Quantcast
Channel: What goes around comes around..
Viewing all 110 articles
Browse latest View live

THANH TÂM TUYỀN trên KHỞI HÀNH (series ÂM BẢN & scandal về giải Thơ năm 1971)

$
0
0
PHẠM CÔNG THIỆN (& LÊ UYÊN PHƯƠNG) trên KHỞI HÀNH

Mỗi tuần một khuôn mặt văn chương - series trên tuần báo KHỞI HÀNH

Sơ thảo 15 năm văn xuôi miền Nam (1955-1970) (Cao Huy Khanh viết trên KHỞI HÀNH)

MAI THẢO - tùy bút trên KHỞI HÀNH


Tài liệu của trang huyvespa: ÂM BẢN series & 
ý kiến của THANH TÂM TUYỀN về giải thơ năm 1971
(vui lòng ghi source khi sử dụng)

ÂM BẢN version 1 khởi đăng số 52( thứ năm,  7/5/1970) - số 65 (thứ 5, 6/8/1970) (thiếu vài số sau số này nên không biết có chính xác kết thúc ở số 65 không?!?)

ÂM BẢN version 2 khởi đăng sau đó 2 tháng (bên dưới)

IMG_3675IMG_3676IMG_3677IMG_3678IMG_3679IMG_3680IMG_3681IMG_3682

ÂM BẢN version 2 - khởi đăng từ số 73 (1/10/1970)

IMG_3685IMG_3686IMG_3687



IMG_3688



ý kiến của THANH TÂM TUYỀN về giải thơ năm 1971

IMG_3689IMG_3690IMG_3691

‪#‎đichohết1đêmhoangvutrênmặtđất‬ Sapa - Tả Van - Lử Thẩn - Simacai - Nàm Ma - Hoàng Su Phì - Sán Sả Hồ - Đồng Văn - Mèo Vạc - Mộc Châu - Ninh Bình

$
0
0



‪#‎đichohết1đêmhoangvutrênmặtđất‬ ‪#‎đichocạntrờiđấtxótxa‬ smile emoticon
Sapa - Tả Van - Lử Thẩn - Simacai - Nàm Ma - Hoàng Su Phì - Sán Sả Hồ - Đồng Văn - Mèo Vạc
‪#‎Sapa‬ ‪#‎Vietnam‬ ‪#‎onthemove‬ ‪#‎wanderlust‬















Núi ngước nhìn bằng muôn nghìn vực lạnh…
Những đỉnh hoang liêu. Lũng . Muôn đời. Ngất ngưỡng. Hun hút…
Buổi chiều của những sương mù và gió rừng rét mướt như thể mang linh hồn biển… “Nghe giữa hồn cây cỏ mọc hoang vu”.
Tây Bắc gió thổi tràn lòng Saigon lữ khách, bên trên con vực này, bằn bặt giấc thiếp cũng đủ lãng quên đời…
“Rừng ơi xanh hoài mái tóc dùm tôi…”








"Qua bao con đường, qua bao phố phường lê mòn gót chân
Chim muôn bên rừng chờ mình về đón mừng
Môi khô em tròn đợi từng giọt sữa non
Dừng bên suối rồi rừng trưa nắng ngừng trôi..."
(Uống nước bên bờ suối - Lê Uyên Phương)
‪#‎đichohết1đêmhoangvutrênmặtđất‬
"Tôi đi xem để thấy những gì yêu dấu ‪#‎vietnam‬..."
...thấy lúa vàng trên núi xanh...
...thấy nắng chiều trên mái tranh...
...thấy sương lam trên dốc quanh...
...thấy gió hồng trong lũng xanh...
#đichohết1đêmhoangvutrênmặtđất
"Gió cuốn theo chiều xuống qua bao đồi nương
Nắng úa trên ngàn lá khi ánh chiều buông
Khói sáng vương đồi núi lan trong chiều sương
Thấp thoáng trong làn khói bóng ai dừng chân..."
(Chiều lên bản Thượng - Lê Dinh)


