh vẫn vẫn thường hay gõ rất nhẹ, rất dè dặt, rồi đứng yên đợi em ra), em sẽ bước xuống hai tầng lầu để ra đường, em sẽ đi lên phố, sẽ ghé mắt qua các tiệm billard để tìm anh, để được yên chí rằng anh còn đó, đang vui chơi, em sẽ thấy ghen tức với các bạn của anh, nhưng em sẽ chỉ hơi ghen thôi, sẽ không đứng lâu ở đó để anh khỏi trông thấy, để khỏi làm anh bận tâm, dạo trước, những buổi chiều mưa như thế này, em sẽ khoác áo đi tìm anh, em sẽ ghé mắt vào các tiệm billard, nhưng em cũng không quên nhìn kỹ qua các khung cửa kính khép kín của các tiệm café lờ mờ bóng đèn điện để tìm anh, em sẽ đi qua những tiệm ăn quen thuộc, những tiệm bánh, những tiệm chụp hình, những hàng quán nằm hai bên vệ đường, hai tay em ôm vòng lồng ngực lạnh ngắt trước luồng gió dưới hồ liên miên thổi lên, em sẽ qua mặt những bạn bè trong đại học, nhiều người trong bọn họ biết đâu sẽ đoán được ý nghĩ của em, mục đích cuộc dạo phố dưới trời mưa của em, biết đâu họ sẽ đọc được trong đôi mắt say đắm của em những ước mơ thầm kín nhất, dạo trước, những buổi chiều mưa, em đâu có nằm yên được thế này, em sẽ khoác áo một mình lên phố tìm anh, em sẽ trở về một mình, sẽ bước lên hai chiếc cầu thang dài thăm thẳm để đến tầng lầu thứ ba, sẽ vào phòng thay áo và nằm lên chiếc giường nhỏ có vết mực màu xanh đen, nghe lại những tiếng động vọng lên từ dưới đường, và nghĩ đến anh.
Bây giờ em đang nằm một mình ở đây, đang cầm trên tay cuốn tiểu thuyết vừa mới mua sáng nay khi vào núp mưa trong một tiệm sách ngoài phố, đang tìm lại từng tiếng động nhỏ ngày xưa đã nhiều lần vô tình làm gián đoạn, vô tình quấy rầy những buổi chuyện trò của chúng ta, những buổi chuyện trò tình tự thường khi vẫn kéo dài gần suốt cả ngày, như tiếng trẻ con khóc bên hàng xóm, tiếng cãi nhau của một cặp vợ chồng láng giềng, tiếng máy một nhà in từ xa vọng đến, em đang tìm lại, đang lắng nghe những tiếng động có giờ giấc, như tiếng máy xe hơi của ông chủ nhà ngày hai bận đến sở làm, tiếng rửa chén bát vọng lên từ nhà bếp ở tầng dưới cùng ngày xưa mỗi buổi trưa thường đánh thức em dậy để đến trường, những âm thanh quen thuộc đã tạo nên cái không khí nồng nàn thân yêu mà em vẫn thấy thiếu thốn – nhưng rồi cũng vẫn phải chịu đựng và đã chịu đựng được – bây giờ em nằm một mình trên căn gác trọ ở tầng ba, em tưởng như nghe lại hết những âm thanh đó (hay chính em đang nghe thật?), mỗi âm thanh không một mối liên lạc gì mà lại gợi trong em từng khoảnh khắc thời gian nho nhỏ trong ba năm học êm đềm, tiếng trẻ con khóc hình như có làm sống lại một buổi giận hờn giữa hai đứa? tiếng cãi nhau giữa hai vợ chồng láng giềng chắc hẳn đã nhắc lại bữa ăn chung đầu tiên ngoài phố? hay nhắc lại buổi dạo chơi đầu tiên bị bạn bè bắt gặp? thế mà em đang tìm lại những âm thanh đó, để được thấy anh, em tìm lại không khó, bởi vì chung quanh em bây giờ vẫn vang dội những tiếng động cũ, sau hai năm âm thanh đã có xa lạ đi nhiều, đã mất đi vẻ thân mật, cũng như em, một mình giữa thành phố này, không anh, em cũng đã là một người lạ rồi.
Em đưa tay đẩy chiếc màn nhung đỏ nặng nề và bước ra khỏi rạp hát, trời lúc này đã tạnh hẳn, và hình như trời hết mưa thì gió lại lạnh hơn, em đưa tay trái lên xem đồng hồ và thấy hãy còn sớm – ở đây mười giờ rưỡi đêm kể ra cũng chưa lấy gì làm khuya lắm – em tần ngần đứng nhìn các bích chương quảng cáo các phim sắp chiếu trong vài ngày nữa, vài tháng nữa, những hình người đàn bà tây phương trần truồng, với hai cánh tay trắng nõn ôm vòng hai vai, trong dáng điệu sợ hãi mà quyến rũ, bên cạnh những thân hình đàn ông lực lưỡng đang chỉa súng vào em, em tần ngần đứng nhìn các bích chương đó, và các thông cáo của tòa thị chính dán trên ba phía vách tường, (em nhớ đến hôm đi chơi ở hồ bị mưa đột ngột anh đã cầm tay em cùng chạy băng lên con dốc rất gắt trước rạp hát để vào trú mưa, cơn mưa chiều hôm đó kéo dài, chúng ta đã đi lui đi tới nhiều lần dọc theo ba bức tường quét vôi vàng dán đầy bích chương quảng cáo và các thông tư của tòa thị chính, hình như anh đã có càu nhàu vì phải lỡ mất một buổi hẹn các bạn anh ở tiệm billard, hay ở một tiệm café nào đó, và hình như em đã có giận,) bây giờ em bỏ ra về giữa chừng cuốn phim, em chưa biết sẽ đi đâu, nhưng nhất định em chưa muốn trở về, em bước ra cửa lớn, một luồng gió lạnh dưới hồ tạt lên, em đưa tay kéo cổ áo thật cao và bước ra đường. Em đi dài theo con đường dẫn ra khu chợ lúc này hãy còn sáng đèn, đêm nay là tối thứ bảy, từ năm sáu giờ chiều các chiếc xe hơi đủ màu đã bắt đầu vượt qua mấy cây số sương mù trên đèo Prenn để tiến vào thành phố, những xe trễ nhất bây giờ cũng đã nằm yên tĩnh chung quanh khu chợ, trước một tiệm ăn chẳng hạn, hay có thể đã nằm ngơi nghỉ trong nhà xe của một khách sạn hay một biệt thự nào đó, đêm nay là đêm thứ bảy, các tiệm ăn hãy còn mở cửa, các tiệm tạp hóa hãy còn nhiều người ra vào, phần đông là du khách ở Saigon lên, họ không còn tấp nập như mấy tháng giữa hè, bởi vì bây giờ đã vào thu, nhưng họ vẫn còn lên đây, họ vào các tiệm tạp hóa, tò mò xem xét những cung những nỏ, những chiếc gùi đan bằng mây, những nhà sàn đan bằng tre, họ nhìn thật gần những tấm vải mọi nhiều màu, những hàng ren dệt thật bền, thật công phu, họ nhìn, họ mua... Phố xá lúc này vẫn sáng đèn, em đi mấy vòng quanh khu chợ, qua những tiệm len, những hiệu ảnh, em đưa mắt gần những tủ kính để nhìn những bức ảnh bán thân bây giờ đã thay đổi khuôn mặt, để tìm giữa những hàng dài áo pardessus một kiểu mới, hay một màu lạ, rồi em ghé vào một tiệm ăn quen thuộc ngày xưa anh vẫn thường dẫn em đến, em ngồi vào chiếc ghế bành lót nệm màu nâu đen đã cũ, yên tĩnh, trước chiếc bàn thấp ở bên phải cửa ra vào, phía b ?mặt kính có chữ POUSSEZ, đối diện với quầy rượu, từ đây em có thể nhìn gần trọn cả khu chợ, luôn cả tiệm thuốc tây nằm cuối con đường vòng ra bến xe cũ, và đến khi em uống hết nửa ly cà phê đen – chính anh đã tập cho em uống cà phê đấy – đến khi em uống hết nửa ly cà phê đen, thì phố chợ không còn sáng rực như lúc trước, gần như cùng một lúc, một vài tiệm đã đóng cửa tắt đèn, qua khung cửa kính trên đó người ta ghi bằng phấn trắng những thức ăn đặc biệt trong ngày, những chữ ngoại quốc, em không còn trông rõ như khi mới bước vào tiệm, khách bộ hành bây giờ chỉ còn là những bóng mờ di động trên một màn sương mù ẩn hiện đây đó một vài chấm sáng hoặc lớn dần hoặc quét dài ra, một vài đường nét, vài góc cạnh của khu phố chợ về khuya.

Niên học đã bước qua tuần lễ đầu của tháng thứ hai, gần năm tuần lễ nay em vẫn nguyên trong tình trạng cũ, gió ở đây mỗi ngày một lạnh hơn, những cơn mưa bụi bắt đầu đều đặn kéo dài, những con suối mùa hè bây giờ có lẽ cũng đã hết khô nắng, lớp bụi vàng đóng trên các thân cây sau những trận mưa đầu thu chắc hẳn đã dần dần biến mất để lộ lớp vỏ sần sùi, rách nát, gần năm tuần lễ nay em vẫn nguyên tình trạng cũ, ngày ngày đi trên những con đường cũ bây giờ như đã được mở rộng ra hơn, kéo dài ra hơn, đêm đêm đi vòng quanh khu chợ sáng đèn, ngắm những tiệm tạp hóa hình như có vẻ huy hoàng hơn trước nhiều, và mỗi buổi sáng buổi chiều em lên xuống con dốc quen thuộc để đi ăn, giống như hồi còn đi học – và cũng giống như hồi còn đi học, những sáng chủ nhật trời nắng ấm (lạ thay bây giờ cũng như ba bốn năm về trước em vẫn có cảm tưởng là ở đây ít khi trời mưa vào những sáng chủ nhật) em lên phố ăn sáng, em cũng lại vào tiệm ăn ngày xưa anh thường dẫn em vào, em cũng lại gọi những món nhẹ để điểm tâm, em ngồi trên chiếc ghế bành mọi hôm em vẫn ngồi, chiếc ghế bành lót nệm màu nâu đen đã cũ, tay phải em đặt lên chiếc áo pardessus màu trời xanh, bên cạnh cuốn tiểu thuyết đang đọc dở, tay trái em thỉnh thoảng nhịp nhịp theo điệu nhạc êm dịu phát ra từ bộ phận phóng thanh móc trên trần nhà, điệu nhạc mới em chưa từng nghe, nghĩa là chưa từng nghe cùng với anh bao giờ, chiếc ghế bành kê ngay sau khung của kính, hướng ra đường, từ đây em có có thể nhìn thấy gần hết cả đám người hỗn tạp mà phần đông tuy có di động nhưng hình như không rời khỏi bốn khu phố ngắn bao quanh công trường, họ là những người đi nghỉ mát cuối cùng còn lại ở đây, hoặc là những du khách chỉ quen đến vào chiều thứ bảy và chiều chủ nhật đã vội lên xe trở về, họ là những thị dân trong thành phố, phần đông suốt sáu ngày liền trong tuần lễ gần như không hề ra khỏi nhà, đến ngày chủ nhật có dịp ra phố, họ dạo quanh chợ thật lâu, nhìn ngắm thật kỹ, như để ôn lại những sinh hoạt cùng những thay đổi trong sáu ngày trước mà họ đã không được chứng kiến hay tham dự, họ là những đồng bào thượng xuống phố buôn bán, những người đàn ông lực lưỡng luôn phì phà chiếc vố do chính tay họ làm lấy, và những người đàn bà lủng lẳng những cặp vú lớn đen bóng trước ngực, giống như những bức phấn tiên em thường được cùng xem với anh trong các phòng triển lãm hội họa, họ là những sinh viên đại học, những sinh viên mới và những sinh viên cũ, nhưng dù cũ hay mới, họ cũng chỉ mới lên đây sớm nhất là một tuần lễ nay, có người đã quá quen với cảnh nhộn nhịp khác thường của bốn góc phố này, như em, như anh, chỉ im lặng đứng hút thuốc hay chuyện trò bên các trụ đèn hoặc dựa vào mặt tiền các căn phố lớn để nhìn ngắm, nhưng sinh viên mới lên lần đầu, bỡ ngỡ trước muôn ngàn màu sắc rực rỡ của những chiếc áo ấm, tò mò nhìn vào các tiệm tạp hóa mà cách bày biện dĩ nhiên cũng có khác lạ, với những cung những nỏ, những gùi lớn đan bằng mây, những nhà sàn đan bằng tre, họ nhớn nhác thăm dò, em nghĩ có lẽ là những sinh viên mới, mới đối với đại học và mới đối với thành phố, họ cũng như em, như anh cách đây mấy năm, cũng thắc mắc về nơi ăn chốn ở, về túi tiền (một tháng họ sẽ phải tiêu mất bao nhiêu chẳng hạn, những vấn đề họ chưa bao giờ phải đặt ra khi còn ở trong gia đình), thỉnh thoảng họ cũng thấy mình lạc lõng, mất hút, trong một căn gác trọ nào đó, cho đến, cho đến ngày tình cờ mỗi người trong bọn họ tìm thấy được một người để nói chuyện, hay để thương yêu, như em đã tìm thấy được nơi anh (và cũng đã vội đánh mất đi với anh), họ cũng là những học sinh, những học sinh ngoại trú ngoài giờ học vẫn được rong chơi suốt cả tuần lễ nhưng lại còn muốn rong chơi nhiều hơn nữa, những nam nữ học sinh nội trú các trường nhà dòng, các trường bà phước hoặc các trường trung học Pháp chỉ được dạo phố trong một thời gian giới hạn, đang vội vã thưởng thức những phút giây hiếm hoi được hoàn toàn tự do trong tuần lễ, họ cũng là những người em quen mặt bây giờ có vẻ già hơn, buồn hơn, âu lo hơn, có lẽ sau những cuộc chính biến xưa nay vốn ít khi xảy ra nơi này, những sáng chủ nhật trời nắng ấm, em lại ra ngồi nhìn đám người qua lại chung quanh khu chợ (họ di động mà hình như vẫn không rời khỏi bốn khu phố bao quanh công trường), em nhớ đến anh, ý nghĩ thật là quen thuộc, em nhớ đến những sáng chủ nhật của anh và của các bạn anh – đến lần đầu tiên gặp anh cũng nơi chiếc bàn thấp này, dưới ấn bản một bức tranh Tàu mà sau này em đã thấy quen dần, anh đang ngồi trầm ngâm nhìn ra phố, hai tay anh đều tựa lên thành ghế, nhưng chỉ có bàn tay trái của anh mới nhịp nhịp theo một điệu nhạc êm dịu, điệu nhạc em nghe lần đầu tiên hôm đó nhưng đến bây giờ thì không còn xa lạ nữa, và có nhiều đêm yên tĩnh tai nghe tiếng côn trùng từ xa vọng lại, em cứ ngỡ chính là bài nhạc đó, từ nhà ai phát ra, em khẽ hát theo và có cảm tưởng những âm thanh kia của thiên nhiên đang trùng hợp với những âm điệu của bài nhạc – em đưa tay phải cầm tách café đưa lên miệng, nhưng em sẽ không uống vội, em sẽ kéo dài buổi sáng của em, cũng như em đang kéo dài vụ hè này, đang kéo dài nỗi lo âu hốt hoảng của gia đình, sự kinh ngạc của các bạn đồng nghiệp, mối bận tâm của bà hiệu trưởng, và nỗi vui mừng của lũ học trò mỗi khi đến giờ em dạy được cắp sách ra về, em sẽ còn kéo dài tất cả những thứ đó đến tận đâu, đến bao giờ?

Bây giờ em đang ngồi trong căn phòng trọ ở tầng lầu ba, ngoài kia trời cũng đang mưa, em vừa thức dậy với tiếng rửa chén bát ở nhà dưới, em ngồi trên chiếc giường nhỏ có vết mực màu xanh đen ở đầu nằm, em dựa lưng vào thành giường, hai tay ôm trọn đầu gối, em kê đầu lên hai cánh tay, mặt hướng vào chiếc bàn viết trên đó em bày những cuốn sách của em, bên cạnh khung hình nhỏ chụp anh ngồi cười trên mỏm đá, những cuốn sách em đã cố tình đem lên đây nhưng chưa hề cầm đến, dĩ nhiên, vì đó là những cuốn sách cũ, em đã mua (hoặc anh đã cho em) từ lâu và cũng đã đọc qua từ dạo còn đi học, em còn nhớ cái hôn đầu tiên đánh dấu sự thua trận của em đã xảy ra ở chiếc bàn này, sau buổi khiêu vũ ở trường vào đêm Giáng sinh, hôm đó anh đã cúi xuống trên tóc em, anh đã cúi xuống một cách đột ngột quá, làm em không kịp phản ứng (hay em đã phản ứng rất yếu ớt?), anh nói với em bằng một giọng thật nhỏ nhẹ, thật dịu dàng, đến nỗi em không nghe rõ được gì cả, và anh vẫn tiếp tục nói trong cổ họng, như để tự trấn an mình, để được can đảm hơn, thế rồi em không biết anh đã theo những con đường nào để ghé khuôn mặt trẻ thơ của anh trên má em, khuôn mặt còn đẫm hơi sương nhưng hình như đang ấm dần. Bây giờ em ngồi ở đây, em nhìn lại cả căn phòng thân yêu đầy dẫy sự hiện diện của anh, em nhìn lại chỗ đinh trên tường bây giờ để không, ngày xưa chính tay anh đã đóng lên để treo bức tranh của một người bạn tặng anh, bức tranh lớn quá nên em đã không đem theo lên với em được, em nhìn lại những chỗ tường bị lở, ngày xưa em vẫn thích ngồi tưởng tượng ra những hình thù lạ lùng mà những vết lở đó để lại, em nhìn lại chỗ móc áo, tay nắm bằng sành bị bể mất một nửa ở cửa ra vào, hộp gỗ móc màn sơn nâu đã ngả màu phía trên cửa sổ, chiếc bàn con ở đầu giường em dùng làm chỗ đựng hộp son phấn, em nhìn lại những thứ đó một cách buồn rầu, bất chợt em bắt gặp mình đang nghe ngóng, đang chờ đợi, em thở dài trong sự chờ đợi nghe ngóng đó, em đứng xuống đất đi ra cửa sổ, trời vẫn còn mưa, bên kia là khu nghĩa trang của thành phố, những cơn mưa đầu thu đã rửa sạch lớp bụi vàng, những ngôi mộ bây giờ trắng xóa, nhìn từ xa cả nghĩa trang trông giống như một thành phố thứ hai, một thành phố vắng ngắt, sạch sẽ nhưng cũng thật lạnh lẽo, bên kia là những con đường đất ngoằn ngoèo chạy dài trên đồi thấp thoáng bóng một vài người đang cắm cúi đi, cao hơn nữa là nóc nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế mờ mờ sau mấy lớp mưa bụi đàng sau em, đàng sau em là thành phố, cả thành phố dốc đồi, với khu chợ đông đúc, với con đường nhựa chạy quanh hồ rợp bóng lá cây, với gác chuông nhà thờ cao vút, với tiếng chuông chùa ngân dài trong đêm mưa, với những áo ấm màu sắc rực rỡ buổi sáng chủ nhật, những tiệm ăn ấm cúng, những tiệm café lờ mờ bóng đèn màu, cả thành phố dốc đồi, với những gánh phở rong, những xe mì bốc khói, những tiệm billard đông đảo, những đồ vật miền núi, cả thành phố dốc đồi, với những mương suối quanh co, những vườn rau cải mênh mông, những biệt thự cũ và những kiến trúc mới, vài ngày nữa, em phải trả lại căn phòng này cho một sinh viên lên trễ, em sẽ phải từ giã tất cả những nơi chốn thân yêu, tiếng rửa chén bát ở nhà dưới sẽ không còn đánh thức em giữa giấc ngủ trưa, tiệm ăn trước công trường sẽ mất đi (và có thể sẽ mất hẳn) một khách hàng quen thuộc, vài ngày nữa, vài tháng nữa, bất giác em nghĩ thầm...







< hit counter

Thái Hiền - tiếng hát ấp ủ những mộng lành...

$
0
0
Từ một nơi “huyền thoại nào “em” mang mang trong lòng…một vì sao đêm đi về bí mật”, chị Thái Hiền gửi đến “tiểu luận nhỏ” của GS.TS Lê Hữu Khóa ở Pháp – một essay thú vị trên 100 trang về giọng hát Thái Hiền mang tựa đề “Thái Hiền – Nghề, Nghệ, Nghiệp” với những bức hình đẹp tuyệt vời của chị (hình như là) lần đầu xuất hiện trên mênh mang không gian "ảo"...