"Lãng du khắp nơi...anh với em cùng lênh đênh quên tháng ngày..."(Lãng Du/ L'aventura)
"Ôi lãng du nhìn mây trắng vuốt tóc giang hồ
Tìm ân ái bên câu ca dao trời
Lãng du ơi...chờ ta xé nát u mê trong loài người..." (Lãng du ca - Trần Quang Lộc)
"Đường bước cùng thời thế. Đường đi theo đời người. Mỗi dặm biếc là một đánh dấu, mỗi dặm hồng là một chứng tích, ở đó đã biểu hiện đằm thắm và đau đớn rực rỡ những dấu chân ta và những khởi hành ta. Nói đến những con đường Việt Nam, nói làm sao hết chuyện của những cây cột trắng. Kể chuyện những đời đường đất nước, kể làm sao hết tâm sự của sỏi, linh hồn của đá. Đường có máu chảy và có tim đập. Đường có tiếng nói và có sống chết. Những con đường rất già, những con đường thật trẻ, đi từ những bình minh anh đi tới những hoàng hôn tôi, đó là những con đường Việt Nam....
Con đường nào là con đường dài thẳm nhất. Chân bước về phía tả hay chân đi về phía hữu. Những tên đường đã có, đã mất, đã lỡ và đã lạc. Đi cho chân cứng đá mềm. Đi cho trời yên bể lặng. Hành trang nào và lúc nào là giờ hoàng đạo. Những con đường riêng, kín thầm, nhỏ nhỏ. Những con đường chung, bát ngát mênh mông..."
(Mai Thảo)




















Mộng ở đầu cây mơ lá cây
Dòng sông ngừng chảy đợi mây bay
Kêu nhau nhỏ nhẹ sầu năm ấy
Chim hải hồ bay trắng tháng ngày
...
Chiều hôm băng qua cầu
Phố xưa buồn phong châu
Phù đồ trôi mấy kiếp
Mây trắng nõn trên đầu ...
(PCT)


"Bàn chân nhớ đất 
Lệ buồn nhớ mi..."



















Đường em có đi hằng đêm gót hoa nở những đoá thơ ôi dị kỳ...
Đường êm có khi chờ em bước qua là nghiêng giấc mơ ước thề..." (PD)
‪#‎mocchau‬ ‪#‎sonla‬ ‪#‎onthemove‬ ‪#‎wanderlust‬‪#‎đichohết1đêmhoangvutrênmặtđất‬



Còn ở lại một ngày còn yêu mãi 
Còn một đêm còn thở dưới trăng sao 
Thì cánh mộng còn tung lên không ngại 
Níu trời xanh tay với kiễng chân cao...
(Phụng Hiến - Bùi Giáng)








Đã đi rồi đã đi chưa
Thượng phương lụa trắng đong đưa giữa trời
Đã đi mất hẳn đi rồi
Hạ phương tịch mịch trùng khơi phong kiều...
(Phạm Công Thiện)
‪#‎ninhbinh‬ ‪#‎onthemove‬ ‪#‎wanderlust‬ ‪#‎đichohết1đêmhoangvutrênmặtđất‬













dAlAt - "Cùng rót bao nhiêu ngày hoang/ Cùng đếm bao nhiêu mộng tàn.."

$
0
0


‪#‎đichohết1đêmhoangvutrênmặtđất‬

Mắc giữa hai cây cành một điệu boston. Rồi bằn bặt giấc thiếp.

Căn nhà màu tím . Lũ lũ diệp lục trườn bò khắp trên ngọn đồi sầu hoang.

Một lắng đọng chìm...chìm xuống giữa những bạt ngàn gió núi đơn côi...chìm sâu hơn lũng thấp…
Dưới lũng, một cánh bướm ngơ ngác bay lạc trong nắng... Một đóa quỳ vàng nở ra như từ vạn đại, một con ong chết trầm mặc trong lòng nhụy như từ ngàn kiếp sau…

Xao xác từ căn phòng trên cây là mênh mông phù ảo những cung điệu…Sang Ngang còn nhiều tình khúc "đổ lệ" khác…Và bây giờ, ám ảnh trong rung rẩy giọng tình âm tính cùa nam ca sĩ Tuấn Anh là "Rồi em cũng bỏ tôi đi"...