Được sự đồng ý của chị, tôi xin gửi link bài tiểu luận nhỏ này để mọi người có thể download:


Post lại một bài viết cũ của tôi nhân dịp tham dự Concert của Thái Hiền – ĐÊM HIỀN - tại Saigon năm 2006 



THÁI HIỀN – TIẾNG HÁT ẤP Ủ NHỮNG MỘNG LÀNH
huyvespa@gmail.com
Người ta lắng nghe Thái Hiền vì cô không hẳn đang trình diễn mà là đang kể chuyện, kể giản đơn nhưng tinh tế, không kiểu cách mà là những thấm đẫm chân thành. Giọng Thái hiền là một giọng lạnh, (dường như) là một xa cách với những gì xung quanh - khi cô hát - nhưng lại ấm nồng như thỏi than dễ dàng hồng lên ánh lửa của yêu thương, của miên viễn ngọt ngào kí ức trong lòng những tâm hồn hoang vắng.
Một buổi trưa ngày tháng hạ …mênh mông buồn hay một buổi sáng vừa thức giấc …là tàn đông; nghe giọng hát nhẹ bâng; thấy đời sao thêm tuơi sáng dù hầu hết nững tâm tình trong từng bản nhạc từ giọng ca Thái Hiền đều là những tự sự buồn. Lạ thay!
"Giọng hát này có thể trầm như tiếng núi, hay trong như tiếng suối, nhưng tựu trung kết thúc một bài hát, nó mang đến bằng sự chan hòa cho vẻ đẹp tâm hồn của người nghe".(Đỗ)
Thái Hiền hát ít và cũng ít xuất hiện trước công chúng, cô chỉ hát khi thích (có lẽ thế), nhờ vậy, (theo suy nghĩ của tôi), bài hát nào đến từ cô, đều ở lại trong lòng công chúng lâu…rất lâu…
Tiếng hát như ru, như vỗ về những vết thương lòng, như chia sẻ, như bày tỏ, như khâu vá vết cắt của tình yêu, xoa dịu những dư vị chua chát của một kiếp người, hay một cuộc tình...
Sẽ có lần bạn thấy là một ân sủng đời, nếu trong một thoáng phút giây nào đó, tiếng hát như cơn mưa rơi nhẹ nhàng và rồi phủ khắp thân thể, làm chúng ta bàng hoàng và khuất lấp như đi trong một cơn mơ...Cái bâng khuâng, thổn thức ấy khó tả lắm. Nó vừa nhẹ nhàng và mát lạnh như một cơn gió, nhưng cũng đủ ấm nồng và tràn trề xúc cảm của một cái ôm chầm.
Dường như thời gian dừng lại...nơi tiếng ca Thái Hiền bắt đầu...
Hãy cứ nhẹ nhàng, cứ tự nhiên, cứ khoan thai...mới là lúc...đến với tiếng hát như pha lê của Thái Hiền, thứ pha lê của muôn vàn nhưng tinh thể yêu thương, lân tinh hạnh phúc – hạnh phúc như trong cực cùng của “đôi ta mất hết chỉ còn nhau”…và cả những mảnh vỡ bẽ bàng, những vết xước câm nín của một "nỗi buồn dâng hiến"...
Với tiếng hát Thái Hiền, chúng ta biết hạnh phúc là có thật. Cái hạnh phúc không chỉ của những êm đềm thưở đầu, những lưu luyến ngày xưa, những ngọt ngào xa vắng…mà còn hạnh phúc vì được nếm trải những mất mát, những vụt tan, những bất toại...trong đời sống.
Có gì đó nghèn nghẹn và thổn thức trong giọng ca của cô...Khi tiếng hát ấy cất lên...Thì xung quanh..dường như..đang "chìm vào muôn thưở"...nhìn hình bóng của kỉ niệm, của nụ cười, của nước mắt...bủa vây và làm xao xác không gian, chìm lấp chúng ta ở đó – “ở chỗ nhân gian không thể hiểu”, ở chỗ "không gian đụng thời gian"...Và tôi tin chắc, chỉ có Thái Hiền mới có thể dẫn dìu thính giả vào mê cung huyền bí đó...
Như một kẻ du hành đơn độc băng ngang qua vùng sa mạc, tiếng hát Thái Hiền cũng lẻ loi như thế... Cô hát cho mọi người, cô hát cho cuộc tình… Cô hát cho kỉ niệm, cô hát cho những nguyên sơ ban đầu... Để rồi, cô chọn cho mình một góc khuất trong cuộc đời xôn xao này.
Cô đã đến với chúng ta bằng giọng ca ấp ủ những mộng lành...và cũng đã lui vào bóng tối...cũng từ chính những cơn mơ kỉ niệm ấy…Hay, cô chính là hiện thân của một giấc mộng – một cơn mộng đẹp!
Giọng hát đẹp hiền, đẹp & hiền.... như tên gọi.
“Xin đi lại từ đầu, chưa đi vội về sau”
Và, nếu giọng hát ấy là là 1 tín ngưỡng, tôi nguyện làm một tín đồ trung thành.
./.



Front


...huyền thoại nào em mang mang trong lòng...



BackSlide1Slide18Slide15Slide16Slide2Slide2Slide4Slide5Slide7Slide8Slide9Slide10Slide11Slide12Slide13Slide14Slide17

free website hit counter

"...chở hết vàng son tới ủ ê" - (uẩn tình của một kẻ xa xứ) (Cao Đồng Khánh)

$
0
0
"Chiếc xe đò cũ hơn chùa miễu
Chở hết vàng son tới ủ ê" http://www.gio-o.com/thocaodongkhanh.html

Vàng son ... đến ủ ê...
Như tâm thế của (?!? năm) văn học biển-ngoài... 

Với (những) sự (cố gắng) tình cờ tôi "từng bước từng bước thầm"..."gom góp yêu thương...quê "người"... những tác phẩm gần như là tuyệt bản của một thời rực rỡ văn-học-hải-ngoại.

Nhìn lại từ vài tựa sách cho lần gom góp này cũng thấy một phần(nhỏ) câu chuyện dài của nền văn học tiếp nối 20 năm văn học miền Nam:

"Những cơn mưa trở về"để nhắc nhớ ngày "Lửa đốt ngoài giới hạn", biết bao người đã vượt Thuỷ Mộ Quan để rồi "Quê Nhà" chỉ còn là "Vùng thôn trang diễm ảo"... Từ đó những thuyền-nhân "khởi đi từ ngây thơ để đến gần sự thật",  từ "Mặt cát đảo nghìn năm gió thổi/ Bỗng Việt Nam từ một dấu chân người" cùng gầy dựng một Việt-Nam -bên-ngoài-Việt-Nam, 

Nhưng rồi vì quê nhà - quê người http://chiasenhac.vn/…/que-nha-que-nguoi~ngoc-lan~ts3md7vbq… thì "Nhật Nguyệt Buồn Như Nhau"... "Ngựa nản chân bon" nên rồi "Âm vọng" còn lại từ "Bóng gẫy của thần tích" chỉ còn là một lời tâm ca:

"Ngày mai nếu trở về quê cũ. Hy vọng ta còn tiếng khóc chung"

huyvespa@gmail.com

20170809_IMG_717820170809_IMG_717920170809_IMG_717720170809_IMG_717620170809_IMG_717520170810_IMG_7193



20170815_IMG_725620170815_IMG_725720170815_IMG_725820170815_IMG_725920170815_IMG_726020170815_IMG_726120170815_IMG_726220170815_IMG_726320170815_IMG_726420170815_IMG_726520170815_IMG_726620170815_IMG_726720170815_IMG_7268 ./.

Tập thơ đã được scan, nếu anh/ chị/ các bạn cần file pdf xin gửi mail về cho tôi! Thanks!

Cao Đông Khánh, ngọn lửa cuồng của ngôn ngữ
- Nguyễn Vỵ Khanh - 

Thơ Cao Đông Khánh xuất hiện khi làn sóng thuyền nhân lên cao độ những năm 1980-1981, khi lương tâm nhân loại phải đương đầu với thảm kịch thuyền nhân Việt Nam. Thủ phạm đã rõ nhưng nạn nhân cũng đã quá nhiều, hàng trăm ngàn người trong số gần hai triệu thuyền nhân rời bỏ quê hương đã không bao giờ đến bến. Họ, những thảm kịch mà công luận quốc tế cuối cùng đã biết đến, đã nhìn thấy, họ đã bỏ mình nơi biển cả, trong rừng sâu, vì bạo lực, vì bất nhẫn của người đối với người,... Cao Đông Khánh là thuyền nhân, ông đã sống cái bi trạng đó và ông đã dùng thơ để lên tiếng, như Trường Ca Vượt Biển:

"như vậy đó, biển hàng ngày tăng trưởng
biển mọc trong đầu biển khắp tay chân
biển xót xa em từ cái răng cái tóc
con mỹ nhân ngư này tên gọi thuyền nhân"
(Tạm Dung, Lửa Đốt Ngoài Giới Hạn, tr. 91)

"... em nói, chồng em chết tù cải tạo
những đứa con ngọc ngà chết ở biển đông
còn đứa trẻ khôi ngô này, sinh ở trại tị nạn
cha nó đang làm hải tặc Thái lan..."
(LĐNGH, tr. 164).

Đối với Cao Đông Khánh, biển đã trở nên cuộc đời, đã thành ám ảnh, nhà tù:

"... Để anh nhắc ngày anh ra biển
chặt một chân để lại làm tin
hãy xẻ khô cất làm lương thực
em ráng sống giùm anh nghe em
nghe đó em người làm nhân chứng
tình yêu này như hỏa diệm sơn
Để anh kể cho em tưởng tượng
một đêm, gió khô hết hơi thở
người chết dưới biển lên đảo viếng thăm ..."
(Đường Ngô Thị Tâm, LĐNGH tr. 100)

Bài Trường Ca Vượt Biển, ra mắt trên tạp chí Quê Hương tháng 1-1980, đã như một tiếng kêu thương nhức nhối. Nhưng rồi nhà thơ đã dành cho tình yêu một chỗ lớn, xuất bản Lịch Sử Tình Yêu năm 1981 (1) và 15 năm sau những thống khoái cuộc đời, đã trở lại với tuyển tập Lửa Đốt Ngoài Giới Hạn (2). Tình-yêu được đặt trong hành trình cuộc đời một đời người Việt từng sống những thăng trầm của sinh mệnh đất nước và dân-tộc: đi lính, bị thương, du học Hoa-kỳ, hồi hương và ở lại với Việt-Nam, rồi làm thuyền nhân, sống hết mình đời lưu vong và sống trọn vẹn với văn-chương rồi vĩnh viễn ra đi vì bệnh tật.

Nhìn chung, thơ Cao Đông Khánh là một bản trường ca về của những thống khổ của thấu hiểu cuộc đời và chân lý giới hạn, cái tri của một người sống nhiều mà lịch lãm cũng lắm! Những trường ca của Cao Đông Khánh (như Anh Hùng Mạt Vận hay Di Tản America mỗi bài dài trên 200 câu) làm chúng tôi liên tưởng đến bài hành Khúc Đoạn Trường của Cao Vị Khanh (3), nhưng cái đớn đau của họ Cao sau hiền hòa nhẫn nhục hơn. Có thể vì méo mó nghề nghiệp gõ đầu trẻ chăng? Cao Đông Khánh "hét" lớn, liên lũy, với những lời lẽ rất thường nghe ở đầu đường, xóm chợ, những bộ chữ của chị bán chè hoặc anh hùng dao búa, những tay hảo hớn, xếp xòng hay dân nhậu nhẹt, lê la,... có lúc trơn tru, có lúc lại chát chúa và cả ồn ào! Dĩ nhiên cũng khác Kiệt Tấn, cũng bi hận nhưng thâm trầm hơn với trường thi Việt Nam Thương Khúc (4).

Lửa Đốt Ngoài Giới Hạn gồm 15 chương thơ sáng tác trong hai thập niên, từ 1976 đến 1996, theo biến chuyển của các biến cố liên hệ đến Việt Nam. Như chuyện dài một người Việt ở những năm cuối một thế kỷ. Tập thơ nhiều thể loại, từ lục bát đến thơ văn xuôi, cách tân ở dụng thanh âm và ngôn từ sử-dụng của một Nam kỳ Lục-tỉnh bình dân nhưng có khi phù thủy mạnh mẽ như nước sông Cửu Long trước khi đổ ra biển: thơ Cao Đông Khánh viết để được đọc lên và được nghe, thơ tâm sự với người!

"sài gòn chợ lớn như mưa chớp
nát cả trùng dương một khắc thôi
chim én bay ngang về xóm chiếu
nước ròng ngọt át giọng hàng rong
hỡi ơi con bạn hàng xuôi ngược
trái cây quốc cấm giấu trong lòng
hỏi thăm cho biết đường ra biển
nước lớn khi nào tới cửa sông?
sài gòn khánh hội gió trai lơ
khi ấy còn tơ gái núi về
đào kép cải lương say tứ chiếng
ngã tư quốc tế đứng xàng xê
gánh nước nặng hơn vác thánh giá
má đỏ hình như rượu mới nồng..."
(Sàigòn Rồng Bay Phượng Múa, LĐNGH, tr.56).

Những con bạn hàng xuôi ngược, con bạn thời sinh tử, chiếc ghe bầu khẳm héo hon,... nghe như gần gũi mà như xa, như đã mất! Qua những địa danh là những chuyến du hành từ quá khứ, từ bên kia vùng ý thức, là những cuộc trốn chạy trong cơn lên sốt để khám phá ra rằng trần thế hãy còn sống động, lúc nguy nga lúc tàn tạ!

"... Nơi em ở đó lâm li tình ái, mà, em nỡ bỏ đi, không ai có thể hiểu nổi. Cái trái ô môi đậm đà hơn đường mật, cái thơm cái khóm ngọt ửng màu phèn, cái xe thổ mộ rềnh rang lục lạc, cái con nhỏ hồi xưa tóc cài hoa thiên lý, mà, lý em về dọn dẹp hồi xưa, dọn anh ra khỏi quốc gia, dọn Việt Nam ra hải phận quốc tế.

"Anh mang khối tình còn e lệ đi chu du.
"Trên núi mây ngũ sắc, ngoài biển gió mưa hòa thuận anh gầy lại miếng đất thân sinh, lập trang trại gia bảo. Anh chọn con ngựa trong mười hai con giáp, anh tra khớp bạc, anh thắng kiệu vàng, anh phi nước kiệu đưa nàng đi thăm cổ tích, có chiếc lá rơi biến thành chim vành khuyên đậu trên vai người hóa đau" (Bầy Ngựa Văn Hóa).

Những bất ngờ tình ý, hình ảnh. Quá khứ thơ mộng trộn lẫn hiện tại lưu vong:

"... sài gòn gia định em vô trước
qua ngã cầu bông mới tủi thân
chiếc xe đò cũ như chùa miễu
chở hết vàng son tới ủ ê..."
(LĐNGH, tr. 57)

Cao Đông Khánh làm thơ xuôi và thơ tự do, cái tự do phóng túng mà sinh động, xuôi chảy của những cái trục trặc cuộc đời - trục trặc tiếp nối nhau thành như xuôi chảy tự nhiên! Nhà thơ thổi vào những câu nói và chữ dùng của dân gian vùng Sài-Gòn và lục tỉnh, làm chúng sống động, có hồn ra, và có cá tính! Cao Đông Khánh có tài hà hơi, đem tinh khí đến chỗ chết chóc, ù lì, dung tục.

Ông có những chữ dùng mới của riêng ông: ngôi nhà cảnh thạnh, hoa cổ tích, miếng ăn tình tứ,... Cao Đông Khánh tân kỳ hóa cả thơ cũ, lời xưa, chữ dùng quen,.. thành của riêng Cao Đông Khánh! Tiếng vọng dân ca, ngày đã xa hay hôm nay anh nhìn ngắm người tình! Nói đến người đẹp:
"Nàng có chất rượu trong chiếc kẹo bọc chocolate, có đôi mắt tròn như biển xanh ở chính giữa trời mây trắng, có đôi chân khép nơi chỗ ngồi, hở nơi chàng nằm, có ngày thong dong như sóng nước, có đêm nhẹ như cánh diều bay, có kiểu đi chân không, có dáng mang guốc cao gót, có cách mặc áo dài, có điệu mặc quần jean,...

Lê thị Vân Nga như tiếng hát ngoài vô tận, nàng ở không gian ngoài, ngoài bất cứ mọi dèm pha; nàng ngây thơ đối với mưu lược, nàng trinh tiết trong đời tình; nàng thông minh trong định ý, (...). Nàng có thân thể của cỏ non mọc trên ngọn gió có cánh tay dịu dàng trổng tỉa văn minh.

(...) Tháng Bảy dài hơn hết, tháng Bảy nhớ thương hơn hết, tháng Bảy trời mưa ấp ủ hương hoàng lan. Tháng Bảy của nàng ẳm con về Đà Lạt, tháng Bảy chỉ có người đi mới hiểu vì sao. Tháng Bảy vì sao có một người biết hơn ai hết, những tháng Bảy trời cao trời thấy ra sao?" (Lời Thống Trách Của Kẻ Ở, tr. 61).

Người nữ, mà chân dung, diện mạo đã và sẽ đè nặng trên từng bước đi chu du của người lữ thứ, ở những thành phố dù xa lạ, cả khi mặt trời lên cao và biển mở rộng!

Thơ xuôi, thơ với lời thống trách, kể lể, thơ tính nằm ở âm hưởng của lời, ở âm vang của ý. Những lời tuôn, đi mãi, xa mãi,,,! Lời ẩn mật như để nói riêng, tâm sự riêng với người xa khuất. Nhà thơ sống chết với người đẹp, một người nữ nào đó ông đã phải thốt:

"... Anh cung kính biết bao nhiệt tình
thờ phụng thần tượng: Em
Người đàn bà lãng mạn cuối cùng của thế kỷ"
(Trăng Trong Vịnh Frisco)

Biển, nước,... vẫn là nỗi ám ảnh khôn nguôi trong thơ Cao Đông Khánh, cả khi nhớ người tình:

"Đêm. Gió, Cây. Trời. Hồn nhiên
tình cờ ngọn lá quạt giọt nước nhẹ khắp
nơi nào cũng nhớ em như nhớ nhà
Nhớ em như nhớ nhà ..."
(Từ Nơi Yêu Dấu, LĐNGH, tr. 5)

Tình yêu đi với tình quê hương và thân phận lưu đày. Lời thú "Anh nhớ em như nhớ nhà em ơi". Còn bi ai nào hơn! Cả khi đi vào hết bài thơ với những nhung nhơ,ù những chi tiết tình ái tầm thường đã làm nên hạnh phúc hay đau khổ tiếc nuối "Cố nhiên điều anh nói chẳng ai tin, kể cả, khi em lang chạ với người đàn ông đó cùng một kiểu như với anh...".

Cuộc đời với những trận cười bên chai rượu, với những tiếng súng trận địa, với những con người bày vẽ nhân đạo,...

"mới chín tới chia hơi cần sa tâm huyết
mùa hè 70 máu chảy đỏ hòa bình
em ở Berkerley hay ở Massachussetts
thuở xuân thì cổ võ kẻ xâm lăng .." (tr. 130).

Cao Đông Khánh làm thơ như say sóng vô tận với rượu nồng và thuốc lá Bastos xanh

"như cá nước ngọt theo cuồng lưu ra biển
tìm về bất kể nơi nào hợp thức tâm cơ..."
(LĐNGH, tr. 85).

"... ta chia sớt với em một gian phòng khách
ta đeo tượng phật cười em đeo chúa đóng đinh
em pha tách cà phê ta đốt điếu thuốc cuối
trong cái gạt tàn đầy tro bụi riêng "
(LĐNGH, tr. 298).

Nhà thơ sống tận cùng cuộc đời, dan díu với từng nét riêng, từng nét thấp. Sống bình dân để viết nên những lời quần chúng cận nhân tình đọng chất thơ. Bóng cuộc đời xô bồ, ồn ào dàn trãi trên những ý thơ, thứ thơ từ cõi sống đi ra và sẽ trở về nơi ô trọc. Đời, với Cao Đông Khánh, là một trò chơi lớn, nơi đó có rủi may định mệnh, có con người, có tình yêu và cái chết!

Cao Đông Khánh như muốn tạo một ngôn ngữ thơ mới, đặc biệt của riêng Cao Đông Khánh, ngôn ngữ đặt thơ ở chân tường những ảo tưởng và son phấn, là đi vào lòng cuộc phiêu du lớn, là để cho tiếng nói phát biểu bí ẩn riêng của chúng. Với hai tập thơ đã xuất bản, người thưởng thức thơ phải đối đầu với một thi ca muốn cuộc đời chiến thắng bởi tàn khốc của cái chết. Thơ Cao Đông Khánh không phải là văn chương mà trước hết đã là Ngôn Ngữ và Tiếng Nói. Thật vậy, người đọc thường phải đương đầu với một ngôn ngữ quá đà, thô tục, một ngôn ngữ tuyệt vọng nảy sinh tiếng cười khinh mạn, châm biếm; những thành ngữ bẻ cong bẻ ngược như tiếng lóng trao đổi ở đầu đường "vô nghĩa". Dùng tiếng nói để cụ thể tiếng lòng của người thơ, để đến với người thưởng thức thơ. Thơ đưa người đến gần nhau, đẩy người tâm sự và cả âu yếm với người. Hoa gấm đã là quá khứ, vậy sử-dụng những tầm thường mà sinh động, để vang lên tiếng vọng từ tâm thức nhà thơ. Thơ Cao Đông Khánh phải đọc lớn tiếng và nếu được, trước người khác, hình như mới hay, vì với Cao Đông Khánh, ý của ngôn ngữ chính là ở ý của lời nói. "... Bài thơ bỗng rưng rưng / lời mặc khải viết xuống thành chữ / chữ hiện hình xinh đẹp " (LĐNGH, tr. 289). Mỗi bài thơ là một chuyến đi chơi xa trong tiếng nói. Với chiếc xe tùy thân, chuyến đi xa mỗi người làm lấy ngay trong chính thân xác không bất tử của chính mình! Thành thử hay ở ngoài, như "tiếng hát ngoài vô tận, nàng ở không gian ngoài, ngoài bất cứ mọi dèm pha", như lửa đốt ngoài giới hạn!

"Những chuyến xe vẽ hoa chở chuyên ân ái
trên gò má em xâm một cánh hoa hồng
chiếc Volkswagen đời 60 có hình nữ phận
chở trăng vào soi cửa giữa giai nhân"
(LĐNGH, tr. 130).

"Ra mắt đời sống, anh bước vào hầm rượu mịt mù khói thuốc, nhớ đêm mùa thu lá rụng trong sân trường đại học như bước chân của đám âm binh bước vào thư viện sắp xếp lại kệ sách, nhồi thuốc súng vào mẫu tự rồi chạy táo bạo lộn xộn trong ký túc xá, sử dụng đủ loại nhạc khí khiến cho trái tim em đập theo những nhịp dồn dập, rớt ra khỏi lồng ngực, còn lại, cặp vú mỹ miều bơ vơ; anh say gục xuống" (LĐNGH, tr. 172).

"... Chiều trổ mây âm dương
Khuya ngạc môi son những mặt trời đàn bà
Em phù dung mở cửa. Để đẻ
Cho sướng chỗ em buồn..."
(Trăng Trong Vịnh Frisco).

Ở Cao Đông Khánh có ẩn ngữ của cuộc đời mới, sau những khổ ải vượt biển, vượt biên, nay hiện diện ở khắp Americas. Đời như một trò chơi vừa khốn kiếp vừa bi hài. "... Tháng 6 trên bãi biển nắng mưa tôi làm người ngoại quốc, tôi nói Anh ngữ với người bản xứ rất vui. Người ta hãm hiếp đàn bà của tôi, thử cho biết mùi trái cây lạ... " (LĐNGH tr. 118).

Những lời những chữ mà nhiều người đọc không chấp nhận là thi ca, lên tiếng phản đối ồn ào một thời, thời họ Cao xuất hiện trên trường thơ hải ngoại. Họ nhân danh một truyền thống, một "văn hóa"đã quen!