“Lùa cơn nắng say vào đôi cánh tay
Lùa cơn gió lên vào đôi môi mềm thấy lòng bồi hồi…”
Ngước lên…

Lá đổ xuống thành một dòng thác nhỏ. Mưa của lá mang theo mùi hương xa ngái. Phải chăng là mùi của một lặng im thông Cam Ly một-chiều-nào-chúng-ta, một ngọt quyện hồng Trại Mát đến-và-đi-phiêu-du-như-gió, một thơm-như-môi-hồng đào hồ Tuyền Lâm của mùa xuân nào phôi pha, và cả bàng hoàng sương nữa, sương sớm Suối Vàng hoặc những giọt lệ đầu ngày ướt trên mi Thung Lũng Hồng.

Cây cuối xuống và lá rụng đầy hồn người, sợi chiều trói mình vào khoảng mông lung, rớt trên lưng chừng đèo một tiếng chim xao xác…

Chợt vang vang về một ý nghĩ ngông cuồng ngày cũ của Thiện: “Tất cả lịch sử Việt Nam đã chết trong tôi. Tôi muốn tất cả nước Việt Nam bị tiêu diệt và chỉ chừa lại thành phố Đà Lạt mà thôi. Chỉ có Đà Lạt mới xứng đáng là Việt Nam trong tất cả mọi ý nghĩa thiêng liêng nhứt và thơ mộng nhất của Việt Nam. Hãy để tất cả thế giới bị tiêu diệt và chỉ xin chừa lại Đà Lạt …”







































Cung Tơ Chiều (Phù Hư)
“mưa trèo đèo thẳm mưa sang
sương mây chôn khuất bản làng xuyên sơn
âm đâu như dưới lũng mòn
còn nghe thoang thoảng giữa hồn hát du
rượu vang đỏ máu chim mù
ai đem gan ruột trùng tu tiếng người
tiếng cô hồn khóc trời ơi
nến đêm nguyệt tận thắp đồi cỏ thiêng
quỉ ma gào khóc tình riêng
rượu vang đỏ máu từ tim trôi về
Giang Giang Giang đêm mê

























‪#‎dalat‬ ‪#‎đichohết1đêmhoangvutrênmặtđất‬ 
Cùng rót bao nhiêu ngày hoang
Cùng đếm bao nhiêu mộng tàn...





Cây mất biệt chào nhau bằng gió thổi
Giữa một đêm anh bước thấp xuống đời...
Cây mất biệt chào nhau bằng gió thổi
Một mình anh cũng đủ nhớ thương đời.










































Hôm nay thức dậy không còn thấy mặt trời, không còn thấy loài người vây phủ quanh đời
...
Người lên tiếng hỏi người có không?
Người đi vắng về nơi bế bồng...

Căn nhà màu tím / tím trong cơn-điên-tím Túy Hồng
"...Những cặp mối đã yêu nhau trước khi rụng cánh trong bóng tối. Những cặp mối thèm nhau đã rủ nhau bay ra khỏi gò mối trong một khoảng thời gian ngắn vào đầu mùa mưa để dập vùi nhau cho cánh rụng xuống, cho đời tàn, cho tình yêu chết. Tình yêu chết và mối mù lòa. Tình yêu chết và mối phá phách căn nhà gỗ. Tình yêu chết nhưng mối không tự tử. Mối sợ cái chết như loài người sợ cái chết. Tình buồn vô cùng. Suốt một đời chỉ một lần yêu, một lần rụng cánh...
Những con mối ở trên trần nhà kia gặm nhấm gỗ để quên buồn. Nếu đừng yêu nhau thì những con mối ở trên trần nhà kia không bao giờ buồn..."




Xin Chào Đà Lạt
Hoài Khanh
Em ở đó với bầu trời mây núi
Mùa đông sương rờn trên má hoa đào
Linh hồn ta mấy mươi mùa của suối
Lạnh vô cùng không biết tự phương nao
Chân ta bước trên con đường trở lại
Một lần xưa vi vút gió đầu cành
Sâu dưới đó lối mòn khe suối vắng
Bóng của mùa động khẽ tiếng lanh canh
Ôi đồi thông những chiều nghiêng nhớ nắng
Lòng ta trôi chiều cũ dưới chân đèo
Gió heo hút dường nghe niềm u hận
Em đi rồi ta vẫn đứng nhìn theo
Màu áo đỏ phất phơ màu vĩnh biệt
Bay về đâu xin còn lại linh hồn
Để ta giữ những chiều sương ám phủ
Của một đời luân lạc kiếp tha hương
Rồi thôi hết đất sẽ là vĩnh viễn
Bông hoa kia nở trên xứ điêu tàn
Tay yếu đuối ta sẽ còn nắm lại
Những lời gì xưa đã hết âm vang…













VĂN NGHỆ số mùa XUÂN 1962

$
0
0
0001


0002


Tạp chí VĂN NGHỆ - LÝ HOÀNG PHONG<----


ĐỨNG TRƯỚC THỰC TẠI 
Thực tại hôm nay là cuộc nội chiến bi thảm đang sôi sục, thực tại hôm nay là cách mạng đang tiếp diễn. Thực tại hôm nay là sự tranh đấu khó khăn phức tạp của một dân tộc để gìn giữ tự do, sự tranh đấu toàn diện để tìm đường sống trước một khúc quanh bế tắc hiểm nghèo của lịch sử. Thực tại hôm nay là giòng máu đang đổ, là những đe dọa nặng nề, là những lo âu vật vã, thực tại hôm nay là những thử thách, dằn vặt, là những xáo động, bàng hoàng thường trực...

Một năm qua, mỗi lần ngồi trước bàn viết, chúng ta lại gặp thấy trên mảnh giấy trắng cái thực tại đỏ cháy chúng ta đang sống, cái thực tại ám ảnh, vướng mắc tâm não chúng ta như một hồn quỉ lẩn khuất, cái thực tại âm ỉ, lở lói như một vết thương không hàn gắn được.


Đứng trước thực tại ngột ngạt ấy người viết hôm nay dễ bị choáng đầu, hoa mắt không còn thấy rõ biên giới, hình dáng sự vật. Tuy nhiên, trong cơn khủng hoảng tinh thần mà hắn chịu đựng, hắn biết rằng cái thực tại đẫm máu ngày nay chỉ là sự phóng lớn một hình ảnh đã thấy, chỉ là sự chuyển động một tấn kịch đang diễn. Nhìn ra đời sống trước mắt, trở về với mặt giấy trắng trên bàn viết, hắn xác nhận rằng sự cố gắng của hắn từ trước đến nay vẫn là một, vẫn là sự cố gắng đi tìm cái ẩn số của một phương trình là thực tại đó, là sự cố gắng đâm thủng xé rách bức màn ảo ảnh dày đặc bao trùm thực tại đó, là sự cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của thực tại, vượt quá nó và sáng tạo tương lai.

Hãy nhìn vào cái thân thể chia cắt của dân tộc, cái thân thể bị đâm chém, đe dọa, dày vò đang vật vã tìm đường giải thoát, tồn tại. Chúng ta nhìn thấy gì? Chúng ta nhìn thấy một ý thức phân xẻ, chia lìa, mâu thuẫn, hỗn tạp. Từ đâu thảm kịch ấy? Có phải vì chúng ta ngày nay là một hỗn hợp, chúng ta lá cả thế giới, chúng ta đang sống trong xương máu, tâm não chúng ta cái bi kịch của dân tộc nó chính là bi kịch của nhân loại.

Thảm kịch của chúng ta hôm nay có phải là nỗi đoạn trường của Thúy Kiều, Thấy Kiều phân xẻ, Thuỷ Kiều dày vò, Thấy Kiều mòn mỏi, cái ray rứt, cái bế tắc, cái chia lìa của cả một cuộc đời? Nhưng đoạn trường hiện tại không chỉ là đoạn trường của Thúy Kiều hình ảnh một dân tộc mà còn là Thúy Kiều khuôn mặt của nhân loại. Câu hỏi đến với chúng ta: Kiều sẽ chìm đắm nơi sông Tiền Đường hay nàng sẽ trùng phùng với Kim Trọng? Chúng ta có thể nghĩ và tin như Nguyễn Du là Kiều sẽ lại kết họp với người yêu, sẽ tìm lại được sự sống của mình.