"...Trên nóc cao ốc trùng trùng đàn ông. Chót vót
điệp điệp đàn bà. Cái Lớn. Cái Bé
Những bái vật muôn năm nằm trong gốc gác con người
Cái Răng. Cái Tóc. Cái Lồn. Cái Hồn Vía còn tươi
Kẻ di tản đã ra khỏi đường chân biển
Và bao nhiêu đường chân trời. Không ai nhớ rõ
Đi hết ánh sáng. Đốt lửa ngoài giới hạn..."
(Cánh Đồng Trầm Thủy. LĐNGH, tr. 311)

Ở những chỗ Cao Đông Khánh dâm hóa con chữ, ngôn ngữ trở thành không gian nơi đó nhà thơ vật lộn đê mê với xác phàm, như cái khoái lạc chiếm hữu thân thể người nữ. Ở đây người nữ đồng nghĩa với thơ, cả hai chia xẻ ảo tưởng và ám ảnh của nhục dục, cái giác cảm đối đầu với quá quắt là cái đem lại sự sống hoặc chết. Thành thử nhà thơ như không có lựa chọn nào khác là chụp lấy cái Chân lý từ thân xác, là dựng nên một vở kịch nơi đó ngôn ngữ đến gần tiếng hò hét. Thơ với người nữ làm một, từ hơi thở, mùi vị đến cả thịt da, cử động. Khoái lạc nhục dục của con chữ trong những hành cử yêu, ghét, làm tình,... và thơ bị tàn sát khiến phải kêu lên rằng đang chết trong khoái lạc. Nhà thơ thu nhỏ thi ca lại trong sự thật trần truồng khi đối đầu chúng với cái chết! Phải chăng đó là lý do những phê phán Cao Đông Khánh "tàn diệt" ngôn ngữ thi ca?

Văn chương nói rốt cùng là ở trong cách thể hiện, cái cách xuất phát từ cái tay hay cái đầu hoặc con tim? Cái tay là cơ quan hành pháp của ngôn ngữ, cơ quan khích động và đòi hỏi hành động! Với Cao Đông Khánh, thơ thành công khi khiến người đọc thơ cảm nhận có bàn tay đó, có cú đấm, làm chết, làm động lên khiến nhạc tính xuất hiện và con tim bị động! Thơ ông động đến bàn tay, và đòi hỏi hành cử, dù tâm sự lúc đó nhão mềm. Bàn tay để đụng chạm và nắm bắt. Đụng chạm dưới nhiều hình thức từ chạm đằu ngón đến vuốt ve mơn trớn, mong hoán đổi nhịp con tim. Nắm bắt vì chạm đến tột cùng của ý thức, của cảm giác. Thơ với Cao Đông Khánh là chất men say con người, một thứ "hữu thể" dễ bốc hơi từ hiện sinh và thân xác, là hơi thở của "ngôi nhà nhẹ nhẫng", của thể chất cõi đất, tức là chính mỗi con người. Qua lời, qua tiếng nói, người thơ hiện hữu. Ngôn ngữ lại có bộ nhớ dù chúng luôn chạy trốn, luôn chảy, bay mất. Lời thơ chen lấn trong tôi và bản chân diện mục tôi, giữa tôi và thế giới, giữa tôi và người khác. Thi cách cũng là một biểu hiệu nhân sinh quan, với Cao Đông Khánh thì đã quá rõ!

Và Cao Đông Khánh đã mở đầu một trong những bài thơ sau cùng:

"Hắn đã đến. Đã ở. Đã đi
Trống thêm một chỗ trống..."
(Trăng Trong Vịnh Frisco)

Chú-thích

1.  Cao Đông Khánh. Lịch Sử Tình Yêu. Garden Grove, CA: Nhân Chứng, 1981. 136 tr.
2.  Lửa Đốt Ngoài Giới Hạn: thơ tuyển chọn từ 1976-1996 của 1 người là Cao Đông Khánh. Houston, TX: Tác giả xb, 1996. 314 tr. Phần lớn của tập Lịch Sử Tình Yêuđược in lại trong tuyển tập mới này.
3.  Cao Vị Khanh. Lệ Từ Nét Ngang. South Boundbrook NJ: Thư Ấn-quán, 2001. Khúc Đoạn Trường (tr. 11-68), viết theo thể song thất lục bát, 155 đoạn 4 câu.
4.  Kiệt Tấn. Việt Nam Thương Khúc. Paris: An Tiêm, 1999. 144 tr. Gồm 3100 câu.





















(HQ)





Về ông anh thi sĩ

- Cao Đồng Thạnh -

"Mầy giống thằng Khánh thiệt chớ".
"Tụi em rất quí anh Khánh, nên tụi em cũng rất quí anh như anh Khánh vậy".

Anh em- bạn bè anh Khánh hay chào đón tôi như vậỵ

Thưa, tôi là em anh Khánh tên Cao Đồng Thạnh. Gia tài anh Khánh để lại cho tôi là tình bạn của những người bạn rất bao dung và thành thật vô cùng. Để tưởng niệm anh Khánh, tôi xin kể lại vài sắc thái về cuộc đời của ông anh, trong giới hạn hiểu biết của tôi.

Anh Khánh mắc nợ làm thơ từ hồi mới chập chững vào đời. Lúc đó anh vừa làm thơ mà còn đánh lộn. Còn tôi hễ nghe thằng nào đập ông anh là đi kiếm để trả thù. Tôi còn nhớ là mới vào khoảng đệ lục hay đệ ngũ gì đó, tôi đã nghe anh Khánh ngâm nga những bài thơ của Bùi Giáng, văn Nguyễn Sĩ Tế, rồi tới Nguyên Sa, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, T.T-Kh, Tô Thùy Yên, v . . v .

Trong tập thơ Lửa Đốt Ngoài Giới Hạn đã xuất bản, có một bài cho ta thấy vài vận điệu theo lối thơ -- mà tôi nghĩ là -- của Bùi Giáng. Đó là bài "Hồng Hạnh":
    hồn em như tranh sơn mài
    vào trong ánh sáng mang hài đi ra
    hồn anh như đom đóm xa
    ra ngoài bóng tối mang hoa đi vào

    sao giăng chín ngọt nhánh trời
    sông trăng vàng thếp tuyệt vời quê hương
Đây là một trong vài bài đầu tiên mà hình như tôi hay nghe anh Khánh ngâm nga từ hồi còn nhỏ.
    "sông trăng vàng thếp tuyệt vời quê hương"
là cảnh sông An Phú Đông dưới ánh trăng vào thời chiến tranh chưa bùng nổ.
    "sao giăng chín ngọt nhánh trời"
là hình ảnh của những trái cam, trái quít chín vàng trên cành. Nếu mình nằm dưới tàng cây nhìn lên khi chiều xuống, thì tàng cây chìm dần vào khung trời đêm, còn trái cây chín vàng trên cành lóng ánh trong ánh nắng chiều sẽ biến dần thành sao giăng chín ngọt trên nhánh trời.

Qua tia sáng chập chờn của con đom đóm trong bóng đêm, anh Khánh đã ghi nhận được vài nét tinh hoa của quê hương trong tình thương quê ngoại, tức là làng An Phú Đông với dòng sông lượn quanh qua vườn cây sai trái trong ánh trăng vàng.
    "hồn anh như đom đóm xa
    ra ngoài bóng tối mang hoa đi vào"
Anh Khánh đã tự ví mình chỉ như một con đom đóm chập chờn đi tìm tinh hoa cuộc đời mập mờ trong đêm tối. Thành ra, trong cái tăm tối thuở thiếu thời, quê hương anh Khánh ghi lại chỉ vài nét chấm phá rất đơn sơ - đó là quê ngoại An Phú Đông và bà chị Cao Hồng Hạnh.

Bà chị trong tuổi dậy thì, bốn thằng em thằng nào cũng thương. Nhớ lại bà chị của tôi thì lúc nào bả cũng trong sáng, ẻo lả như thiếu nữ lóng lánh trên tranh sơn mài.
    "hồn em như tranh sơn mài
    ào trong ánh sáng mang hài đi ra"
Đối với anh Khánh, thì hễ ai là phái nữ đều là em hết, chị cũng thành em luôn.

Anh Khánh qua Mỹ vào khoảng cuối năm 1966. Trở về Việt Nam năm 1972. Trở qua Mỹ tị nạn khoảng năm 79-80. Đêm anh Khánh đến từ trại tị nạn, tôi ra rước anh Khánh ở phi trường John-Wayne. Ảnh bước xuống máy bay thì chiếc dép bên mặt bị đứt quai. Ảnh tháo bỏ luôn chiếc bên trái, rồi đi chân không lên xe về nhà.
Tôi bảo ảnh đi nghỉ cho khỏe thì ảnh nói: "Không cần, tao ngủ trên máy bay rồị Mầy làm cho tao một ly cà phê đi." Hai anh em nằm nói chuyện luôn tới sáng.

Cũng nhờ đêm đó, tôi mới biết được rằng cái tia sáng mập mờ của con đom đóm ngày xưa đã trở thành ánh sánh rực rỡ. Nhưng lạ là, cái rực rỡ nầy không phải chói chang, mà nó làm cho người đối diện tự nhiên cảm thấy thanh thản, an toàn. Tôi rất ngỡ ngàng, lúc đó, khi nhận thấy ông anh của tôi có được một khả năng trở nên quá ung dung và khả năng phát biểu rất chân thành, không thể tưởng tượng được.

Ảnh kể cho tôi nghe một hôm, hồi bị Cộng Sản cấm cố trong chuồng cọp, "Tự nhiên trong đầu tao sáng rực lên, rồi thì toàn thân tao trở nên nhẹ nhàng thoải mái vô cùng ... bao nhiêu uất ức, bao nhiêu hận thù đều thoát ra khỏi ruột gan, dồn lên đầu, rồi tan biến đi đâu hết." Tôi chợt nghĩ anh Khánh là một trong vài người có thể đã thấu đáo được lòng từ bi hỉ xả của Phật.

Từ đó, tôi bắt đầu chăm chú để rán hiểu những bài thơ của ảnh đưa cho tôi coị Rất lý thú đối với tôi là bài "Tháng Mười Ba." Tại sao lại là tháng mười ba? Hay là ổng muốn nói về tháng mười ba trong một năm nhuần theo âm lịch? Không phải đâu, vì ảnh đã xác định là "Nguyệt ngoài khuyạ Dương li.ch. Gió phong phanh"

Nếu mà không phải là cái tháng mười ba âm lịch, thì thưa ông thầy, vậy chớ cái tháng mười ba gì đây?

Ảnh trả lời như thế nầy:
    một tháng nữa em đặt tên tình ái
    từng thước cây trên ngàn thước núi non
    một tháng trọn vẹn chu kỳ kinh nguyệt
    một tháng. Ở ngoài 12 tháng niêm phong
À, thì ra đó là cái tháng mà em gọi tên là tình ái. Lẽ dĩ nhiên cái tháng tên tình ái, ngoài giới hạn lịch lý nầy, không thể đo lường được bằng thời tiết và mùa màng nhưng bằng cây thước của anh trên ngàn núi non của em. Và dĩ nhiên công cuộc đo lường nầy sẽ biến chuyển theo chu kỳ kinh nguyệt của em. Thành ra, anh chàng đo thời gian theo kiểu nầy đôi khi cũng không khỏi bồi hồi, lo lắng ngắm nghía lại cây thước của mình, không biết nó có còn hiệu nghiệm hay không. Nên anh ta mới tự hỏi:
    thế 'thì' cây có giữ 'được' nguyên hình nhựa chảy
    thiên địa hao mòn lý lục có sao không?
Thực ra cũng không có gì khó hiểu; thiên là đầu và ngực, địa là cổ và bụng đi xuống. Thành thử, thiên địa là thân thể của mình - lỡ nó có hao mòn thì lý lục - nghĩa là lúc lỵ - có sao không?

Nếu mà chúng ta dám bước ra ngoài giới hạn như kiểu anh Khánh, thì quả nhiên sự phân chia giữa khoa học và thơ văn không còn nữa. Vì thời gian là một bằng chứng tương đối - tùy theo bối cảnh của sự đo lường - nghĩa là hoặc từ bên trong, trên cơ thể của mình, hay là từ bên ngoài theo đổi thay của thời tiết. Chúng ta thường trừu tượng hóa cái quan niệm nhân sinh là tượng hình của vũ trụ, như đối với anh Khánh, thì rõ ràng cái quan niệm nầy không có gì là trừu tượng hết, và rất ư là thực tế vô cùng.

Đến đây, thằng em nầy xin thưa với anh. Xin anh yên lòng về với vũ tru.. Anh đã quá lận đận vì phải cặm cụi, miệt mài đốt lửa ngoài giới hạn để soi sáng tình đồng loại trên thế gian nầỵ Sứ mạng của anh sẽ phải hoàn tất, vì còn tụi em. Anh em bạn bè rồi đây cũng sẽ gặp lại nhau trong vũ trụ đó -- ngoài kia.





















MÔT CHIỀU ÊM


RỪNG TRONG THÀNH PHỐ


NGÕ VẮNG












Những Vương Quốc Tân Khai

con trốt anh chị mưa như rút ruột
hoa nở bề ngang nhan sắc khai trương
mỗi người thủ sẵn một bộ dạng dã thú
mùa này ở Paris em mặc áo lông
thị xã của tôi sâu trong thung lũng
đại thọ hùng hồn che kín dấu dân sinh
thành phố của em ở ngoài trời đất
con đường viếng thăm xa mấy trăm năm
những chuyến xe vẽ hoa chở chuyên ân ái
trên gò má em xâm một cánh hoa hồng
chiếc Volkswagen đời 60 có hình nữ phận
chở trăng vào soi cửa giữa giai nhân
môi chín tới chia hơi cần sa tâm huyết
mùa hè 70 máu chảy đỏ hoà bình
em ở Berkeley hay Massachussets
thuở xuân thì cổ võ kẻ xâm lăng
tôi sống bằng ơn nghĩa trên hành lang của những chiều gió
gió ở chiều cao hay gió ở chiều sâu
ở cửa giữa em thế nào cũng tiện
hay nặng ở bề ngoài nhẹ ở bề trong
đầu tháng này bắt đầu Dương Lịch
cuối tháng sau Âm Lịch bắt đầu
khoảng cách thời gian là miếng đất di tản
trồng rau tứ thời Cung Chúc Tân Xuân
xưa có kẻ chết hai lần giữa biển
một giấy khai từ ở Việt Nam một giấy khai từ ở Indonesia
nhưng một bữa trên bờ duyên hải của Thế Giới
có một người từ biển dấy lên
ở giữa chết và sống ở giữa Âm Lịch và Dương Lịch
ở giữa cửa bùa mê hay ở giữa cửa hồng nhan ?
em cứ hỏi tôi những điều mê hoặc
thấy được gì trong trí nhớ tương lai ?
trong trí nhớ có bốn mùa da thịt
thêm một mùa làm lễ tấn phong
trên Vương Quốc Tình Yêu 365 ngày mỹ nữ
nhưng ngày nào trẫm cũng nhớ ái khanh 

Di Tản America

Tôi sống đầm ấm với những điều không giải thích được
thành phố hao mòn như trái tim của ngôi sao quạnh hiu
blue bonnet nở trong tầm mắt âu yếm
những mặt trời xanh dương giữa Dalass với Houston
Ở giữa hết thảy có ngôi nhà vách đất
con gái da nâu trong thung lũng xương rồng
những rừng lộng trong những rừng cát nóng
những mắt màu lá cây như những đại dương
Trời đất xa hơn chiều cao tưởng tượng
mô phỏng đời người duyên nợ truân chuyên
một hôm đại hãn vượt trùng vây ra biển
ở biển tôi vào chẳng thấy được bao dung
Thời tiết chật hơn chiều sâu trí nhớ
vượt ngục vượt biên vượt biển xuyên bang
khuya hôm đó có người bị xử tử
để cho người sống sót, chết không yên
Chữ nghĩa là ánh sáng của mặt trăng ngoại quốc
nàng trắng như giá băng, nàng ấm như trái chín cây
con ngựa của thế kỷ trước chở tình vào lịch sử
chở công nương đi dạ vũ trá hình
Thời trang mới nhất trên những hình nộm cổ điển
thành phố mọc mau hơn những chuyến đi
di tản America, cho phép định cư trong trại cải tạo
mới thấy được ngôi nhà giữa biển của tôi
Tản cư America vào trại tập trung da đỏ
thỉnh thoảng trên những con đường mòn nước mắt về Oklahoma
Những đêm ân ái trên hàng vạn mặt hồ băng giá
dấu vết chỗ nằm như bóng chim bay
Di tản America vào tâm tình xườn xám
tiểu thư Đài Loan hàm tiếu khai hoa
con cá lý hóa rồng về lục địa
chén mai quế lộ sầu tư trong ghế thủy triều
Di tản hết thảy lên trời, di tản hết thảy xuống nước
thơ tôi phát hành trên bản vị tình yêu
theo dấu nhụy hoa trong hành lang quốc tế
tìm em mơ hồ nở ngát cánh phù dung
Tôi định liệu có thêm một đời sống
xây một ngôi nhà trên đất Việt Nam
trên đỉnh Trường Sơn ngó trùng dương vọng nguyệt
nguyệt của em tròn như nguyệt đời xưa
Từ California tôi trùng tu cảm tưởng
thời cuộc trong hành trang như những ý kiến dị kỳ
tro cốt của tráng sĩ Apaches thành phượng hoàng u hiển
theo dấu chân sư tử núi lên ngàn
Mũi tên vượt bực bay vào tuyệt tích
những hoài nghi cũng giống như những mơ hồ
những kẻ uống nước sông Hassayampa quên hết nói thật
quên hết mơ hồ quên sạch hoài nghi
Hôm tôi đến nàng mời về hang động
hàng nghìn cánh dơi qủy lộng truyền kỳ
những hình tượng khắc trên đá nghe chừng lay chuyển
thành bướm hoàng hoa bay khỏi vô cùng
Dấu hiệu của thế kỷ trên cao nghìn thước
trên nghìn thước cao thành phố dát vàng
rã ngũ ở Đông Dương tôi đi tìm công chính
vương giả thuộc về người thất thế sa cơ
Chỗ ở của Buffalo Bill có chỗ tận tuyệt
núi ngợp đất trời tuyết trắng nóc không trung
có người thiếu nữ như hoa của rau cải
đợi chờ ai trên đỉnh ngất mưa dầm
Từ những hoang tàn về rừng cẩm thạch
nàng Calamity Jane mở tiệc giữa sơn lâm
con đường trở lại đi suốt đời không hết
động đậy trầm hương của gái biên cương
Trời đất thật trong như hạt kim cương xuất sắc
từ cả dặm xa nàng liếc mắt đưa tình
chàng kỵ mã hào hoa ghé qua rồi biệt dạng
cả đời sau ngóng đợi khôn nguôi
Người đó đi về lãnh địa của dân Sioux và Cheyenne đời trước
trên vách băng sơn còn rõ bóng chim sa
cổ tích, cổ vật, cổ sinh đều hoá đá
trên môi nhân tình khuyết sử vẫn chưa phai
Người đó trầm tư trong vùng đất sét màu biếc
múa hát trên vỉa hè tráng bạc của thành phố Virginia
con sông rắn uốn mình qua thung lũng địa ngục
lên hỏa diệm hồ tắm nước xanh dương
Ngó đủ chỗ thấy trùng trùng sơn cước
đón mặt trời xuống núi hỏi thăm nhau
khi những mỏ vàng khánh kiệt nàng bỏ thành phố
còn lại một người sống với gái liêu trai
Khuya ngọt lịm trong thâm cung hàn mật
Thiếp về Salt Lake City ăn ở đề huề
trong tổ ong mỹ nữ bần đạo xưng giáo chủ
trồng cánh hồng nhan trên mặt nước mặn nồng
Người bị tình phụ theo trường giang trầm bổng
những lưu lượng của nhụy hoa thơm ngát vòng lưng
những nhánh sông phấn hồng những ái ân biệt xứ
những e lệ mê man trong đáy mắt ngọc lam
Kẻ phụ tình tìm gì ngoài thân thế
nhạc Jazz chín mùi những mặt trời mun
ngày thứ ba mập, thứ ba béo, thứ ba đại hội
mặt thú trên hình người khiêu vũ như mê
Ngược giòng Missisippi chọn mua nô lệ
nàng múa hát cho mặt trăng còn xanh lá cây
những đồn điền bông gòn, những vườn hoa trái, những ruộng lúa mạch
những đời tư bỏ mất mấy trăm năm
Những khuôn mặt vĩ nhân khắc trên vách núi
động vọng từ tâm của lượng đất trời
những chuyến tàu hơi nước chở đầy huyền ảo
còn lặp lại đời đời cho mỗi một giấc mơ
Thôn nữ Arkansas tắm suối nước nóng
ấm áp tấm lòng mỹ nghệ thủ công
những hạt mưa gia truyền những ngón tay ngôn hạnh
đón đưa người nhạc sĩ từ Tennessee
Khúc ca lộng lẫy trên mặt cẩm thạch
câu chuyện tâm tình vang động Nashville
những mạch nước ngầm dậy sóng trong thân thể
những binh đoàn chí nguyện qua sông
những đường chiến tuyến thành sẹo trên thân thể
món nợ ân tình khi nào trả cho nhau
con ngựa sút chuồng chạy mê vô cỏ biếc
chạy mơ màng theo ám ảnh quang vinh
Trên mặt hồ Erie hai đứa bách bộ
lương thực nước non trong thung lũng trữ tình
những ngày triễn lãm trái cây những buổi hội hè của bầu bì
hơi thở trùng dương trong giấc mộng sông hồ
Người hoa khôi da đen lội qua ngân hà lánh nạn
trồng giống táo của Jonny trên tuyết đóng băng
đại hội tháng chín ở Indianna còn đồng vọng
ngàn lời cám ơn trong điệp khúc tạ từ
Trên đỉnh ngất trời nhảy xuống Wisconsin tắm gội
những hạt nước nở bung từ trọng điểm tiều phu
rơi xuống thành ra vạn mặt hồ óng ánh
thành ra tấm tình ở với dương gian
Cầu Mackinac kết hai miền duyên nợ
trên dưới thân nhân man mác thủy triều
hoa tulip bập bềnh theo tiếng guốc cuối ngõ
những gòong tàu hoả ngày xưa chờ miếng thịt thời nay
Mỗi đêm một hoàng hậu trong cánh tay cự phách
rượu lậu từ Detroit chảy xuống Chicago
miếng hambuger McDonald trở thành miếng ăn tình tứ
thành phố nặng nề hồn khi nàng ngủ quên chiêm bao
Mắt Bắc Băng Dương môi hồng Địa Trung Hải
da sữa tươi áo kim tuyến rạng ngời
say đắm như rượu bia, mặn mà như phó mát
em hứa với chàng xuôi ngược có nhau
Thằng cha làm ảo thuật hoá nàng thành người khác
trong gánh xiếc trần gian nàng biểu diễn ước mơ
em đu bay trở về những vàng son cũ
với nhân vật bây giờ trong đó không có tôi
Dân gió nồm ở nhà tranh vách đất
hoa hướng dương ngất ngây trên gò uỗn chung tình
dũng sĩ da đỏ phục kích bắt linh vật
hội họp đời nay trong bộ lạc cổ truyền
Gái nhà quê hồng trên vùng đất thịt
có một vành môi ấm dưới dạ sơn hà
nước màu thủy ngân trong tiểu bang bắt đầu
tâm phế thanh xuân rực rỡ mặt trời
Nàng bộc phát như giòng Mississippi khởi nghĩa
khởi ngàn trùng qua lục địa về Nam
phụ nữ sông hồ mê d-ời hồ hải
xuống California gá nghĩa với Đông Dương
Di tản nhiệt đới vào Alaska vắng bóng
mặt trời nửa -dêm như dao cắt trong xương
-dàn cá Salmon kéo nhau về nguyên quán
thân xác đỏ tươi trong dạ vàng ròng
Nàng ở gần trời ngó xuống khu vực hầm mỏ
trái táo vàng tươi như nắng thượng du
người nữ điệp viên bên đàn cá nước ngọt
nước trắng trời trong sống chết cho tình yêu
Trong vùng mộ địa của chiến sĩ vô danh tôi học làm tổng thống
vào Pentagon theo kế hoạch ly kỳ
rút về miệt đầm lầy lập tổng hành dinh thế giới
trong rừng anh -dào có sinh lộ u linh
Sắt thép che chở để tôi lập hiến
đứa con đầu lòng quên biển nặng bao nhiêu
tôi chọn lựa nhân tình mới của Philadelphia cổ hũ
hẹn gặp ở ngã tư đường Coca hay Chocolat
Vào Nữu Ước chọn chỗ ngồi chúa tể
vào trường West Point giảng dạy lương tâm
tuyết rã tan trên bàn tay sáu núi
ngón thứ sáu dành riêng để chứng khóan ái tình
Trái táo lớn dành cho Âu Châu đã rõ
trả hết ám ảnh tự do cho những hình tượng tây phương
công chúa Bạch Tuyết trở về nguyên xứ
trả lại linh hồn cho Superman
Những trang trại sữa tươi trong những thị trấn xinh xắn
những mặt trời ngọc ân trên lá thu phong
sơn nữ của núi diệp lục
lấp lánh trong rừng sương mù của Frost
giống ngựa Morgan chở trắng xuống trần gian
Trên đỉnh tuyết sơn có một dã nhân râu bạc
đời thái bình bên chén rượu tiều phu
theo chân người tuyê't đến hồ Winnipesaukee nghị luận
trời đất trầm tư trong đời sống nhỏ nhoi
Chuyến May Flower đổ người lên đất mới
bữa tiệc trà ở Boston khởi sự kỳ công
ddàn bà nhỏ bé như dâu cranberry chín tới
bên mỗi giòng sông là mỗi tư tình
ddàn ông của Connecticut xẻ trời lấp biển
sống chết một đời không đủ cho quê hương
những thông tín viên của hoài vọng những tiềm thủy đỉnh của ân ái
phân phát vô cùng bảo hiểm tương lai
Tôi độc lập về Rhode Island khởi nghiệp
xây ngôi biệt thự quang minh bên giòng sông đá đen
ở đó có nàng như một lãnh địa bé nhỏ
có con gà -dỏ tươi có trái táo hồng hào
Tôi gởi ra ngoài bằng đường dây tín điện
những đời tư đóng hộp đã trăm năm
chuyện chính trị quẩn quanh nói một lời cũng đủ
vọng ngữ trùng trùng trong trí tuệ cô đơn
Ở tiểu bang kim cương có thủ đô hóa chất
mái to'c hoàng hôn đổi dạng thay hình
trong vịnh Chesapeake thì thầm bên gối
những kẻ giang hồ còn mặn Đại Tây Dương
Nơi tiền tuyến ái tình, thua sạch sản nghiệp
hoa hậu về khuya cá lặn chim sa
lá thư tuyệt mạng đế trong phòng khánh tiết
sợi dây đàn treo xác Edgar Allen Poe
Đất duyên hải sạch dấu chân thuộc địa
rừng núi măng tơ trọn vẹn tấm thân nàng
những kho tàng châu báu dấu trong giai thoại hải tặc
những đồn điền thuốc lá ngạt đời sau
Bãi biến tuổi trẻ no nắng sinh lực
chỗ kín của hồng nhan phảng phất cánh phong lan
từ những vườn xoài tròn trịa nàng đưa tôi ngoạn cảnh
dưới công viên trầm thủy mê hồn
nhựa của cây phong ngọt hơn đường mật
kẻ thám hiểm miền Tây đã ra biển Thái Bình
những thần thoại mới khóa cửa Tân Thế Giới
những định ước nhân quyền trên môi miếng ngoại giao
Nàng thắm tươi trong cánh tay người máy
nhan sắc kỳ công mang bí số truyền thông
miếng ăn cắp tốc nuôi mối tình nhân tạo
cảm xúc phi hành thám hiểm tương lai
Dọn thế kỷ qua những hành tinh nghiệp chướng
dọn ngày nay vô bảo tàng viện quốc gia
trận mây thời sự đổ cơn mưa dã sử
trên mặt truyền hình quảng cáo tình yêu
Di tản năm mươi tiểu bang đi bốn phương tám hướng
sót chút trữ tình tôi gói lại tặng em
bữa tiệc viễn quy em chưa quên e lệ
hai đứa tụi mình nói tiếng Việt Nam