Nhưng chúng ta hiện nay, chúng ta có thể vượt qua được sự phân tán, bế tắc để thực hiện một ý thức mới của dân tộc, cái ý thức đưa đến sự thống nhất dân tộc. Từ nơi biên giới nào của tư tưởng, từ nơi cọ sát, va chạm, kết họp nào của lịch sử sẽ phát hiện cái trật tự mới, con đường mới của xã hội tương lai? Nhìn lại đoạn dường lịch sử đã đưa chúng ta đương đầu với thực tại bế tắc bây giờ, chúng ta nhận định rằng đoạn đường đó là sản-phẩm của Tây phương. - Có thể nói lịch sử thế giới hiện đại là lịch sử của Tây-phương, của Tây-phương chủ-động, Tây-phương sáng tạo, hình thành, trong lúc đó

Đông-phương chỉ là bị động. Và không thể chối cãi: cái mâu thuẫn lịch sử hiện tại là mâu thuẫn của Tây-phương. Tất nhiên, không phải chủ nghĩa mác-xít hay một chiến tranh nguyên-tử sẽ đưa đẩy được Tây phương qua khỏi nẻo bế tắc ngặt nghèo hiện nay. Cái gì cứu vãn được Tây phương hiện thời chúng ta không thể nào biết được. Nhung có một sự kiện, một biến động rõ ràng của lịch sử mà chúng ta đang chứng kiến, đó là sự trỗi dậy của Đông phương, cái Đông phương bị động mấy thế-kỷ qua. Giây phút nào đó, đứng trước cái hư-vô của hiện hữu, Tây phương sẽ nhìn về Đông-phưong, nhìn về phía cánh đồng mênh mông, im lìm, bất tận của Á-châu với cái khắc khoải của Do thái trước ngày Jésus xuống thế. Có phải đó là cái khắc khoải của chúng ta hôm nay. Cái khắc khoải của một ý thức quờ quạng, mò mẫm, quay cuồng trong sương mù của thực tại. Cái khắc khoải của một ý thức xông xáo, tìm kiếm, dò hỏi tương lai. Cái ánh sáng bình minh nào sẽ giải thoát chúng ta ra khỏi vùng bóng tối hiện thời, chúng ta chờ đợi gì ở Đông phương đang tỉnh dậy, đang gia nhập, đang sáng tạo lịch sử.

Thực tại hôm nay là chiến tranh, cách mạng. Là chiến tranh, cách mạng được huy động dưới ngọn cờ của những ý thức hệ của tư tưởng, của văn hóa.

Đứng trước thực tại đó, thật là một điều dĩ nhiên nếu người làm văn học hôm nay tìm về những bóng dáng siêu hình, tìm về những vấn đề căn bản của đời sống, đi vào những triết thuyết, những chủ nghĩa. Thực tại hôm nay đặt họ đứng trước những vấn đề thế giới nhân loại vượt tầm quốc gia, dân tộc.

Trước sự đe dọa ám ảnh của những tư tưởng độc đoán, giáo điều kìm hãm tự do con người, của những chủ nghĩa kinh tế phóng thể con người, văn học hôm nay táo bạo thám hiểm vào những tầng lóp ẩn dấu bí nhiệm của tâm lý cũng như của bản năng con người với hy vọng bênh-vực được cái con người mà đời sống máy móc cùng những chủ nghĩa duy-vật, duy lý ngày nay muốn giản lược, tiêu mòn đi. Bị công hãm giữa những khuôn khổ tinh thần suy đồi, văn chương hiện nay thường có thái độ công phá để vượt đến những ý thức mới thích họp với hoàn cảnh xã hội hiện tại, hợp với đà chuyển hóa của đời sống.

Trong xã hội chúng ta, một xã hội kết họp nhiều giòng văn hóa chính trên thế giới; sự công phá đó cùng với những động chạm, thay đổi hòa họp giữa những hệ thống tư tưởng sẽ phải đưa đến nhiều hiện-tượng tinh thần mới mẻ, những kết tinh có tính cách sáng tạo lịch sử, sửa soạn tương lai...