rồng bay phượng múa

tặng Nguyễn Lập Đông
Sàigòn Chợ Lớn mưa như chớp
nát cả trùng dương một khắc thôi
chim én bay ngang về Xóm Chiếu
nước ròng ngọt át giọng hàng rong
hỡi ơi con bạn hàng xuôi ngược
trái cây quốc cấm dấu trong lòng
hỏi thăm cho biết đường ra biển
nước lớn khi nào tới cửa sông
Sàigòn Khánh Hội gió trai lơ
khi ấy còn tơ gái núi về
đào kép cải lương say tứ chiến
Ngã Tư Quốc Tế đứng xàng xê
gánh nước nặng hơn vác thánh giá
má đỏ hình như rượu mới nồng
em nhớ giăng mùng khi xế bóng
kéo đời đưa võng suốt hôn mê
Chương Dương sánh ánh trăng vàng võ
rọi thấu vào trong dạ não nùng
con cá lội qua Cầu Ông Lãnh
như chiếc ghe bầu khẩm héo hon
nước chia mấy ngả sao không thấy
mấy ngả phong trào thuở thiếu niên
Sài Gòn Gia Định em vô trước
qua ngõ Cầu Bông mới tủi thân
chiếc xe đò cũ hơn chùa miễu
chở hết vàng son tới ủ ê
đêm đêm rực tiếng côn trùng dậy
trống trải hồn ta đến thấu trời
xa lộ phía bên gà gáy tối
về lối Hàng Sanh có tiếng cười
anh lén ghé qua nhà kẽo kẹt
thấy tiếng cười trong một giâ'c mê
Sài Gòn Phú Nhuận nhớ không nổi
có ngã nào qua Khám Chí Hoà
hỏi thăm quên mất tên thằng bạn
như lá trên rừng đang chuyển mưa
trận mây đồng phục nặng như thép
ửng chút đời xưa rạng chỗ ngồi
những người cách mặt gần như nhớ
những mặt trời xây xẩm trở về
Sài Gòn Chợ Lớn nhớ không tới
con gái Bàn Cờ qua Thủ Thiêm
chiếc phà chở hết tên thành phố
mỗi ngã tư trời đất mỗi nơi
nhớ thương cũng mỏi cánh cao vút
đáp xuống Cầu Ba Cẳng xả hơi
mọc thêm một cánh chân thời thế
con thú về Lục Tỉnh mất tiêu
nửa đêm em đổ mồ hôi trộm
như nụ cười che chở thịt da
Sài Gòn bước cho rõ tiếng guốc
nắng vàng vàng trên đá nứt mê tơi
như một mùa hoa nở cấp tốc
đưa đường tại hạ ghé qua chơi
hỏi thăm con bạn thời sinh tử
đã lánh mình qua miệt Chánh Hưng
cầu Chữ Y yêu kiều ba ngã
có ngã lui về đế dưỡng quân
nồi lẩu lươn chua đêm nuốt khói
ta với mình nhứt dạ đế vương
Sài Gòn Chợ Lớn dưới mặt đất
ngõ hẽm đời sau rối địa hình
tiếng nói cất lên, ngoài tiếng nói
của đàn ông nói chuyện với rồng
tiếng hát cất lên, ngoài tiếng hát
để về khuya phượng múa chung quanh

kẻ sống còn

chúng ta còn . Còn kẻ còn sống
ít nhất, điều nhớ của người chết
điều hy vọng của người đã sống
còn sộng Còn cung tay . Còn chửi thề
mọc trong khí hậu, gọi là con người
những ngàn năm mười năm
còn hốt cốt, còn thiêu xác
những mười năm ngàn năm
còn sống còn dãi nắng dầm mưa
trái tim xanh lá cây trên dòng chữ điến hình
còn chửi thề, còn cung tay
chẳng gian lận với tử sinh
mỗi người một thượng đế có hơi thở
một đời sơn tinh cùng thủy tận
kẻ còn sống còn trong hốc núi
hỏi chính trong cơ thể một người Việt Nam hùng cường
còn sống còn cung tay còn chửi thề
còn căm hờn như đã bất khuất
kẻ đi rao giảng một tôn giáo chung quyết
tấm lòng trẻ thơ hãy còn giận dỗi
hồi kết cuộc là một khởi đầu
kẻ sống còn là người di tản
hỏi chạng vạng hỏi hoàng hôn hỏi New Orleans
Jazz màu xanh hay Jazz màu đen
đổ ra đầy đường Madrid khiêu vũ
chiêng trống bắp thịt mừng người qúa cố
mắt xanh dương Địa Trung Hải
mắt sơn lâm, mắt đồng áng
người đến có chúng tôi đi có chúng tôi
có ngoại tình có phản trắc để yêu em
ngó xuống thấy thành phố . Ngó lên thấy thành phố
tiếp tục làm thầy tu xuất không ngừng
với lương tâm bao dung
anh trớ thành tình nhân sung mãn
khuất đi những cuộc đảo chánh đẫm máu
giết chết những thế hệ chính trị giả trá xảo quyệt
chúng tôi một mình dựng cờ khởi nghĩa
hoá giải những mặc cảm tôn giáo bất kỳ
bằng tấm lòng cao cả
thuộc thời kỳ tình tứ
khi mọi người lên trời
chúng tôi đến tương lai
chào đón . Chào đón
chào đón những mười năm ngàn năm những đứa con
bằng môi mắt chỗ khác

Lý Con Trăm Hương

chiều chủ nhật đón em ra phố
áo lụa vàng lọc nắng hoàng lan
chạm hơi thở chợt ngưng hơi thở
em thẹn thùng muốn rụng ngón tay 
cắt tròn lẵn múi măng trắng nõn
con bạn hàng quên ẻo lã rao
cánh hoa phượng ép khô năm ngoái
đậm màu da không phải chỗ này 
gió nhiệt đới tươm mồ hôi mật
tiếng đạn xa bay thấu lâu đời
mưa óng ả từng sợi diệp lục
guốc mù sương son đỏ gót chân
nói khe khẽ ngực đầy như núi
trắng mù mây lật vạt áo dài
tay đế che một tay đế dấu
nước đầy sông gần bước lên bờ 
bên thành phố bên nhà quê d-ó
đó ngoại ô đó thương cảng mà
phía nào cũng có anh ở đó
ở phía nào em cũng ngó theo
thời con gái có miếng ăn vụng
có lông măng trên ngọc cánh tay
ngó đến đâu em thẹn đến đó
ngó chỗ nào em cũng làm ngơ
đêm bày tỏ tấm lòng buổi sáng
hoa mười giờ tươi nụ cười riêng
nắng mùa mưa Bàn Cờ Tân Định
lý em ngồi theo kiểu đời xưa
mưa mùa nắng đời tư tràn trụa
tình ái em có nhận hột xoàn
tiếng cười nước mắt óng ánh hết
lý em ngồi theo kiểu đong đưa 
nắng mùa lạnh hỏi thăm quê quán
xa rất gần nhưng gần rất xa
-dêm tuyệt kỹ dưới đáy trí nhớ
lý trăm hương đi đứng dậy thì 
con trăm hương cánh tay tròn lẳn
sửa soạn bàn tay đế cho anh
con nhỏ cười mát như nước suối
con nhỏ buồn mây nặng gần mưa 
sáng hỏi thăm trăm hương buổi tối
mỗi ngày gần như rượu lâu năm
khi nhớ lại con nhỏ hoảng hốt
đã thành ra tình ái mặn nồng
lý trăm hương nghe còn sung sướng
không hồi xưa mà có đời xưa
con trăm hương hồi xưa con gái
hồi bây giờ con gái như xưa 

cánh đồng trầm thủy

tặng Tô Thùy Yên
mở cửa. Không gian. Em. Mở. Thật lâm ly
thêm mùi mồ hôi trộm
-dàn bà của tôi. Liên bang. Hiệp chủng
đường ranh giới như sợi dây ảo thuật
tháo gỡ gút mắt trắc trở
đi thăm thế giới bằng thông hành thường trú Hoa Kỳ
nơi nào cũng có Việt Nam chật nhân loại
nhìn ngắm tấm thân em. Bằng. Cặp mắt Chữ Đồng Tử 
mùa gặt trên không trung. Mở cửa
trại tế bần nhân loại
lấy con mắt giả đập nát giữa bàn rượu
khuya khoắt chẳng hồi tâm
anh cúi xuống đáo để
cúi xuống
mất mặt mày
Lịch Sử vẫn tiếp tục chảy
máu
từ lỗ thị giác phế thải 
mở cứa kiểu cách. Tôi. Mở. Võ hiệp kỳ tình
mỗi thế giới láng giềng
miếng miểng lựu đạn còn kẹt góc trái tim
anh giữ se sắt ký ức
cánh tay não nùng ôm
khi anh rời châu thổ qua biển. Qua
bát ngát những lãnh địa trầm thủy
nồng nực mùi phù sa
Cái Con Việt Nam
ngoài chợ trời năm châu
kỳ vẩy đời tư nạm bạc giác vàng 
mở cửa New York, San Francisco, Seatle, Houston
mở cửa Đồng Tháp Mười, Long Xuyên, Rạch Giá,
Cà Mau, Cái Răng, Cái Tă'c, Cái Vồn
trên nóc cao ốc trùng trùng -dàn ông . Chót vót
điệp điệp -dàn bà. Cái Lớn. Cái Bé.
những bái vật muôn năm trong gốc gác con người
Cái Răng. Cái Tóc. Cái Lồn. Cái Hồn Vía còn tươi
kẻ di tản đã ra ngoài đường chân biển
và bao nhiêu đường chân trời. Không ai nhớ rõ
đi hết ngoài ánh sáng. Đốt lửa ngoài giới hạn
mở cửa không trung. Mở. Vô tận
những chuyến tàu chuẩn bị
nhân công sẵn sàng. Mùa gặt hái hư vô
ngọn lửa trái tim tôi. Hồi hộp. Ly kỳ
dẫn vào da thịt bóng tối. Xúc cảm
nhìn về phong cảnh địa cầu
nơi em rửa chân ngoài hồ sen. Nắng ở đó
phản chiếu ngang thế giới
mở cửa sông . Những trận mưa không dứt mặt trời
nơi em chống xuồng. Đi
dọn dẹp những khu rừng mắm
phù sa lục địa ửng đỏ dấu chân còng
anh cắt phát chín con rồng mở mang bờ cõi
ngũ quan Thái Bình Dương. Tất cả đổ mồ hôi
chim kêu hạnh phúc trong tỉnh trí
khi thủy triều rút lui
bầy cá sấu đội -dèn dẫn nước ngọt ra. Làm thịt hải sản
bằng tốc độ ánh sáng. Em. Đi theo dấu chân bóng tối
trên thượng tầng xi măng cốt sắt. Hở ra
dọn mình, chín tới, tươm mật, chảy nước. Rượn đực
đáp xuống thằng -dàn ông sung
cái đầu rồng hung dữ
từ cánh đồng trầm thủy bao la
dinh thự nổi linh đình trên mặt Nam Hải
quặng mỏ thịnh tình trong ruột đất đang thuần
chim Âu đáp xuống rợp trời
sông rạch mới đâm chồi. Nẩy tược
ra bông. Kết quả. Trái mãng cầu dai ngọt đậm
thuyền không gian cập bến
lúa sạ mọc cao vùn vụt theo con nước lớn
-dêm trăng sao như châu ngọc kết -dèn mở hội hoa đăng
con gái sinh ra hương thơm ngào ngạt
cánh đồng Không Trung,
cánh đồng Trầm Thủy, cánh đồng Tương
phụ nữ biên cương nhổ núi đánh giặc trời
Phật Nguyệt đẹp thiên tướng phá thiên binh
nhừng gần 3000 năm trước Tây Lịch
nữ tướng Hoàng Thiều Hoa
liệt nữ Trần Thiều Lan chị em nhà họ Trưng
con -dàn bà của cái huyền sử trăm năm
sầm uất tiểu sử người di tản
chim Âu cất cánh rợp trời
cây mắm dựng lên cái đầu rồng mê ly
Cánh đồng Không Trung. Cánh đồng Trầm Thủy
em mở khóa vô biên, anh mở chốt tinh sương
mâm triển khai kỳ hoa dị thảo
cái mõ, cái chuông
cái âm, cái dương, cái con người chứa chan phú qúi
đoàn ghe tam bản dựng lộng kết hoa
kinh rạch thấp sông ngòi cao
đưa nàng về dinh. Chim én làm tổ
sinh con đẻ cái hương thơm ngào ngạt
đi đâu cũng trở về. Mỗi năm. Huyền sử một lần
ra giêng hết sức
hẹn gặp nhau trên cánh đồng Trầm Thủy

để tưởng nhớ mùi hương

tựa đề một quyển tiểu thuyết của Mai Thảo
chừng ấy núi với tình tứ núi
chừng ấy sông anh nặng mấy ngàn sông
trước ngưỡng cửa mùa thu những -dêm chớm lạnh
lanh lãnh ở trên trời, ấm áp dưới biển sâu
từng ấy ngón tay trên từng cúc áo
anh ăn mặc tân thời bằng quốc phục Ngọc Anh
xứ sở Ngọc Anh phong cảnh thanh tú
như mặt trời trong thế giới Việt Nam
ngoài diện kiến chậu hoa cuối hạ
từ California nàng đến Houston
chuyến bay ấy có một đời người cố định
chở cố hương về thân ái với cố hương
từng chút một mỗi ban ngày quốc sắc
đĩa rau sống tha phương chưng dọn nụ cười
chén nước mắm mặn mà -dời sống
trái ớt nhân tình trong huyết thống lưu linh
từng chút -dêm trên từng chút hơi thở
cam quít đời xưa ngọt ở mùi hương
nắng Texas phơi mấy ngày mãn hạ
gái Cần Thơ như cốc rượu hồng -dào
em đến mấy bữa em về một bữa
về biển Thái bình anh ở Đại tây dương
hai bờ lục địa xuyên bang hiệp chủng
hai thế giới hữu tình trong Ngọc của Anh
khuya một nửa chung tình một nửa
một nửa tâm tư chìm ở Mã Lai
-dàn bà -di biển buồn so muốn khóc
nhớ ngôi nhà trên cánh mây bay
trời đất Ngọc Anh những ngày lập quốc
bên những giòng sông dầy lệ thủy triều
mùa cá rực rỡ kỳ vẩy nhiệt đới
em dạy cho anh đánh lưới ái tình
anh đi hồ hải thèm những điều vô định
tìm gặp hải hồ ngoài góc biển chân mây
đến lúc trở về thấy ngàn trùng cố quốc
nhưng có ngôi nhà trong lãnh thổ Ngọc Anh
phụ nữ ngoài kia những ơn nghĩa thiên phú
quần áo trữ tình trong khu vực đông nam
thành phố Houston mỗi lần em đến
em có một mùi hương trong một mùi hương 

thứ -dàn ông biệt xứ

thứ -dàn ông đi biệt xứ
nằm cư xá rình động tĩnh
chó mèo hoang
réo gọi trong đầu óc khuya
những địa danh những người thân thuộc
ngày -dêm nêm chặt trong đầu
con ngựa gỗ gãy chân
tiếng xe ngoài xa lộ gọi thức dậy những chuyến đi thèm
người trên đoạn đầu -dài
lưỡi dao thời gian chém
như Mỵ Châu chạy đến biển Nam Hải
thứ -dàn ông đi biệt xứ
-dêm dao bén thọc lỗ con ngươi
trong quán rượu người -dàn bà -dầy
chỗ con mắt lòn lõi
sợi dây -dàn bén siết cổ họng
âm thanh bể thính giác
tiếng hát độc dược đổ vào
cảm xúc hở
người ngồi trong góc đại dương
như Hai Bà Trưng chạy đến Hát Giang
một ngày không biết nói chuyện với ai
đôi mắt rớt ra ngoài thiên hạ
thứ -dàn ông đi biệt xứ
uống rượu ngà ngà suốt -dêm mất ngủ
nhớ người -dàn bà từng chung chăn gối đập con muõi trong mùng
chuyến xe chở súng đạn chạy vào đầu
giấc mơ đứt hơi thở
trở về xử tội kẻ bức tử
ngôn ngữ nhập vào mệt
con mãnh sư móc họng
như Trần Bình Trọng tử tiết 
một ngày không biết nói chuyện với ai
mỗi cọng nắng mỗi giọt sương một khúc sầu ngâm
thứ -dàn ông đi biệt xứ
mấy ngàn năm cũng mộng trở về
trái bom nố chậm
quả lựu đạn rút ngòi
giữa đám đông cô độc
ngọn cỏ non như lưỡi gươm đâm
cảm giác khùng điên thức dậy
trí nhớ nổ kinh hoàng
tháng một tháng chạp gặt lúa nuôi quân
vạt áo bay ngoài thế giới em
một hôm không biết tại sao mình khóc lạ lùng
một ngày không biết nói chuyện với ai
sống ở Hoa Kỳ cũng như chết ở Việt Nam vậy 

trên nóc saigon


để anh hát cho em ngủ quên
lời êm ái như cỏ xanh mướt
mây và hoa trên nóc thành phố
nơi đóng rêu nơi anh hoang vu
chẳng ai ngờ anh hôn ngón tay
nơi anh kể chuyện buồn cổ tích
chẳng ai ngờ anh hôn mái tóc
một ngọn cây còn một gia tài
chẳng ai ngờ anh hôn đôi môi
con đường rong thành phố phế thải
chợt cơn nắng tiếp trận mưa mù
lá me rơi trong tách cà phê
chẳng ai ngờ anh chưa chết đói
bụi cỏ may mọc nửa lưng trời
một cụm mưa làm phong cảnh đẹp
mặt trời xanh mọc trên gò má
nơi mấy năm bụi phủ lặng thinh
chẳng ai ngờ anh hôn mắt khép
người dưới đất cờ bay phất phới
chẳng ai ngờ hai đứa tự tình
cò trổ hoa trên nóc cao ốc
chẳng ai ngờ anh còn đủ sức
để anh hát cho em ngủ quên
lời êm ái nhỏ như sợi chỉ
chẳng ai ngờ em chết lạnh băng

Uẩn Tình Kẻ Xa Xứ


tôi một bữa ngồi yên như bàn ghế
nắng rọi trong đầu những trắng bao la
còn đôi mắt tôi ở nhà bè Gia Định
ở ngã Tư Bảy Hiền ly nước mía, má, môi
em đạp xe mini trời gió mềm trong áo
thành phố bập bềnh trôi giữa nắng mênh mông
sợi tóc chẻ hai gần đường xích đạo
vạt áo sau lưng khép hở Saigon
tôi một bữa đợi em mòn con mắt
từ Suối Máu em về xanh như lá cây
những kẻ đã sống chết cho Độc Lập Tự Do bị xử tội phản quốc
anh bỏ đi rồi em ở với ai
phần hoa cúc dại nở trên ngọn gió
buổi chiều dưới thung lũng héo hon
tôi kể tôi đã chết mấy mươi  năm về trước
bây giờ là thằng bù nhìn tơi tả thê lương
em hãy kể tôi như trái cây lột vỏ
để qúa -dêm ngày hôi gió thịt xương tôi
như gái tỉnh lẻ thất thân nơi thị trấn
lỡ một lần lỡ thêm nữa chẳng sao
em hãy kể tôi đã tới hồi mạt vận
tuyết phủ đầy đóng đá tay chân
hồn hải điểu bay ngày -dêm qua biển
bay mãi có ngày rụng cánh bơ vơ
em rớt thăm thẳm xuống vực sâu thời cuộc
sương Saigon thấm lạnh áo mồ hôi
mưa lất phất ngoài ngã năm ngã bảy
gió lọt vào em từ ngã bảy ngã ba
em ở cư xá Thanh Đa em ở chung cư Minh Mạng
em ở khắp đất trời trong thế giới tôi
em ở với Việt Nam ở với ly cà phê -dá
ở với chỗ em ngồi ấm uyên ủy tôi
tôi ngủ mấy ngày -dêm vẫn chưa mộng mị
thử tưởng tượng một ngày cho đỡ thê lương
em với nắng với Saigon với tôi tập họp
nắng trên Saigon, Saigon trên nắng lô nhô
em đâu biết, tôi bây giờ, hầu như cây kiểng
bỏ phế trong nhà cũng mấy năm qua
tôi sống, cảm giác, ngọn dáo đâm trước ngực

http://www.gio-o.com/thocaodongkhanh.html
Hình by huyvespa 

website counter

90 năm sinh nhật Mai Thảo (1927 - 2017)

$
0
0
Tìm được quyển truyện ngắn của MAI THẢO bổ sung vào bộ sưu tập , để lên chồng sách...thấy Mai Thảo từ miền Nam đến...biển-ngoài, Mai Thảo từ Nhật Ký cho đến Sổ Tay, Mai Thảo từ truyện dài cho đến Mai Thảo tuỳ bút, Mai Thảo Sinh Niệm đến Mai Thảo Tưởng Niệm...
(và vẫn còn tìm những quyển VĂN hải ngoại thời - Mai - Thảo)

IMG_085120171011_IMG_117720171011_IMG_117920171011_IMG_116720171011_IMG_116820171011_IMG_116920171011_IMG_117020171011_IMG_117120171011_IMG_117220171011_IMG_117320171011_IMG_117420171011_IMG_117520171011_IMG_115520171011_IMG_117820171011_IMG_115620171011_IMG_115720171011_IMG_115820171011_IMG_115920171011_IMG_116020171011_IMG_116120171011_IMG_116220171011_IMG_116320171011_IMG_116420171011_IMG_116520171011_IMG_116611A1B1C1D1E1F22A2B2C2D2E2F33A3B3C3D3E3F44A4B4C4D4E4F55A5B5C5D5E66A6B6C6D6E6F77A7B7C7D7E7F7G7H17408231_10212383547082741_1578172639_o99A9B9C9D9E9F9G1010A10B10C10D10E1111A11B11C11D11E11F20161003_082515 (2)20161003_08262520161003_08310320161003_10542420161003_10552420161005_204039






website hit counter

Tô Thùy Yên - "Ta về khai giải bùa thiêng yểm" (các sáng tác trên tạp chí trước 1975)

$
0
0

Xem như một lần "giải oan cho cuộc biển dâu này", lần "ta về" chính thức của nhà thơ Tô Thuỳ Yên trên một tờ báo trong nước...
Bài biên khảo/ nhận định về đời thơ của ông đã từng đọc theo tôi là hay nhất "Thơ Tô Thùy Yên, Chênh Vênh Siêu Hình - Hiện Thực" trên Hợp Lưu http://hopluu.net/…/tran-huu-thuc-tho-to-thuy-yen-chenh-ven…
Và cuộc phỏng vấn giữa báo Khởi Hành và ông năm 1998 "Giấc mơ không dứt đó của thần linh"




Thế nhưng vẫn còn lấn cấn trong lòng tôi sự vô tình của ông và những vướng mắc trong chuyện tình với nữ văn sĩ Nguyễn Thị Thuỵ Vũ ...

Một người-thơ "Ta nhìn ngọn cỏ, lòng mê mẩn/ Nghĩ tới đời ràn rụa thâm ân" tại sao lại tự chìm trong cơn "hôn thuỵ" (tên một truyện dài phóng tác của ông trên Văn) của chính mình, bằn bặt bao nhiêu năm trước thảm cảnh của người mình từng yêu http://luanhoan.net/Bai%20Moi%20Trong%20…/…/bm%2010-8-03.htm

"...Từ thời còn con gái, làm nghề viết văn và dạy học, chị Thụy Vũ chung sống với nhà thơ Tô Thùy Yên, sinh được 3 con, hai gái, một trai. Cháu lớn tên Khôi Hạnh. Cháu trai tên Khôi Hạo. Cháu gái nhỏ nhất tên Khôi Thụy (sinh năm 1973). Nhưng chẳng may, cháu Thụy lúc mới chưa đầy 2 tuổi, chị người làm không cẩn thận khiến cháu bị té ngửa từ trên giường xuống nền gạch, chấn thương sọ não rất nặng. Suốt bao nhiêu năm nay cháu sống đời sống thực vật, chỉ nằm một chỗ, u mơ không biết gì hết. Nhà văn Văn Quang cho biết, vào những năm tháng đầu sau biến cố tháng 4-1975, có một thời gian tác giả “Chiều xuống êm đềm” đã phải làm lơ xe đò, chạy đường Sài Gòn-Thủ Đức. Suốt ngày chị chỉ đứng một chân… Tới khi kiệt sức, không kham nổi nữa, chị đem con cái về Lộc Ninh. Chốn ở mới của chị là một nơi “không có điện, không có nước, Thụy Vũ và các con sống như người rừng!”

"...
-Cha nó ở bên Mỹ, nhưng từ ngày ra đi, ông quên mẹ con chị Vũ rồi. Mặc dù bạn bè ai cũng biết, mấy mẹ con chị sống khổ cực cay đắng đến như thế nào 25 năm qua, cho đến bây giờ đời sống vẫn vậy. Không đủ tiền cho con ăn, lấy tiền đâu uống thuốc? Sống hôm nay biết hôm nay, ngày mai nói chuyện sau. Tính chị Vũ vẫn vậy. Hôm sau tôi hỏi lại chị Vũ về việc này cho rõ ràng . Chị chỉ gật đầu:
-Đúng thế. Tôi không hề biết địa chỉ của anh ấy. Thỉnh thoảng mấy đứa con anh ấy về chơi, chúng rất có cảm tình với tôi. Có lẽ vì thấy ....
Chị bỏ lửng câu nói ở đấy rồi bắt sang chuyện khác. Tôi cúi đầu, một nỗi đau tràn đầy, niềm tủi buồn dâng ngập..."
Nhà thơ đã "trở về":
"Ta về khai giải bùa thiêng yểm" nhưng rồi "Ai giải oan ai sử nợ này?!?"
....

20171030_IMG_183920171030_IMG_1840


Cùng lúc đó, lần đầu tiên sau 42 năm, một tờ báo "văn nghệ" trong nước đăng có một cuộc "họp mặt" rầm rộ, cho đăng lên những tác phẩm của một số tác giả tiêu biểu trước 1975 của miền Nam một cách "chính thống" (update ở dưới bài blog này), trước hết cũng một lần nữa một bài ngắn về thơ Tô Thuỳ Yên...
Với số báo "phenomenal" này cũng nằm trong một hoạch định ...mà theo bài viết này http://www.baocalitoday.com/chinh-su-viet-nam/33-nha-van-viet-nam-song-tai-13-nuoc-tren-gioi-la-nhung-ai.html  "Đã hoàn toàn biến mất cái tên “Hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học”, mà thay vào đó là Cuộc gặp mặt lần thứ nhất “Nhà văn với sứ mệnh đại đoàn kết dân tộc” do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức chính thức khai mạc ngày 20/10, tại Hà Nội. Cũng hoàn toàn biến mất từ “hòa hợp” để thay bằng “đại đoàn kết” – một cụm từ mang “tính đảng” thuần túy mà giới nhà văn hải ngoại không quen dùng"

https://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/lang-ta-ngua-da-qua-song

20171030_IMG_184220171030_IMG_1846

Nhân nhắc nhiều đến nhờ thơ Tô Thuỳ Yên, xin góp một chút tư liệu (từ bộ sưu tập cá nhân) về các tác phẩm của ông trong báo VĂN NGHỆ và TẬP SAN VĂN CHƯƠNG ...nếu có thời gian sẽ update thêm về các tác phẩm trên VĂN và một số tạp chí trước 1975 khác...




20171030_IMG_186020171030_IMG_185720171030_IMG_185820171030_IMG_1859Picture6Picture1Picture2Picture3Picture4Picture5Picture7Picture8Picture9Picture10Picture11Picture12Picture13Picture14Picture15Picture16Picture17Picture18Picture19Picture20Picture21Picture22Picture23Picture24Picture25Picture26Picture27Picture28Picture29Picture30Picture31Picture32Picture33Picture34Picture35Picture36Picture37Picture38Picture39Picture40Picture41Picture41Picture42Picture43Picture44Picture45Picture46Picture47Picture48Picture49Picture50Picture51Picture52Picture53Picture54Picture55Picture56Báo Văn Nghệ với chủ đề CHÀO MỪNG CUỘC GẶP MẶT LẦN THỨ NHẤT NHÀ VĂN VỚI SỰ NGHIỆP ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC ...

20171030_IMG_184520171030_IMG_184820171030_IMG_184920171030_IMG_184420171030_IMG_185120171030_IMG_185420171030_IMG_184320171030_IMG_185520171030_IMG_184720171030_IMG_1850visitor counter

Ở Đà Lạt đọc "Không có mây trên thành phố Los Angeles" (Lê Uyên Phương - 1990)

$
0
0

Khi Lê Uyên hát “…cuồng điên” bình thản… tình yêu chìm xuống sâu hơn đáy của nỗi buồn… https://mp3.zing.vn/…/Ky-Niem-Trong-Chieu-Le-…/ZWZABZWC.html
Khi Ý Lan hát “…cô liêu” và theo sau là những tiếng rãi của dương cầm như những bước chân xa… lúc ấy …tình yêu cũng đã “rời giấc mơ” mà “cúi trên cơn mộng dài”…

Những ngày Dalat trôi qua như thế… những ngày “nỗi dịu dàng nào đã ngời sáng”…những ngày mà âm nhạc của Lê Uyên Phương đã như “thiên cổ tìm nghìn thu” đã ở đó và ở đây của khắp cùng Dalat, đã như tạc vào lòng Dalat một bức tranh trừu tượng với những đường viền của kỷ niệm lẫn tan vào nhau trong đó có mịt mờ sương và bảng lảng nắng, của chán chường và hân hoan, của requiem não nề “áo trắng đưa nhau” và hoan ca ngất say “Áo đưa nhau tròn xoay”…


Dalat của “trời mưa mãi mưa hoài, thần tiên giấc mơ dài”, Dalat của “ngày hôm qua trong nắng thiên đường”, Dalat của mùa “ hoa vàng rừng xanh” – loài hoa dại bơ vơ trên những sườn đồi, trên những dốc cheo leo chỉ biết “chờ nắng vàng dâng hương” , Dalat của một thoáng sương mù ôm ấp , đi vào lòng sương như tan vào một dòng “hương khói bay”, Dalat của “chiều nghiêng nắng lá hoa buồn lay”…

Dalat của “…mùa thu còn mang tiếng buồn đêm hè “, Dalat của “…ngày đầu hè tình nở thắm tươi”, hay Dalat của “…trên phố khuya âm thầm trong gió đông ..”…Dù lúc nào, thời nào… Dalat, hoài mãi là một “nỗi buồn dâng hiến” “trên da tình yêu”

./.

#Iphonegraphy by huyvespa

20171029_IMG_176520171028_IMG_158020171029_IMG_183320171029_IMG_183420171028_IMG_159420171029_IMG_183220171029_IMG_178520171029_IMG_169020171029_IMG_171920171029_IMG_172020171029_IMG_174620171029_IMG_174720171029_IMG_176820171029_IMG_181720171028_IMG_156620171028_IMG_156420171028_IMG_155420171028_IMG_154120171028_IMG_154020171028_IMG_1539

KCMTTPLA-LEP-Biatruoc
CON CHIM PHƯỢNG TRÊN THÂN THỂ NÀNG   
 https://thunhan.org/a336/con-chim-phuong-tren-than-the-nang
CON CHUỒN CHUỒN TRONG TRÍ NHỚ 
Ở Santa Ana   Gái Mặc Áo Xanh
Một Vở Kịch

KCMTTPLA-LEP-BiasauKCMTTPLA-LEP-02KCMTTPLA-LEP-MucLuc




web page hit counter
ĐỌC LẠI
LÊ UYÊN PHƯƠNG
Lê Hữu
“Hãy ngồi xuống đây, trên lưng cuộc đời,
thách đố thương đau”…
LUP
 
     Tại sao không phải "nghe lại" mà là "đọc lại" Lê Uyên Phương (LUP)?
     Nghe LUP thì nhiều người cũng đã từng nghe qua, từ các băng nhạc, đĩa nhạc, đến các sân khấu trình diễn. Thỉnh thoảng vẫn có những bài viết nhận định về nhạc LUP, về các buổi trình diễn, và cả về tính cách của người nhạc sĩ đã viết nên những ca khúc đó. Tôi đọc, có điểm đồng tình, có điểm vẫn còn chút nghi hoặc, và nói chung, vẫn có cảm giác thiêu thiếu một cái gì. Dường như vẫn có những điều chưa được nói đến, chưa được nói thật đầy đủ... Trong một lần tình cờ đọc lại cuốn sách cũ đó, cuốn sách duy nhất của LUP được in và xuất bản, tôi đã phần nào tìm thấy được những lời giải đáp, những câu trả lời. Ở đấy, trên những trang viết, là những nỗi niềm trăn trở, là những cảm xúc tràn bờ. Ở đấy còn là những bù đắp mà ngôn ngữ âm nhạc của LUP, dẫu có được thể hiện bằng những giai điệu đằm thắm, dẫu có cuốn hút người nghe tới đâu vẫn không chuyên chở hết được.
     “Tôi muốn yêu, yêu cả cuộc đời”…
     Đây chắc chắn không phải là một bài điểm sách... cũ. "Không Có Mây Trên Thành Phố Los Angeles" (tập truyện và tùy bút LUP, nxb Tân Thư, 1990) không phải là một cuốn sách mới; tuy nhiên, nó vẫn cứ mới đối với những người chưa từng đọc nó bao giờ, hay chỉ đọc lướt qua trước đây. Nhiều cuốn sách còn cũ gấp bao nhiêu lần hơn thế nữa vẫn còn được người đời nhắc đến nhiều năm sau đó. Một bài thơ, một bài nhạc, một cuốn sách hay chẳng bao giờ cũ. Bài viết này không nhằm lập lại những điều đã từng được nói đến trước đây về LUP, người nhạc sĩ sáng tác và trình diễn ca khúc, mà chỉ muốn nói tới một LUP khác, một người viết văn đã có lúc phơi trải lòng mình lên những trang giấy.
     Tôi đã gặp cuốn sách đó ngay từ những ngày đầu đặt chân lên đất nước này, nhưng thực tình là tôi đã không chú ý đến nó lắm. Tôi chỉ cầm cuốn sách lên, ngắm nghía cái bìa sách, rồi bỏ xuống. (Một trong những bìa sách đẹp nhất của Khánh Trường). "Anh chàng viết nhạc này bây giờ lại quay sang viết văn, làm thơ," tôi nghĩ. Thực tế cho thấy, một tác giả thành công ở một lãnh vực văn hóa nghệ thuật, khi nhảy sang một lãnh vực khác thường hiếm khi gặt hái được sự thành công tiếp theo. Sự tin tưởng vào thực tế ấy đã khiến tôi (và chắc là không ít người) có chút ân hận về sau này là đã bỏ lỡ cơ hội để hiểu thêm được về anh sớm hơn, để thấy được còn có những gì phía sau những đường kẻ nhạc, phía sau những ca khúc người nhạc sĩ đã hát lên bằng cả tâm hồn trước đám đông người nghe, những ca khúc một thời làm lay động lòng người. Mãi đến nay, tôi mới có dịp cầm lại cuốn sách đó, đọc lại từng trang, từng dòng, từng câu, từng chữ... Những dòng chữ vẫn nằm im trên những trang sách tự thuở nào, vậy mà tôi tưởng như mới được trông thấy lần đầu.
     Có lẽ cũng nên nói qua ít hàng về nhạc LUP. Tôi nhớ đã từng nghe nhạc của anh từ lâu lắm, đâu từ những năm sáu chín, bẩy mươi thì phải. Giữa những năm mà loại nhạc trẻ, nhạc kích động ồn ào trên những sân khấu trình diễn, những ca khúc da vàng máu đỏ thi nhau rên rỉ, than vãn về thân phận đất nước, về quê hương chiến tranh trong những phòng trà, những quán café, thì dòng nhạc của anh lại lặng lẽ tách riêng một nhánh khác. Tình yêu trong nhạc của anh mang bộ mặt hoàn toàn khác lạ. Trong những lời nhạc của anh thuở đó, người ta nghe thấy những vũng lầy, những vực sâu, những cơn đau, những cơn say, những da thịt, những bàng hoàng, rồi sau đó là những ê chề, những héo hon, những vội vàng, những muộn màng... Khi tất cả những thứ đó trộn lẫn vào nhau, người nghe nhận ra được LUP. Tình yêu trong nhạc của anh vừa có những ray rứt, khắc khoải, lại vừa có những ngấu nghiến, hừng hực như vậy. Nhạc của anh không giống ai, và cũng không ai... giống anh. Cả lối trình diễn, cách thể hiện của Lê Uyên và Phương cũng đặc biệt, cũng không giống ai. Nghe Lê Uyên và Phương hát, ta nghe những tiếng hát đan quyện, quấn quýt, ôm riết lấy nhau, đeo bám vào nhau tưởng như không thể tách rời, không tài nào rứt ra được. Họ hát "hết mình", như thể chỉ hát cho họ, không phải hát cho khán giả, không biết tới khán giả trước mặt. Vậy mà khán giả vẫn tán thưởng, vẫn cứ chăm chú lắng nghe họ. Thật kỳ lạ. Và người nhạc sĩ đã làm nên những ca khúc ấy, anh là ai? Tôi luôn bị thôi thúc bởi ý tưởng muốn biết được những gì ở phía sau con người nghệ sĩ vẫn ôm đàn hát một cách say sưa mỗi lần xuất hiện trên sân khấu đó. Anh suy nghĩ ra sao? Con người thật của anh như thế nào? Cái gì đã làm nên những ca khúc của anh? Tôi vẫn cho là người ta khó mà có thể hiểu hết được tính cách con người đó nếu chưa từng đọc qua cuốn sách của anh (và những gì khác nữa anh đã viết, tôi không được rõ). Tất nhiên, không đơn giản đọc một cuốn sách là hiểu được một con người, nhưng dẫu sao qua những trang viết của tác giả LUP, độc giả của anh cũng "đọc"được ở người viết một đôi điều.
     Cuốn sách ấy là một tập truyện và tùy bút. Tại sao lại "không có mây trên thành phố Los Angeles"? Bầu trời trong xanh lắm sao? Quả có như vậy. Trong một lúc nào đó, nhìn ra ngoài ô cửa, anh đã trông thấy bầu trời không gợn một chút mây nơi thành phố anh hiện đang sống, thật khác hẳn với cái "thành phố nhỏ nhoi đầy mây trắng và sương mù (1)" rất xa xôi trong trí tưởng của anh. Cái thành phố nhỏ nhoi mà đầy ắp kỷ niệm ấy vẫn luôn luôn ở một góc nào đó trong trái tim anh. Thực ra thì có gì khác nhau đâu giữa bầu trời này và bầu trời kia. Đâu cũng chỉ là một bầu trời. Khi thì trong vắt, khi thì dày đặc mây mù. Chỉ là anh tưởng tượng ra cái khác nhau đấy thôi. Có khác chăng là sự khác biệt giữa thành phố xa lạ mà anh đang sống và thành phố thân quen ngày xưa, nhưng thay vì nói về những khác biệt giữa hai thành phố đó, anh lại nói đến cái khác biệt giữa hai bầu trời để từ đó liên tưởng đến thành phố kỷ niệm của anh. Trong những dòng chữ anh viết luôn luôn thấp thoáng những nỗi niềm hoài niệm quá khứ. Hãy đọc thử một đoạn:
     "Lúc đó hắn đang nhìn lên bầu trời của thành phố Los Angeles và chợt nhận ra là chưa bao giờ hắn nhìn thấy những đám mây trắng bay lượn trên đó như hắn đã luôn luôn nhìn thấy những đám mây trắng bay lượn trên thành phố nhỏ thân thuộc xa xôi của hắn...(1)"
     Thành phố nhỏ nào vậy? Đó là thành phố với "những quán cà phê, những vũ trường, những thung lũng, những hồ, những đồi, những thác, những con đường dốc, những hàng thông xanh, những cánh đồng đầy hoa vàng, những con đường ngoằn ngoèo len lỏi giữa các biệt thự yên lặng, bí mật, trữ tình (1)". Đó chính là cái "thành phố đầy mây trắng và sương mù của hơn hai mươi năm về trước (1)".
     Anh yêu biết bao thành phố ấy, yêu biết bao những mảng quá khứ ấy, như đã yêu biết bao những hình ảnh xa xưa của sân trường kỷ niệm, như đã thiết tha yêu cuộc đời, yêu loài người. Nỗi niềm thương yêu ấy từng được anh đưa vào trong câu hát:
Tôi muốn yêu. Tôi muốn yêu, yêu cả cuộc đời
Tôi muốn tin. Tôi muốn tin, tin cả loài người
như ngày xưa, yêu sân trường, lớp học
yêu thầy, yêu bạn, yêu anh, yêu em…
(Tôi Muốn Tin, Tôi Muốn Yêu Cuộc Đời)
     Anh đã mơ mộng biết chừng nào, tâm hồn anh tràn đầy những ước mơ. Đó là tâm hồn gần gũi với thiên nhiên, hòa cùng tiếng đồng vọng của đất trời, của tiếng suối reo, của hơi gió thoảng, của cơn mưa bất chợt.
     "Tôi nghe bầu trời, tôi nghe cây cỏ, núi đồi, tôi nghe xúc động trong tôi, tôi nghe xúc động trong người cùng lúc với những gì tôi nhìn thấy chúng (2)".
     Tình yêu đôi lứa trong những bài tình ca của anh luôn luôn đan quyện với tình yêu thiên nhiên, với những trăng sao, nắng gió, mưa bão...
Ngày em thắp sao trời
chờ trăng gió lên khơi
mà mưa bão tơi bời
một ngày mưa bão không rời
Trên đôi môi thanh xuân
ướp hôn nồng bên gối đắm say
ánh sao trời theo gió rụng rơi đầy…
(Dạ Khúc Cho Tình Nhân)
     Tình yêu như mật ngọt trong những câu hát đó. Tôi đã nghe lại tình khúc này bằng cảm giác lâng lâng, bằng rung động dạt dào đượm chất men tình ái. Nếu đời sống luôn luôn được vỗ về bởi những bài tình ca nồng nàn như vậy thì nhạc LUP quả là đáng yêu biết chừng nào, và người nhạc sĩ của chúng ta sẽ mang hình ảnh chàng "nghệ sĩ với cây đàn"đi gieo rắc những lời ngợi ca tình yêu cho người người khắp nơi, khắp chốn. Trong một truyện ngắn, LUP cũng đã bày tỏ điều này khi mượn lời người cha nói với đứa con để giải thích về ý nghĩa những buổi trình diễn của anh:
     "Hình ảnh của ba má với cây đàn dưới ánh đèn màu và trong âm điệu đằm thắm của những bài tình ca đã gây cho khán giả cái cảm giác: tình yêu không phải là một ước mơ mà là một cái gì có thật. (3)"
     Anh mơ làm loài chim hiền, hót mãi những lời yêu thương ngọt ngào, mang tin vui đến cho mọi nhà.
Tôi đang làm một con chim giữa đời
cất tiếng hát để đánh thức bình minh
những tiếng hát ngắn một giây đồng hồ
nhưng dài bằng cả cuộc đời…
(Cất Tiếng Hát Giữa Đời)

     "Tôi muốn hát mãi những bài tình ca”…
     Thế nhưng cuộc sống đâu có là những phút giây êm đềm, bình lặng. Đến một lúc nào đó, anh đã phải thất vọng khi lần lần nhìn ra được cái mặt trái của cuộc đời, nhìn ra được những chiếc mặt nạ giả trá che đậy những tâm địa nhỏ nhen, hèn mọn, những thói tật tham lam, ích kỷ... của người đời. Đến một lúc nào đó, những sợi dây đàn đã cứa vào những đầu ngón tay anh, làm nhức buốt trái tim anh.
Nhưng, nhưng cuộc đời khốn nạn
đã giết chết trong tôi những tình yêu đầu...
(Tôi Muốn Tin, Tôi Muốn Yêu Cuộc Đời)
     Nhạc của anh đã bắt đầu có những lời nguyền rủa. Thật tội nghiệp cho anh, anh thiết tha, háo hức yêu cuộc đời. Vì yêu cuộc đời, yêu cái đẹp, nên anh cũng thù ghét cái xấu, thù ghét những trò chơi gian lận. Những cái tồi tệ, xấu xa ấy từ đâu tới làm ô nhiễm không khí những bài tình ca của anh. Những bài tình ca không chống chọi nổi những xâm phạm thô bạo đó. Anh cảm thấy mình gần như bất lực. "Tôi đã cất lời ca và cảm thấy từ trong xương tủy mình sự vô ích của những lời ca đó. (4)" Anh đau xót, phẫn nộ vì những bài tình ca đã bị dập tắt một cách phũ phàng. Và nhạc của anh bắt đầu có những chuyển hướng từ lúc đó. Không thể tiếp tục viết mãi, hát mãi những lời ngợi ca tình yêu, nhạc của anh bây giờ còn hướng tới những mục tiêu khác nữa. Anh lên án, vạch mặt, chỉ tên những kẻ phá hoại đã làm vấy mực những bản tình ca của anh, làm vẩn đục tình yêu của loài người.
     "Chúng tôi đã hát về tình yêu, về những con rối, về những trò chơi, về những danh từ, về những giáo điều, về sự tin tưởng và sự mất tin tưởng... (5)"
     Không chỉ viết về tình yêu, anh còn viết về những thảm trạng của của cuộc sống.
     "Những bài hát tôi gởi đến các bạn hôm nay, không phải là những bài tình ca, nhưng dứt khoát nó không phải là những ca khúc chính trị, nó trình bày cho chúng ta thấy vì sao mà chúng ta đã không có tình yêu trong cuộc sống, vì sao mà những bài tình ca của chúng ta lại bị dập tắt một cách phũ phàng như vậy. (5)"
     Tình yêu trong cuộc sống, cũng vẫn còn đấy chứ. Và những bài tình ca, đâu có dễ gì dập tắt được. Anh vẫn chưa mất tin tưởng. Vậy thì tình ca LUP bây giờ ở đâu?
     "Ở đâu không có những âm thanh chói tai của chính trị, của giả ngụy, của tham vọng con người..., ở đó có tình ca. Ở đâu không có cái không khí của sự lọc lừa, sự phản bội, sự vị kỷ..., ở đó có tình ca. (5)"
     Anh kêu gọi sự thức tỉnh của lương tri, anh kêu đòi phải trả lại những gì đã bị tước đoạt mất, "Hãy cứu lấy con tim của ta. Hãy trả lại cho những bài tình ca cái không khí trong lành của nó. (5)" Anh cũng bày tỏ lòng biết ơn về những "ân sủng của cuộc đời mà chúng tôi đã đón nhận được từ những niềm vui, những nỗi buồn, những ước mơ, và những hối tiếc không bao giờ nguôi. (6)"
     Những ước mơ và những hối tiếc luôn đến cùng một lúc.
Ta mơ về một quê hương xa
Ta mơ đến một quê hương gần
Nằm ngủ trong nấm mồ
ta mơ về những gì đã mất
và nước mắt lưng tròng...
(Những Giấc Mơ Trong Cuộc Đời)
     LUP có từ bỏ những bài tình ca? Không đời nào. Anh vẫn còn tiếp tục viết đấy chứ? Chắc chắn là như vậy. Vì đó là hơi thở, là hương vị ngọt ngào của đời sống, như anh vẫn nói:
     "Tôi đã viết rất nhiều tình ca và tôi yêu tất cả những bài tình ca đã từng có trên trái đất này, nó như những dòng nước trong, nó chính là hy vọng của chúng ta, nó chính là ước mơ của chúng ta trong cuộc sống. (7)"
     Thế nhưng những bài tình ca của anh bây giờ đã khác trước, đã mang những âm hưởng khác, đã rẽ sang một hướng khác, đã không còn là những bài tình ca một thời làm mê đắm lòng người. Đã hết rồi những mùa vui, những bầu trời trăng sao, những dòng suối trong vắt. Anh viết:
     "Nếu trước đây những bài tình ca của tôi được viết từ phía này, phía của dòng nước trong; giờ đây những bài tình ca của tôi được viết từ phía kia, phía của dòng nước đục. Nếu trước đây tôi đã viết về hy vọng, thì giờ đây là thất vọng. Nếu trước đây tôi đã viết về những ước mơ, thì giờ đây là một thực tại. Nếu trước đây tôi đã viết về tình yêu, thì giờ đây là sự thù ghét... (7)"
     Anh đã viết về những ước mơ. Ước mơ của LUP, đó là những gì vậy?
"Tôi đã mơ đến một chân trời mở ra bất tận, tôi đã mơ đến những hải đảo, đến những dòng sông, đến những thành phố lạ tràn ngập ánh đèn, tôi đã mơ đến những bài hát sẽ được bay xa, bay xa mãi, tôi đã mơ đến những nụ cười thân ái không xen lẫn một chút nghi kỵ, sợ hãi nào; tôi đã mơ đến một tình người thật ấm áp không pha trộn những tranh chấp hèn mọn nào của cuộc sống; tôi đã mơ đến một cuộc sống không bị khô héo vì những độc dược của chủ nghĩa, vì những đeo đuổi mỏi mòn theo cơm áo. Chúng tôi đã mơ, đã mơ, và chúng tôi đã hát, đã hát. (6)"
    Anh đã hát về những ước mơ ngậm ngùi, "hát về những ước mơ đã từng có trong quá khứ, những gì thuộc về quá khứ và đã từng sụp đổ ở trong quá khứ. (3)"
Dẫu sao, còn ước mơ là còn tiếng hát. Trái tim LUP là trái tim biết yêu, biết ghét, biết cảm phục, biết khinh miệt. "Tôi muốn hát mãi những bài tình ca, vì thế mà tôi đã viết những ca khúc này...,(5)" anh nói, giải thích về sự ra đời của những ca khúc ấy. Những ca khúc nào vậy? Hãy nghe thử một đoạn:
Tôi đã ghét những tên nịnh thần bằng bông nhồi
Tôi đã cảm phục những người hùng bằng gỗ lim
Tôi đã yêu những tình nhân không trái tim
vì tôi đã biết
chính hắn đứng sau hậu trường
với mười sợi dây trên mười đầu móng tay nhọn
như phù thủy đã tạo nên mọi thảm kịch của cuộc đời…
(Tôi Đã Nhìn Thấy Trong Trò Múa Rối)
     Viết lên được những dòng nhạc mới này, hát lên được những giai điệu mới này, anh thấy lòng mình yên ổn hơn, gắn bó với thực tại hơn, gần gũi với cuộc sống hơn, dòng máu chảy trong anh như được hòa nhập vào dòng máu nóng của đồng loại.
     "Chúng tôi đã hát, và đã lắng nghe từ trong trái tim mình nhịp đập của trái tim đồng loại, trái tim của những con người đã bị thử thách quá nhiều bởi mọi nỗi thống khổ của quả địa cầu... Chúng tôi đã hát, và đã cảm nhận trong từng mạch máu mình sự luân lưu của máu đồng loại, dòng máu của những con người luôn luôn bị xô đẩy trong cuộc sống và đã gục chết như cỏ cây. (8)"
     Trong những ca khúc LUP đã viết, có những ca khúc bộc phát từ tấm lòng thương yêu trẻ thơ, từ nỗi ước mong dựng lên được tấm lá chắn để che chở cho những khối óc non nớt, những tâm hồn trong trắng không bị vấy bùn vì những thói xấu xa, những trò chơi kém lương thiện của người lớn.
Này em bé ơi! Này em bé ơi!
đừng nghe chúng tôi chơi trò chính trị
Hãy đi rong chơi, đi đây đi đó
Hãy xếp chiếc thuyền
tìm soi hang dế, hay chơi bắn bi
Ngày sau khi lớn lên, em sẽ biết rằng con người lầm lạc biết bao…
(Này Em Bé Ơi)
     Về phía người nghe, về phía khán giả, thái độ họ ra sao, phản ứng họ thế nào đối với những ca khúc mới, đối với sự chuyển hướng sáng tác của anh? Liệu họ có đáp nhận những thông điệp anh gửi gấm đến cho họ(?). Liệu họ có chia sẻ với anh được chút nào(?). Những ca khúc anh viết sau này có lôi cuốn được họ, có được họ yêu thích như đã từng yêu thích những ca khúc của anh trước đây(?). Kết quả có lẽ không mấy khả quan. Tôi sẽ tỏ dấu ngờ vực nếu có ai đó nói rằng những ca khúc mới của anh được giới thưởng ngoạn đón nhận và tán thưởng nồng nhiệt. Dường như chưa có một tín hiệu rõ rệt nào như vậy. Khán giả như ngỡ ngàng khi đứng trước một LUP có vẻ mới mẻ, lạ lùng. Và LUP, anh cũng nhận biết được điều này, anh cũng tiên liệu được chuyện này. Anh tự hỏi, "Có phải vì thế mà những bài ca của tôi đã trở thành xa lạ với khán giả của mình? (7)" Bằng một giác quan tinh tế, bén nhạy, anh nhận ngay ra là:
     "Có một khoảng yên lặng khá lâu giữa nốt cuối cùng của bài hát và tiếng vỗ tay của khán giả. Khoảng yên lặng đó thật là lạ lùng. Khán giả đã không đánh giá được những gì họ nghe thấy. Mọi sự kỳ lạ quá. Đó là những ca khúc sao? Khán giả đã không thấy một điều gì cả, không cảm một điều gì cả. (7)"
     Họ có lắng nghe anh nhưng không chắc là đã hiểu được anh. Những tiếng vỗ tay (phát xuất từ lòng yêu mến anh) sau "khoảng yên lặng khá lâu"đó có thể được hiểu như là "chúng tôi không hiểu rõ lắm, nhưng chắc là phải... hay". Khán giả "không cảm một điều gì cả", nhưng LUP thì lại cảm thấy rõ ràng "có một cái gì rất khác lạ đã dội lại chúng tôi từ phía của những người nghe, không phải là một sự phản đối, không phải là một sự hưởng ứng, cũng không phải là một sự thông cảm, hình như đó là một sự ngỡ ngàng, ngỡ ngàng vì những điều đã được trình bày. (7)"
     Những ca khúc của LUP sau này ít được phổ biến rộng rãi, ít gặt hái được sự thành công, hiểu theo nghĩa ít được sự tán thưởng về phía người nghe so với những ca khúc thuở trước. Tôi nhớ có lần đọc được một bài báo nào đó tường thuật một buổi trình diễn của LUP, có đông người xem. Lần đó anh có giới thiệu những ca khúc mới của mình. Khán giả có chăm chú nghe nhưng có vẻ không mấy hứng thú, tiếng vỗ tay rời rạc. Họ chờ đợi một điều gì khác hơn. Chỉ đến lúc Lê Uyên và anh trình bày lại những tình khúc quen thuộc ngày trước, những tràng pháo tay mới nổi lên giòn giã... Đó vẫn là những gì họ chờ đợi, vẫn là những gì họ muốn nghe lại, vẫn là "theo em xuống phố trưa mai, đang còn nhức mỏi đôi vai… (9)" Với họ, đó mới là LUP.
     Khán giả của LUP ở đâu? Nhạc của anh hầu như có một đối tượng khán giả nhất định, và đối tượng khán giả này hầu như ít muốn có sự thay đổi. Dường như vẫn còn một khoảng cách, một bức màn ngăn cách giữa những ca khúc mới của LUP và những người nghe nhạc anh. Dường như mọi người vẫn chưa thực sự hiểu được anh, hoặc anh vẫn chưa làm cho mọi người hiểu được mình. LUP, anh đã có những lúc thật cô đơn đến tội nghiệp.
     “Nhớ chôn tôi với cây đàn guitar”…
     Trái tim LUP như những sợi dây đàn, như những phím đàn nhạy cảm, chỉ cần chạm nhẹ đến là đã rung lên những nốt nhạc thảng thốt. Trên những trang sách của anh, rất dễ nhận ra những biểu hiện của một tấm lòng nhân ái, một trái tim nhân hậu. Thử đọc một đoạn anh viết:
     "Tôi đã xúc động đến chảy nuớc mắt khi thấy và nghe một cô gái ôm cây đàn guitare đứng hát giữa công viên Central Park của New York, bên cạnh chiếc thùng đàn mở ra, trong đó có những đồng tiền lẻ của những người đứng nghe vây quanh bỏ vào sau mỗi bài hát... Lúc đó tôi đã nghĩ đến tôi qua hình ảnh của người con gái đó. Tôi không biết được đích xác những gì đã đến với tôi lúc bấy giờ, nhưng tôi đã thực sự xúc động. (4)"
     Nếu LUP biết được rằng, chỉ ít năm sau khi anh viết những dòng chữ này, những khán giả của anh cũng "đã thực sự xúc động"đến chảy nước mắt khi trông thấy Lê Uyên xuất hiện trên sân khấu với chiếc áo dài mầu đen tuyền, đứng hát một mình với một màn hình lớn ở phía sau chiếu rọi lại hình ảnh Phương ôm đàn cùng hát chung với nàng ở một buổi trình diễn nào đó của hai người vào lúc anh còn sống. Vì anh không còn nữa nên người ta phải tìm cách vá víu, lắp ghép cái màn hình giả tạo đó để làm tái hiện trước mắt khán giả hình ảnh quen thuộc của đôi nghệ sĩ vẫn thường hát chung với nhau những ca khúc từng được mọi người yêu thích. Những ca khúc cần có hai người. Lê Uyên đã phải mượn đến hình ảnh Phương trên màn ảnh video như mượn đến cây gậy để vịn vào đó mà đứng dậy, như mượn một hình nhân giả cho nàng tựa vào đó để có thể đứng vững, để có thể gượng dậy mà đứng hát một mình. Bi thiết đến mức đó sao! Cái hình ảnh người nữ ca sĩ đứng hát một mình đó sao mà tội nghiệp đến vậy! "Sài Gòn bây giờ cúi mặt xa nhau... (10)" Bài hát về Saigon ấy thực ra cũng không có gì đặc biệt lắm trong số nhiều bài hát nói về Saigon (về những nỗi nhớ nhung, tiếc thương, chia lìa...), nhưng tiếng hát của Lê Uyên quả tình đã gây xúc động. Bài hát thực sự có ý nghĩa gì hay chỉ để nhắc nhở những kỷ niệm. Hát khi xa Saigon. Hát khi vĩnh biệt LUP. Tôi đã nhìn thấy những giọt nước mắt của khán giả. Thực tình, khán giả đâu có nghe Lê Uyên hát, người ta chỉ nghe thấy những tiếng nấc, không phải là tiếng hát. Có thể là khán giả cũng "không biết được đích xác những gì đã đến với họ lúc bấy giờ, nhưng họ đã thực sự xúc động".
     Và tôi, người khán giả đêm ấy, bên cạnh nỗi xúc động ấy, còn cảm thấy có chút gì bất nhẫn, lẫn chút gì khó chịu. Tại sao người ta lại cố tình dàn dựng như vậy? Tại sao người ta lại muốn nàng phải làm như vậy? Liệu có thực sự cần thiết phải làm như vậy? Để làm gì chứ, để gợi lại nỗi tiếc thương, để cố ý làm mủi lòng người xem chăng(?). Người sống hát chung với người chết. Cái xảo thuật máy móc đó thật kỳ cục, và chỉ là một sự chắp vá khập khiễng, què quặt. Có lẽ không ít người có cùng một cảm giác nặng nề như tôi vào lúc ấy.
     Không có Phương, tiếng hát Lê Uyên chỉ còn là tiếng hát một nửa, và chỉ khiến người nghe càng thêm nhớ LUP. Một nửa tiếng hát thì không là gì cả. Không phải là LUP. Nếu không còn những tiếng hát đan quyện vào nhau, quấn quýt với nhau, đeo bám lấy nhau, đâu có còn là tiếng hát LUP.
     "Trước và sau, LUP vẫn là người duy nhất không ai thay thế được". Khi nghe những lời bộc bạch của Lê Uyên cùng khán giả sau bài hát đó, tôi không nghĩ rằng đấy là câu nói tự nhiên, bình thường... Tôi có cảm tưởng chị muốn phân giải điều gì đó với mọi người... Tôi cũng tự hỏi không rõ chị có nói cho Phương biết điều này khi anh còn sống(?). Không rõ Phương có nghe được những lời này trước khi anh lìa đời(?). Nếu có, thật may mắn cho anh. Nếu không, quả là điều chua xót. Nghe đâu đời sống tình cảm của anh cũng ít được suông sẻ (dường như anh cũng có thừa nhận đâu đó trong một bài phỏng vấn). Có phải vì vậy mà trong những tình khúc của anh thường chất chứa những nỗi giằng xé, dằn vặt, dày vò... Có phải vì thế mà trong cuốn sách của anh vẫn có những trang viết về bộ mặt khác của tình yêu: sự nhàm chán, sự dối trá, những tham vọng, những lầm lạc...
     Hãy đọc thử một vài định nghĩa của LUP về tình yêu, về thiên đường, địa ngục qua một mẩu đối thoại giữa người cha và đứa con:
"Địa ngục? Đó là cái gì vậy?"
"Địa ngục là nơi của sự dối trá, sự đối phó, sự bất an, sự sợ hãi, sự ghen tức, sự đau đớn, sự buộc tội, sự cay nghiệt..., là tất cả mọi điều mà con người muốn thoát khỏi mà không bao giờ thoát được."
"Còn thiên đàng?"
"Hiểu theo một nghĩa rộng rãi, đó chính là tình yêu."
"Tình yêu là một dòng nước trong sau khi đã được gạn lọc mọi rác rến, bùn đất lẫn lộn trong đó. (3)"
     Định nghĩa tình yêu theo cách đó, anh vẫn luôn luôn vỗ về, dặn dò với lòng mình hãy yêu thương thật nhiều, hãy cho đi thật nhiều, hãy nâng niu chút hạnh phúc hiếm hoi trong những ngày còn sống trên cõi nhân gian đầy hệ lụy này.
Khóc nhau trong cuộc đời
giấc mơ xưa khăn phủ vành sô
Có yêu nhau ngọt ngào tìm nhau
chết bên nhau thật là hồn nhiên…
Sống cho nhau mặn nồng
vì ta không còn cho nhau tiếng cười
không còn nhớ bóng dáng người tình ấp ôm
đến khi lìa cõi đời gắt gao...
Sống cho nhau nụ cười
vì biết sẽ có ngày nhìn thấy nhau mắt môi lạnh mất rồi… 
(Yêu Nhau Trong Phận Người)
     Lời nhạc như những lời trăn trối, dặn dò. Cái chết như đã được chuẩn bị. LUP suy nghĩ về cái chết, về những gì mỗi người sẽ mang theo trong phút giây lìa bỏ cõi đời. Anh đã viết ra những suy nghĩ ấy:
     "... Cứ mỗi lần đi dự một đám táng nào, đến lúc người ta bắt đầu ném những viên đất đầu tiên lên nắp quan tài nằm sâu dưới đáy huyệt, bao giờ cũng thế, tôi không thể nào tránh được cái ý nghĩ là ở trong đó, trong chiếc quan tài đó, đang có một cây đàn được chôn theo cùng với người quá cố. (11)"
     Tôi tự hỏi là không rõ trong đám táng của LUP, người ta có nhớ chôn theo cùng với anh cây đàn của anh(?). Anh chỉ mong có vậy. Như là câu thơ của Federico García Lorca, “Khi tôi chết, nhớ chôn tôi với cây đàn guitar…” Nếu không có cây đàn ấy, thì thật là điều đáng tiếc. Anh sẽ cô đơn biết chừng nào. Và tôi vẫn nghĩ, cuối cùng có lẽ cũng chẳng có gì gần gũi với anh hơn, thân thiết với anh hơn là cây đàn ấy. Cây đàn đã luôn luôn ở bên cạnh anh, bầu bạn cùng anh trong những tháng năm tươi đẹp, suốt những thời kỳ khốn khó, đã chia sớt cùng anh những niềm vui, nỗi buồn, những hạnh phúc, khổ đau. Chỉ có cây đàn ấy mới thực sự là người bạn đồng hành thân thiết nhất, thủy chung nhất đáng được anh mang theo trong những giây phút cuối của cuộc đời.
     Tôi nhớ trước đây có lần một người bạn hỏi tôi nhận xét thế nào về con người LUP, tôi đã trả lời, "Tay này có nội lực." Và đến bây giờ, đọc lại những gì anh viết, tôi càng tin là quả có một nội lực mạnh mẽ tiềm ẩn trong anh, trong cái dáng vẻ khiêm tốn, trong giọng nói nhỏ nhẹ, trong nụ cười hiền lành và trong ánh mắt đăm chiêu chứa đầy những sức sống mơ hồ. Anh mất đi ở cái tuổi vẫn còn gọi là trẻ đối với sức sáng tác của một nghệ sĩ, trong lúc nội lực vẫn còn sung mãn, tiềm tàng... Những ca khúc của anh đã đi vào lòng người, và đã ở lại lâu dài trong lòng người. Người nhạc sĩ nào có lẽ cũng chỉ mong đến được như vậy. Cái mất mát, thiệt thòi lớn nhất là từ nay người ta không còn được nghe anh hát nữa. Không còn tiếng hát LUP nữa. Vì nghe nhạc LUP là phải nghe chính anh, phải nghe bằng giọng hát của chính người nhạc sĩ đã viết nên những ca khúc ấy.
     Tôi viết bài này khi cái chết của anh đã tạm lắng xuống. Giờ này, linh hồn anh chắc đã bay về lại quê hương cũ, về lại thành phố "đầy mây trắng và sương mù", thành phố đầy ắp những kỷ niệm mà anh đã luôn ước ao được một lần nhìn ngắm lại bầu trời, nhìn ngắm lại từng cụm mây trắng lững lờ bay. Thành phố suốt đời mây bay đó, chứ không phải là thành phố Los Angeles hay bất cứ thành phố nào khác trên đất nước mà anh đã tạm sống trong những năm rời xa quê hương. Tâm hồn LUP là tâm hồn nặng trĩu những hồi tưởng, nặng trĩu những hoài niệm quá khứ, trái tim LUP là trái tim luôn háo hức tìm về một quê hương xa vời, có con sông xưa, có thành phố cũ.
     LUP, chàng nghệ sĩ "ôm đàn tới giữa đời". Anh đã tạt ngang qua cuộc đời này, đã bất ngờ biến mất khỏi cuộc đời này, đã từng tham dự vào những trò chơi tốt xấu, vui buồn lẫn lộn, đã rong chơi đây đó, đã có những năm sống sôi nổi, đã có những hạnh phúc ngắn ngủi, đã luôn luôn chống chọi với những cái xấu, luôn luôn khát khao làm được điều gì có ý nghĩa cho đời sống. Cùng với cây đàn ấy, anh đã góp mặt với cuộc đời, đã cất lên tiếng hát ca ngợi thương yêu. Trong những năm sống đó, dẫu có lúc phải đối đầu với những nghiệt ngã, những chua xót đắng cay, anh vẫn luôn giữ thái độ thản nhiên, vẫn cứ dửng dưng, chấp nhận, vẫn cứ ngồi ngất ngưởng "trên lưng cuộc đời, thách đố thương đau" (12). Thách đố thương đau, đó là LUP, đó là thái độ nhìn thẳng vào cuộc sống, đương đầu với thử thách, thách thức với số phận. Trên những dòng nhạc của anh, trên những trang viết của anh, chúng ta nghe được những nốt nhạc, đọc được những dòng chữ chứa chan tình yêu, ấm áp tình người, phát xuất từ một trái tim nhân ái, một tấm lòng nhân hậu, khoan dung và độ lượng.
     Lê Uyên Phương, anh là một nghệ sĩ đích thực.
Lê Hữu

(1) Không Có Mây Trên Thành Phố Los Angeles, truyện
(2) Âm Nhạc Từ Thiên Đường, truyện
(3) Cha, Con và Biển, truyện
(4) Ở New York, tùy bút
(5) Ca Khúc Của Những Tình Ca, tùy bút
(6) Hát Trong Quán Cà Phê, tùy bút
(7) Trên Những Biên Giới, tùy bút
(8) Ở Tây Bá Linh, tùy bút
(9) Vũng Lầy Của Chúng Ta, nhạc LUP
(10) Khi Xa Saigon, nhạc LUP (thơ Kim Tuấn)
(11) Tuổi Nhỏ, Những Cây Đàn Và Đà Lạt, tùy bút
(12) Hãy Ngồi Xuống Đây, nhạc LUP
--------------------------------------------------------
(Tạp chí Hợp Lưu, Calif., số 55, 10&11/2000)

Tô Thùy Yên - các sáng tác trên Sáng Tạo

$
0
0
20171113_IMG_2090

Giờ này có thể trời đang nắng 
Em rời thư viện đi rong chơi 
Dưới đôi vòm cây ủ yên tĩnh 
Viền dòng trời ngọc thạch len trôi ...

20171113_IMG_2103


Giờ này có thể trời đang mưa 
Em đi nép hàng hiên sướt mướt 
Nhìn bong bóng nước chạy trên hè 
Như những đoá hoa nở gấp rút 
Rồi có thể em vào một quán nước quen 
Nơi chúng ta thường hẹn gặp 
Buông tâm trí bập bềnh trên những đợt lao xao 
Giữa những đám ghế bàn quạnh quẽ ...



20171116_IMG_213320171116_IMG_213420171116_IMG_213520171116_IMG_213620171116_IMG_213720171116_IMG_213820171116_IMG_213920171116_IMG_214020171116_IMG_214120171116_IMG_214220171116_IMG_214320171116_IMG_214420171116_IMG_214520171116_IMG_214620171116_IMG_214720171116_IMG_214820171116_IMG_214920171116_IMG_215020171116_IMG_215120171116_IMG_215220171116_IMG_215320171116_IMG_215420171116_IMG_215520171116_IMG_215620171116_IMG_215720171116_IMG_215820171116_IMG_215920171116_IMG_216020171116_IMG_216120171116_IMG_216220171116_IMG_216320171116_IMG_216420171116_IMG_216520171116_IMG_216620171116_IMG_216720171116_IMG_216820171116_IMG_216920171116_IMG_217020171116_IMG_2171free website counter

Trần Cao Lĩnh - cuộc triển lãm chân dung 50 tác giả miền Nam(phỏng vấn trên Văn 10/6/1974)

$
0
0
Chân dung các nghệ sĩ / nhà văn trên bìa GIAI PHẨM VĂN - do TRẦN CAO LĨNH chụp 


Quyển NHỮNG TRUYỆN NGẮN HAY NHẤT CỦA QUÊ HƯƠNG CHÚNG TA (nhà xuất bản SÓNG ấn hàng 1974) với một "số phận" khá đặc biệt, đặc biệt đến từ cái tên và ý hướng của những người sản xuất  - ngay từ cái tên đã nói đến sự trân trọng của những người biên tập tập sách quý giá này. QUÊ HƯƠNG CHÚNG TA. Thân & thương lạ! Mà trong lời phi lộ bùi ngùi một cảnh tình khó giải bày, phần nào giải đáp được lí do trước 1975, VĂN HỌC là một phần đời, là một hơi thở, của đa số mọi người giai đoạn đó! Đây - “Đây là một trong những đóng góp một đời còn lại dành tặng quê hương trong cuộc chiến một phần tư thế kỷ hầu như đã phá vỡ gần hết tất cả gia tài nổi chìm của chúng ta. Sự đóng góp và cái gia sản tinh thần bất diệt của tổ tiên của những người làm việc trong lặng lẽ giữa tiếng ồn ào của đạn bom này, đã nói lên hùng hồn ý nghĩa của tranh đấu cho Tự Do và những giá trị Nhân Bản. Những người của phần đất bên này giòng Bến Hải.”


 Và theo nhà văn VIÊN LINHHai mươi năm Văn Học Miền Nam là một cụm từ định mệnh, năm 1973 đã có tới hai tập sách biên khảo dùng cụm từ này khi miền Nam còn tồn tại, một là nhà văn Nguyễn Đông Ngạc khi anh làm một bộ sách để đời - chữ này tôi dùng rất cân nhắc và thấy không có chữ nào đúng hơn: “Những Truyện Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương Chúng Ta, hai mươi năm văn học miền Nam 1954-1973,” Sóng xuất bản, và “Nhà Văn Miền Nam Hiện Đại, từ chia cắt 1954 đến ngưng bắn 1973,” do Cao Huy Khanh viết, Hiệp Phố in ấn; nhà xuất bản này do Viên Linh chủ trương, cuốn sách mới in tới trang 232 thì tất cả tan vỡ, nhưng 232 trang sách ấy vẫn còn nhớ đã đăng hết từng kỳ trên tạp chí Thời Tập, cũng của Viên Linh.

GIAI PHẨM VĂN số ngày 10/06/1974, một bài phỏng vấn rất đặc biệt với người-ảnh TRẦN CAO LĨNH xoay quanh những bức chân dung có-một-không-hai và vĩnh viễn là một-đằm-thắm-kỷ-niệm đối với những người yêu văn học miền Nam (những bức ảnh cho cuộc triển lãm "sắp tới" và vĩnh-viễn-không-bao-giời-tới ; những bức ảnh xuất hiện đầy "ám ảnh" trong tuyển tập trên) – trong đó nhiếp ảnh gia trần tình chia sẻ những câu chuyện rất thú vị về dự định, về góc nhìn trong nhiếp ảnh, về "chân dung" của những người bạn thiết, về dự án Saigon với nhà văn Mai Thảo,  đặc biệt những cảnh huống bất ngờ và thú vị đã cho ra đời chân dung của “những nhà văn hay nhất của quê hương chúng ta “ - và vĩnh viễn tạc vào lòng độc giả những ảnh hình, những không khí "nghe thấy kiếp xưa bước nhẹ về".

huyvespa@gmail.com

20171128_IMG_251020171128_IMG_250920171128_IMG_249920171128_IMG_250020171128_IMG_250020171128_IMG_250120171128_IMG_250220171128_IMG_250320171128_IMG_250420171128_IMG_250520171128_IMG_250620171128_IMG_250720171128_IMG_2508FullSizeRender (1)

Cả 2 bài giới thiệu về chân dung của những người một thời đã up trong những năm trước nhưng host photobucket bị down - nên nay post lại ở đây
http://huyvespa.blogspot.com/2013/11/nhung-truyen-ngan-hay-nhat-cua-que.html
http://huyvespa.blogspot.com/2011/08/nhung-truyen-ngan-hay-nhat-cua-que.html

clip_image002
clip_image003clip_image004
clip_image005clip_image006
clip_image007clip_image008
clip_image009
clip_image010
clip_image011
clip_image012
clip_image013
clip_image014
clip_image015
clip_image016
clip_image017
clip_image018
clip_image019
clip_image020
clip_image021
clip_image022
clip_image023
clip_image024
clip_image025
clip_image026
clip_image027
clip_image028
clip_image029
clip_image030
clip_image031
clip_image032
clip_image033
clip_image035clip_image034
clip_image036
clip_image037
clip_image038
clip_image039
clip_image040



DSCN0280website counter

Noel 2017 - Nhận Văn hải-ngoại thời-Mai-Thảo & trao đi...Tuổi Ngọc Noel 1974

$
0
0
Tạp chí Văn - như một chứng nhân 20 năm huy hoàng một nền văn chương khai phóng và nhân bản, rồi hồng-thủy, rồi phần-thư, rồi thuyền-nhân, rồi biển-ngoài, rồi xiển-dương, rồi gầy-dựng, rồi cũng (vẫn chỉ là) một-Mai-Thảo bên bàn viết lữ thứ...rồi cũng quá-vãng...
Rồi ngược-dòng, chút-quà-cho-quê-hương, chúng-ta-VỀ-mang-theo-quê-hương, 

Lạ thay, những quyển Văn rạng rỡ như những đoá hoa hái xuống từ một cơn mơ mùa Vọng, những trang báo còn thơm mùi mực mới, những bích hoạ còn rạng rỡ như mới vừa trở giấc từ một chuyến xe của một thư ấn quán nào đó nằm cách xa Việt Nam nửa vòng trái đất, những trang bìa chỉ tuyền là tên các tác giả…nằm im ngoan mà nghe như rung rức một cảm hoài khó tả. Công khó gìn giữ và hào phóng trao tặng của nhà văn Hồ Đình Nghiêm – từ Mộng Lệ An (Montréal) gửi về Hoa Thịnh Đốn …và từ đó, một chuyến phiêu du “ghé bến Sài Gòn” trong những ngày cận kề Gíang Sinh, mang về theo biết bao là êm ái của những kỷ niệm rất Việt-Nam...mà dường như những dưỡng-chất Việt-Nam này đã từ lâu nhạt-phai trên chính bản xứ...

"Gởi em mang đi màu hoa phượng vỹ
Nhạc thông Cam Ly, mùa mưa ở Huế
Chiều Nha Trang, sóng lụa vàng
Rối gót tình nhân
Gởi em mang đi vài câu Vọng Cổ
Bài ca Nam Ai, nhạc xang xự líu
Lời ca dao hơi đàn bầu
Se thắt lòng sầu..."

(Gửi em hành lý - Trầm Tử Thiêng)

Nhờ "gửi em hành lý" mà chút-mộng-ước-cuồng-ảo giữ chút gì xứ Việt đi em... còn đó để mà ấp ôm, để còn đó mang (trả) về cố quốc ...một (ảnh hình) quê hương thu nhỏ ... để trả lời cho nhà văn Duyên Anh : "làm sao mà quên được!": "...mùi hoàng lan đêm xuân", mùi "hương cau, thông vàng, bụi phấn/Dậu hoàng cúc thu dạt dào mình nỗi xưa"
Cũng như những mơ ước an bình nhỏ nhoi trong đời sống bây giờ - lạ thay - chỉ còn có thể tìm lại trong một cánh "thư xuân hải ngoại"
"Thư xuân từ ngàn phương
Mang nỗi lòng người tha phương
Ôm ấp tình hoài hương
Thư xuân là rượu cay
Tương tư rót tràn trên giấy
Bên trời đông tuyết say..."

(Thư xuân hải ngoại - Trầm Tử Thiêng)

huyvespa@gmail.com

P/s: Nếu anh/ chị/ các bạn..còn các số VĂN / HỢP LƯU ...không còn đọc nữa, xin liên hệ với huyvespa tại địa chỉ gmail trên.
Một lần nữa rất cám ơn nhà văn Hồ Đình Nghiêm với trao tặng rất quý này!

20171221_IMG_295420171221_IMG_295520171221_IMG_295620171221_IMG_295720171221_IMG_295820171221_IMG_295920171221_IMG_296020171221_IMG_2961
20171221_IMG_2952
Mùa Vọng 2017 Việt Nam - taken by huyvespa 
20171215_IMG_271820171217_IMG_2734FullSizeRenderIMG_0811IMG_2409IMG_2970

Và cũng là trao đi, những niềm hạnh phúc và duyên kỳ ngộ (nhiều lúc cũng rất ngộ) trong cuộc sống này ...

"Lạy Chúa con người không đạo

Nhưng tin có Chúa ở trên cao..."
(Trời chưa muốn sáng - Trần Thiện Thanh)

Như từ nháng vẫy của cái-gọi-là "tình cờ", những tro than tả tơi của những năm nào đó như tiền-kiếp rơi về từ/trên bơ vơ ...đậu lại đây..."trên đôi vai thanh xuân...ướp hôn nồng bên gối đắm say"...

Xin trao đi những áng văn thơ diễm tuyệt của một thời thơ-mộng-là-có-thật... 


20171220_IMG_2935FullSizeRender (1)FullSizeRender (2)


TUỔI NGỌC NOEL 1973 https://phayvan2009.files.wordpress.com/2017/10/tuoi-ngoc-123-noel-1973.pdf

VĂN NOEL 1974 https://tranhoaithux.files.wordpress.com/2012/12/van-gs-only-one-copy-full-for-blog.pdf

& TUỔI NGỌC NOEL 1974 

20171220_IMG_279720171220_IMG_279820171220_IMG_279920171220_IMG_280020171220_IMG_280120171220_IMG_280220171220_IMG_280320171220_IMG_280420171220_IMG_280520171220_IMG_280620171220_IMG_280720171220_IMG_280820171220_IMG_280920171220_IMG_281020171220_IMG_281120171220_IMG_281220171220_IMG_281320171220_IMG_281420171220_IMG_281520171220_IMG_281620171220_IMG_281720171220_IMG_281820171220_IMG_281920171220_IMG_282020171220_IMG_282120171220_IMG_282220171220_IMG_282320171220_IMG_282420171220_IMG_282520171220_IMG_282620171220_IMG_282720171220_IMG_282820171220_IMG_282920171220_IMG_283020171220_IMG_283120171220_IMG_283220171220_IMG_283320171220_IMG_283420171220_IMG_283520171220_IMG_283620171220_IMG_283720171220_IMG_283820171220_IMG_283920171220_IMG_284020171220_IMG_284120171220_IMG_284220171220_IMG_284320171220_IMG_284420171220_IMG_284520171220_IMG_284620171220_IMG_284720171220_IMG_284820171220_IMG_284920171220_IMG_285020171220_IMG_285120171220_IMG_285220171220_IMG_285320171220_IMG_285420171220_IMG_285520171220_IMG_285620171220_IMG_285720171220_IMG_285820171220_IMG_285920171220_IMG_286020171220_IMG_286120171220_IMG_286220171220_IMG_286320171220_IMG_286420171220_IMG_286520171220_IMG_286620171220_IMG_286720171220_IMG_286820171220_IMG_286920171220_IMG_287020171220_IMG_287120171220_IMG_287220171220_IMG_287320171220_IMG_287420171220_IMG_287520171220_IMG_287620171220_IMG_287720171220_IMG_287820171220_IMG_287920171220_IMG_288020171220_IMG_288120171220_IMG_288220171220_IMG_288320171220_IMG_288420171220_IMG_288620171220_IMG_288720171220_IMG_288820171220_IMG_288920171220_IMG_289020171220_IMG_2891



Trong số TUỔI NGỌC 1974 trên có bài thơ ĐÔI MẮT LINH HIỂN của nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên, lần đầu xuất hiện...Nhân tiện, post lại đây số TUỔI NGỌC có phỏng vấn gã-thi-sĩ-điên-si-tình-lãng-mạn này cùng chùm thơ của ông...20171220_IMG_289220171220_IMG_289320171220_IMG_289420171220_IMG_289520171220_IMG_289620171220_IMG_289820171220_IMG_289920171220_IMG_290020171220_IMG_290120171220_IMG_290220171220_IMG_2903hit counters

50 năm Tết Mậu Thân - Số Xuân tạp chí VẤN ĐỀ(Vũ Khắc Khoan - Mai Thảo)

$
0
0
Vấn Đề là tạp chí ra hàng tháng chuyên về chính trị, kinh tế,tài chánh, xã hội, văn học, nghệ thuật. Chủ nhiệm sáng lập:

Vũ công Trực , Chủ biên: Vũ Khắc Khoan, Thư Ký Tòa Sọan: Thanh Tâm Tuyền. Đến số 7, họa sĩ Duy Thanh thay Thanh Tâm Tuyền, và đến số 11, Mai Thảo thay Duy Thanh.
Trên trang bìa, ta đọc: chủ trương Vũ Khắc Khoan và Mai Thảo
Số ra mắt phát hành vào tháng 4-1967

Đến số 11, Mai Thảo làm thơ ký tòa sọan. Kể từ số này Vấn Đề có vẽ trở lại một hậu Sáng Tạo, nghiêng nặng về lĩnh vực văn hóa, ít thấy những bài chuyên môn như những số đầu.

Kể từ năm 1970, các tác giả trẻ hầu như chiếm thế thượng phong trên tạp chí Vấn Đề. Về thơ đăng nhiều nhất là Phạm
Cao Hoàng, Mường Mán, Kiệt Tấn, Phạm Thiên Thư... Vềvăn đăng nhiều nhất là Du Tử Lê, Ngụy Ngữ, Mang Viên Long, Trần Hoài Thư, Trần thị NGH, Từ Kế Tường...vân...vân..
Suốt 56 số, chỉ có số 52 bị tịch thu vì một truyện của Ngụy Ngữ.

Số cuối cùng là số 56, phát hành tháng 3-1972 sau 5 nămhiện diện trên văn đàn miền Nam. Không thấy VĐ nêu lý do tại sao đình bản?!?

Nhìn vào Mục lục Số 1, ta có thể nhận ra những tên tuổi rấtquen thuộc từ thời Sáng Tạo và Giao Điểm.
Riêng trong mục Ngoài Lề, trong bài: Tạo một không khí mới cho Văn học, Vấn Đề kêu gọi chánh quyên nên xét lạiviệc kiểm duyệt văn học:

“Gần đây Thiếu tướng Kỳ đã tuyên bố bỏ kiểm duyệt báo chí trừ những tin tức liên quan đến Quốc phòng và Kinh tế.
Nếu đã bỏ phần nào kiểm duyệt cho báo chí thí tất có thể bỏkiểm duyệt cho các tác phẩm văn học...Vì so với báo chí, tác
phẩm văn học phổ biến giới hạn, ảnh hưởng tác độc về chínhtrị trong quần chúng không đáng kể (...) Nhưng trái lại nócó tác động vào một thành phần nhất định nào đó và gây ảnh hưởng ngầm bền bỉ về sau. Cho nên bỏ kiểm duyệt văn
học là đường lối chính trị sáng suốt biết lo lắng cho tương lai..."
Đặc biệt số báo 21 có đăng một truyện ngắn của Hoàng Ngọc Tuấn: Hình Như Là Tình Yêu mà sau này tác giả dùnglàm nhan đề cho một tập truyện và đã mang tên tuổi Hoàng Ngọc Tuấn sáng chói trên văn đàn.

Riêng về tác giả cọng tác, vẫn là những tên tuổi quen thuộc từ Văn, Bách Khoa, Khởi Hành, Sáng Tạo. Chỉ có một tên  tuổi mới xuất hiện. Đó là Trần thị NGH. với truyện ngắn Chủ Nhật, như mở đầu cho một ngòi viết nữ sung mãn, vàsau này, rất quen thuộc trong văn đàn miền Nam.

Nhìn chung ta thấy Vấn Đề không thực hiện được những điều mà tạp chí hằng ấp ủ: dùng tư tưởng và ngôn ngữ làm khí giới (giáo đầu số 1). Nó không giống như Bách Khoa, với những mục chính trị, kinh tế, tài chánh, xã hội thưởng xuyên. 
Thỉnh thoảng chỉ có một vài bài biên khảo, hay nhận đinh thời cuộc, đăng rời rạc, không gây chú ý hay tác động sâu rộng vào quần chúng, xã hội bấy giờ.

Sự thất bại này được xác nhận trong bài “ một lá thư một vấn đề” ở số 44, sau khi VĐ nhận 3 lá thư của một ngườilính đang tham dự cuộc hành quân Lam Sơn tại Hạ Lào.
Trong bài trả lời, nhóm chủ trương cho biết “có thể tất cả cốgắng khám phá sưu tầm của chúng ta sẽ chỉ dẫn đến những
điều không tưởng” (một lá thư, một vấn đề, tạp chí Vấn Đềsố 49 tháng 8-1971)

Mặc dù không thực hiện được những điều đã đề ra, nhưng Vấn Đề đã chứng tỏ là tờ tạp chí có chất lượng cao về bài vở
văn thơ, qui tụ những cây bút khá quen thuộc , mở cửa dung nạp những khuynh hướng dị biệt, nhất là tôn trọng sự
tự do trong sáng tác, biết lắng nghe tiếng nói của tuổi trẻ và độc giả (qua mục thư từ bạn đọc)...


(Thư Quán Bản Thảo số 63 - năm 2015)
Sau đây, để tưởng niệm nửa thế kỷ một mùa xuân bi thảm của dân tộc, mời mọi người đọc lại số XUÂN VẤN ĐỀ 1968 - và theo sau là 2 số báo liền kề ra sau đó ...3 tháng vì biến cố Tết MẬU THÂN để đọc lại HUẾ CẢM của VŨ HOÀNG CHƯƠNG...






20180116_IMG_355320180116_IMG_355420180116_IMG_355520180116_IMG_355620180116_IMG_355720180116_IMG_355820180116_IMG_355920180116_IMG_356020180116_IMG_356120180116_IMG_356220180116_IMG_356320180116_IMG_356420180116_IMG_356520180116_IMG_356620180116_IMG_356720180116_IMG_356820180116_IMG_356920180116_IMG_357020180116_IMG_357120180116_IMG_357220180116_IMG_357320180116_IMG_357420180116_IMG_357520180116_IMG_357620180116_IMG_357720180116_IMG_357820180116_IMG_357920180116_IMG_358020180116_IMG_358120180116_IMG_358220180116_IMG_358320180116_IMG_358420180116_IMG_358520180116_IMG_358620180116_IMG_358720180116_IMG_358820180116_IMG_358920180116_IMG_359020180116_IMG_359120180116_IMG_359220180116_IMG_359320180116_IMG_359420180116_IMG_359520180116_IMG_359620180116_IMG_359720180116_IMG_359820180116_IMG_359920180116_IMG_360020180116_IMG_360120180116_IMG_360220180116_IMG_360320180116_IMG_360420180116_IMG_360520180116_IMG_360620180116_IMG_360720180116_IMG_360820180116_IMG_360920180116_IMG_361020180116_IMG_361120180116_IMG_361220180116_IMG_361320180116_IMG_361420180116_IMG_361520180116_IMG_361620180116_IMG_361720180116_IMG_361820180116_IMG_361920180116_IMG_362020180116_IMG_362120180116_IMG_362220180116_IMG_362320180116_IMG_362420180116_IMG_362520180116_IMG_362620180116_IMG_362720180116_IMG_362920180116_IMG_363020180116_IMG_363120180116_IMG_363220180116_IMG_363320180116_IMG_3634web page counters

50 năm Tết Mậu Thân Huế - "ai giải oan ai sử nợ này?"

$
0
0
Vì sao là Huế? Huế thất thủ kinh thành cho đến Huế Mậu Thân...Huế tan nát, Huế người âm sống cùng người dương...


... Người ta bảo... Chỉ có ở Huế mới thấy trước mỗi nhà đều có cái am nhỏ, lưng quay ra phía ngoài, dành để thờ cúng những hương hồn oan khiên tử nạn…
.. Người ta bảo ...Chỉ có ở Huế, ngày Tết ... Dân chúng qua giỗ nhà hàng xóm, rồi vội vã trở về nhà làm giỗ cho người thân của mình . Vì quá nhiều người ở Huế có chung ngày giỗ ...
Huế 1967 với những dự cảm chẳng lành, Huế với niềm im lặng đáng sợ rờn rợn lòng người, Huế xô đẩy người đi, Huế giam cầm chính mình trong “đêm sâu với một tiếng chuông chùa bỗng nhiên vang động”, Huế bí ẩn “do lời phán từ khoảng không” trong “lý giải” của Lý Hoàng Phong …

Huế thâm trầm hư tưởng với một “Định Mệnh khốc liệt đang đón ta” trong những ý nghĩ rời từ Thanh Tâm Tuyền…

Huế 1968 – Cơn Mê Chiều… với tiếng Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát không dứt trong “Vùng Bất An” (Nguyễn Thị Hoàng)

Bắt đầu từ rạng sáng ngày 31 tháng 1 năm 1968, tức là đêm Giao Thừa chuẩn bị cho Tết Mậu Thân, đến ngày 22 tháng 2 năm 1968, hơn 7600 thường dân bị chết hay mất tích. Huế chìm trong khói lửa. Huế mịt mù trong màu khói tang nghi ngút. Nhạc sĩ NGUYÊN (không phải Nguyễn) Minh Khôi (Tên thật là Vĩnh Khôi. Pháp danh (Phật giáo) là Nguyên Minh. Nên lấy nghệ danh là : Nguyên Minh Khôi – theo lời bổ túc của con NS) đã viết lại những điều này, một cách thật chua chát
 “Chiều nay không có em, mưa non cao về dưới ngàn 
Đàn con nay lớn khôn, mang gươm đao vào xóm làng”



“Cơn Mê Chiều” là một ca khúc viết về Huế với đầy đủ những địa danh quen thuộc. Những cái tên rất thân thương và lẽ ra phải mang cho người nghe một cảm giác lãng mạn và thơ mộng. Đây là Nam Giao, là Thành Nội, là cầu Tràng Tiền bắc qua dòng Hương Giang lững lờ trôi. Kia là đồi Ngự Bình, là Kim Long, là những con đường đã từng vẽ nên một thành Huế thơ mộng trong lòng dân Việt. Nhưng Huế trong “Cơn Mê Chiều” là Huế của tang thương, và khói lửa. Nó như một cuốn phim về chiến tranh mà không có một tiếng súng hay tiếng bom đạn nào. Thậm chí, không có một âm thanh nào. Ngay cả tiếng chuông chùa cũng đã tắt!...”

Huế 1969 – Với ngày tháng giờ chỉ còn là “Ngày, tháng rời…” (Dương Nghiễm Mậu)

Đọc lại những ký ức buồn về một thành phố đẹp nhưng chịu nhiều oan khiên như cách mà Nguyên Minh Khôi đã kết thúc bài hát của mình… chỉ mong xoá (vơi) đi đau thương...

“Tôi là người trong đêm, mang ngọn đuốc về nội thành 
Xin làm người soi đường đi xoá hết đau thương 

Và người ơi xin chớ quên, người ơi xin chớ quên…”


“Xoá hết đau thương”… và cầu cho những linh hồn dân Việt siêu thoát và rồi một ngày sẽ có câu trả lời “ai giải oan ai sử nợ này?”

Note thêm về tác giả CƠN MÊ CHIỀU (theo facebook của Huỳnh Ngọc Chênh)

NHÀ GIÁO VĨNH KHÔI VÀ CƠN MÊ CHIỀU


Sau tết Mậu Thân 1968, một chàng trai Huế trở lại thành phố tan hoang tìm không thấy người yêu của mình đâu. Người con gái Huế trong trắng xinh đẹp đã chết mất xác như hàng ngàn người dân Huế vô tội khác. Chàng trai đó làm bài hát "Cơn Mê Chiều"để than khóc người yêu.

Ngay sau đó bài hát được phổ biến rộng khắp miền Nam bởi nhiều giọng ca nổi tiếng.


Thời gian sáng tác hai nhạc phẩm Cơn mê chiều , Huế mù sương Vĩnh Khôi đang dạy Anh văn và Triết tại trường Hàm Nghi .Huế , ký tên Nguyên Minh Khôi. Nguyên Minh là tên pháp danh và cũng là tên tiệm may ở đường Phan Bội Châu (là Phan Đăng Lưu) nơi gia đình ở thời gian đó. Vĩnh Khôi còn phụ trách văn nghệ,báo chí của trường, trong đó có hai đặc san Về nguồn,Ra khơi...trước khi đổi vào Đà Nẵng.


huyvespa@gmail.com

IMG_3963IMG_3964IMG_3965IMG_3966IMG_3967IMG_3968IMG_3969IMG_3970IMG_3971IMG_3972IMG_3973IMG_3974

PHƯỢNG TRONG THÀNH NỘI
IMG_3985



IMG_3975


IMG_3977IMG_3978IMG_3979IMG_3980IMG_3981IMG_3982IMG_3983IMG_3984IMG_3986IMG_3987IMG_3988IMG_3989IMG_3990IMG_3991

IMG_3994


huyhuy

IMG_5727IMG_5728IMG_5729IMG_5730IMG_5731IMG_5732IMG_5733IMG_5734IMG_5735IMG_5736IMG_5737IMG_5738IMG_5739IMG_5740IMG_5741IMG_5742IMG_5743IMG_5744IMG_5745IMG_5746IMG_5747IMG_5748IMG_5749IMG_5750IMG_5751



web counter

Sáng Dội Miền Nam & Tổng thống Ngô Đình Diệm

$
0
0
Một cuộc triển lãm và nhìn nhận khá “trung lập” về TT. Ngô Đình Diệm. Ít nhất không còn là hình ảnh “Diệm lê máy chém đi khắp miền Nam” nữa mà là một hình ảnh “chính thống” hơn với các facts & figures - với sự sắp xếp his-story hợp lí, những hiện vật, cách trưng bày, tương tác, video , visual ... khá hiện đại & thu hút ...
Có 1 số chi tiết trong cuộc triển lãm được “giải ảo” như tờ Sáng Dội Miền Nam ... xuất hiện đường hoàng trước công chúng sau 1975 ...
Được biết ý tưởng cho cuộc triển lãm này đến từ TS. Edward Miller là người viết cuốn Liên Minh Sai Lầm (Misalliance), chuyên gia về TT. Ngô Đình Diệm. 

Bravo cho những ai khác “behind-the-scene” mang đến 1 khu triển lãm có tâm như vậy!
“Từ dinh Norodom đến dinh Độc Lập 1868 - 1966" mở cửa cho khách tham quan miễn phí từ ngày 10-3 đến ngày 23 tại Dinh Độc Lập (mặt Nguyễn Du) - dự tính kéo dài... 3 năm.
Dĩ nhiên mục đích không phải là “Suy tôn Ngô Tổng Thống” song với lực lượng hùng hậu giới trẻ đến với cuộc triển lãm này hy vọng mọi người sẽ bình tâm ngồi lại tìm hiểu thêm & nhìn nhận lại...vị trí của Tổng thống Đệ Nhất Cộng Hoà với tâm tư, chí khí của một chí sĩ luôn đau đáu cho vận mệnh của một Sáng Dội Miền Nam.


IMG_0713IMG_0720IMG_0721IMG_0724IMG_0730IMG_0732IMG_0746IMG_0749IMG_0722IMG_0723IMG_0725IMG_0726IMG_0727IMG_0728IMG_0730IMG_0731IMG_0735IMG_0740IMG_0741IMG_0742IMG_0743IMG_0744IMG_0745IMG_0746IMG_0748

Bổ túc một số hình ảnh tư liệu cho cuộc triển lãm ở Dinh Độc Lập từ mục điểm tin hàng tháng của tạp chí SÁNG DỘI MIỀN NAM. Đời của TT Ngô Đình Diệm, đến lúc này, có thể được “đối xử” bằng câu tuyên ngôn của người-đương-thời nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam “Đời tôi để lịch sử xử!”
Sáng Dội Miền Nam – tờ báo in ấn rất đẹp, nhiều bài viết giá trị, nhất là về mảng kiến trúc, thơ (Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương…) – nhạc (Phạm Duy…) – với chủ nhiệm là kiến trúc sư Võ Đức Diên (1 trong 2 KTS làm ra tác phẩm Nhà Thuỷ Tạ, toạ lạc bên hồ Hoàn Kiếm (thiết kế năm 1937), cho đến nay vẫn là một tác phẩm kiến trúc đẹp của Hà Nội)
Trường ca CON ĐƯỜNG CÁI QUAN của Nhạc sĩ Phạm Duy cũng lần đầu tiên xuất hiện trên tạp chí này.
P/s: Một vài chi tiết từ HỒI KÝ PHẠM DUY về bài trường ca, tờ báo và người chủ nhiệm này :
“Trong thời thịnh trị của họ Ngô, ngoài anh Quỳnh ra, tôi có Võ Đức Diên là người giúp tôi rất nhiều. Là công chức cao cấp của Nha Kiến Thiết, vì được lòng ông bà Ngô Đình Nhu trong việc trang hoàng các dinh thự lớn, kiến trúc sư họ Võ được chế độ tin cậy. Anh Diên là người có thành tích văn nghệ với đoàn ca kịch ANH VŨ trước đây, đã từng dựng những vở ca kịch của Lưu Hữu Phước -- với libretto của Thế Lữ - - như Con Thỏ Ngọc hay Tục Lụy (đáng lẽ Thái Hằng đóng vai Nhã Tiên nhưng bố mẹ không cho phép). Cũng như anh Quỳnh, Võ Đức Diên được coi là lão tướng trong làng văn nghệ miền Nam nên khi anh vận động ông Nhu để làm một tập san và mở một phòng trà thì anh được thoả mãn ngay. Tờ báo được đặt tên là SÁNG DỘI MIỀN NAM, toà soạn là nhà của hoạ sĩ trang trí Văn Thanh. Được anh Diên mời viết về âm nhạc, tôi hay lui tới toà soạn và được hân hạnh ''chơi'' với các bậc đàn anh như Vi Huyền Đắc, Lê Văn Siêu, Vũ Hoàng Chương, Tam Ích... Tổ sư của Thoại Kịch họ Vi đã già rồi mà nói chuyện rất có duyên. Nhà văn hoá Lê Văn Siêu mua được mảnh vườn ở xa lộ Biên Hoà và về đó sống, được chúng tôi gọi là Lý Trưởng. Đây là lúc tôi muốn hoàn tất trường ca CON ĐƯỜNG CÁI QUAN. Khi tôi ngỏ lời được giúp đỡ để có thể đi từ Saigon ra Quảng Trị, lấy cảm hứng soạn nốt phần còn lại của trường ca thì anh Diên đồng ý ngay. Và anh cùng đi với tôi, còn kéo thêm 5 người đi theo nữa. Thế là có ngay một chuyến đi xuyên Việt của bẩy lữ khách là : chủ báo Võ Đức Diên, hai hoạ sĩ của tờ báo Tạ Tỵ, Văn Thanh, nhiếp ảnh viên Phùng Trực, tôi và hai ngôi sao rực rỡ của Khoa Tử Vi, Địa Lý Dương Thái Ban và ''Thầy'' Diễn. Tại sao lại có hai nhà tiên tri này cùng đi xuyên Việt ? Thưa đó là vì anh Diên muốn đãi ngộ hai ông thầy ạ. Anh Diên rất tin tướng số, và quen với các ông thầy nổi danh ở Saigon. Nghe lời Thầy Diễn, anh luôn luôn mặc áo mầu đen để đánh lừa Thần Chết. Vậy mà anh đột nhiên ra đi giữa lúc đang khoẻ mạnh. Khi nghe tin anh qua đời đột ngột, tôi hơi tin vào tử vi hay tướng số, chứ trong khi đi chơi trên đường cái quan này, tôi và Tạ Tỵ luôn luôn châm chọc hai vị mà chúng tôi gọi là ''thầy bói sáng''. Lần đi đường thiên lý này có vẻ thú vị hơn những lần trước. Tôi không còn là lữ khách lầm lũi trong thời nô lệ hay hấp tấp trong thời chiến tranh. Hai xe hơi đưa chúng tôi đi ven bờ biển Thái Bình, vượt qua những nơi đầy ắp kỷ niệm như Phan Thiết sáng sủa, Nha Trang ấm áp, Qui Nhơn lộng gió, Đà Nẵng ồn ào, Huế thơ mộng và Quảng Trị cằn khô. Khi ghé Quảng Ngãi, Hồng Vân (nữ ca sĩ ) lúc đó còn bé tí teo, leo lên bờ tường khách sạn, ngồi rình xem mặt Phạm Duy. Chúng tôi có những giây phút trầm ngâm trước cảnh tượng hùng vĩ của Đèo Cả, Đèo Hải Vân và cũng không quên nhào xuống biển để tắm táp và kỳ cọ (như hai ông thầy) ở bãi Lăng Cô. Bản CON ĐƯỜNG CÁI QUAN -- soạn xong phần đầu ở Paris năm 54 để phản đối ngay lập tức sự chia cắt đất nước -- sau sáu năm bỏ dở, bây giờ nhờ chuyến đi rất thanh bình này, được hoàn tất nhanh chóng. Trong khung cảnh trời cao biển rộng đường dài, trong hoàn cảnh chung của nước Việt trong thời kỳ đầu của nền độc lập, trong niềm hạnh phúc được tự do sáng tác của riêng mình... tôi có nhiều hứng khởi để diễn tả con đường mạch máu của đất nước và tấm lòng khao khát thống nhất của người dân Việt. Những ca khúc mạnh mẽ trong phần MIỀN BẮC diễn tả sự hào hùng của người đi khai sơn phá thạch. Trong phần MIỀN TRUNG, ca khúc trở nên ngọt ngào, đôi khi xót xa như bước chân Huyền Trân Công Chúa. Phần MIỀN NAM rất hoan lạc vì đó là những bước chân thành đạt của lữ khách để cùng toàn dân hoàn thành nước Việt. Trường ca ra đời xuôi xả vì còn có sự khuyến khích của bạn bè, nhất là có sự giúp đỡ thực tế của anh Võ Đức Diên. Chắc chắn bên trên anh Diên, có sự đồng ý của ông Ngô Đình Nhu (và Trần Kim Tuyến). Anh tôi là Phạm Duy Khiêm làm Bộ Trưởng và Đại Sứ cho ông Diệm, Võ Lăng là bạn thân của tôi, nhất là tôi đã khá nổi tiếng trong quần chúng rồi, hồi bấy giờ, tôi được nhà Ngô để ý. Đã có lần tôi được ông Diệm, ông Nhu thân mật hỏi han tôi trên sân cỏ của Dinh Độc Lập vào một buổi tiếp tân và sau đó, nếu ''sì căng đan'' về tình không xẩy ra, tôi có thể là người được chính quyền giao cho một chức vụ nào rồi. Tôi không dám nói là tôi sẽ nhận việc hay từ chối, nhưng vào thời Thanh Niên Cộng Hoà được thành lập, tôi được mời vào Dinh Độc Lập để dạy hát cho cô Ngô Đình Lệ Thủy, một đoàn viên của đoàn Thanh Nữ Cộng Hoà. Chao ôi, sao mà cô con gái của ông bà Nhu lại đẹp đến thế. Và than ôi, sao cô lại chết non như vậy. Chết vì nạn xe hơi ở Pháp sau 1963. Ngoài tờ báo ra, anh Diên được ông Nhu giúp đỡ để mở Quán ANH VŨ tại đường Bùi Viện. Tôi được giao việc điều khiển phần văn nghệ. Thế là mỗi tối, tôi được sống với không khí rạp hát và phòng trà, đôn đốc các nhạc sĩ, ca sĩ hay ra hát những bài vừa mới soạn ra.
Sau khi hoàn thành, CON ĐƯỜNG CÁI QUAN được đăng trên SÁNG DỘI MIỀN NAM rồi được trình diễn tại quán ANH VŨ. Cố Vấn Ngô Đình Nhu đem cả gia đình tới nghe. Sau đó, qua ông Ngô Trọng Hiếu, trường ca còn có một ngân sách để tái lập giàn nhạc hoà tấu và mời nhạc sĩ người Đức Otto Soellner làm hoà âm phối khí. Có thêm những buổi trình diễn tại Saigon, Dalat, Nha Trang. Tất của những giọng hát tốt nhất của Saigon được huy động để đi trình diễn trường ca này…”




IMG_0871IMG_0872IMG_0873IMG_0874IMG_0875IMG_0876IMG_0877IMG_0878IMG_0879IMG_0880IMG_0881IMG_0882IMG_0883IMG_0884IMG_0885IMG_0886IMG_0887IMG_0888IMG_0889IMG_0890IMG_0891IMG_0892IMG_0894IMG_0895IMG_0896IMG_0897IMG_0898IMG_0899IMG_0900IMG_0901IMG_0902IMG_0903IMG_0904IMG_0905IMG_0906IMG_0907IMG_0908IMG_0909IMG_0910IMG_0912IMG_0913IMG_0914IMG_0915IMG_0916IMG_0979IMG_1026IMG_1027IMG_1028IMG_1029
Viewing all 110 articles
Browse latest View live