Tuy nhiên qua những vấn đề của ý thức, của tư tưởng, đến khi một chế độ đã được thiết lập trên một căn bản nào đó rồi, người ta sẽ thấy xuất hiện những vấn đề của đời sống xã hội, những quyền lợi của con người. Có một điều chúng ta dễ nhận thấy là những nhà văn hiện nay bị dằn vặt bởi những vấn đề tư tưởng và tâm lý thường không có hoàn cảnh để nhìn đến đời sống của tầng lóp bình dân trong xã hội. Người ta có cảm tưởng rằng từ khi hình ảnh "Người mẹ" của Gorki và "Ả.Q." của Lỗ Tấn đã bị xóa nhòa sau cuộc cách mạng mác-xít ở Nga-sô và ở Trung-Hoa, người lao động nghèo hèn không còn hy vọng xuất hiện trong văn chương hôm nay với một tin tưởng gì mới mẻ nữa.

Nếu ngày trước Gorki, Lỗ Tấn đã đặt hy vọng cách mạng ở người lao động thì nhũng nhà văn chứng ta đặt hy vọng ở sự cải tạo ý thức của người tiểu tư sản trí thức nhiều hơn là ở người bình dân lao động vì kinh nghiệm cho họ thấy rằng lãnh đạo cách mạng dù là cách mạng vô sản, vẫn là tầng lớp trí thức tư sản.

Trong xã hội mác-xít ngày nay người lao động không còn có thể tranh đấu cho quyền lợi của họ nữa nhưng trong cuộc cách mạng hiện tại của chúng ta người lao động sẽ đóng vai trò nào, sẽ lãnh lấy trách nhiệm nào. Ngày nay chúng ta không còn bị mê hoặc bởi khẩu hiệu "vô sản lãnh đạo cách mạng" nữa, nhưng trong cuộc cách mạng xã hội của dân tộc ta ngày nay, dù được lãnh đạo theo một ý thức nào đi nữa, nếu lớp người trí thức lãnh đạo không đặt cho người lao động một vai trò, một nhiệm vụ, một quyền lợi công bằng và xứng đáng thì cuộc cách mạng ấy không thể nào thành công dược, nghĩa là trong một trật tự xã hội công bằng, người trí thức phải đóng lấy vai trò hướng dẫn xứng đáng mà người lao động có thể tin cậy được. Tầng lóp những người nghèo hèn lao động vì vậy không thể không có mặt trong văn học hiện thời của chúng ta và nhà văn ngày nay không thể không nói lên đời sống của họ, tiếng nói của họ, sự tranh đấu của họ cho một đời sống công bằng.

Nhưng công bằng như thế nào? Công bằng trong một trật tự một tương quan xã hội nào? Đó là điều chúng ta phải xây dựng. Đó là là cái quan niệm xã hội mới mà chúng ta tìm kiếm.

Nhiều người nói rằng thực tại xã hội chúng ta hôm nay là một thực tại phản nghệ thuật. Người viết bị đặt trước những đe dọa, lo âu của một hoàn cảnh cấp bách. Hắn cảm thấy bị xô đẩy, theo đuổi, vượt quá bởi hoàn cảnh bên ngoài. Hắn sợ rằng những điều viết ra hôm nay sẽ trở thành phù phiếm, giả tạo, trừu tượng trước cái thực tại cụ thể đang biến chuyển với những bất ngờ không thể đo lường trước được. Người viết sẽ muốn rằng những điều hắn viết ra hôm nay phải ăn nhập, phù họp với thực tại đó, nhưng không phải một cách miễn cưỡng mà là thật sự. Nhưng có người nghĩ khác. Họ nghĩ rằng nghệ thuật không phải lo âu về thực tại đó. Vì thực tại đó sẽ đi qua, chiến tranh, cách mạng sẽ đi qua, nhưng nghệ thuật thì còn mãi. Nghệ thuật chỉ nên nghĩ đến, chú trọng đến những gì bất biến, trường cửu vậy.

Tôi nghĩ rằng vấn đề không thể đặt ra như thế. Tôi tưởng rằng không có thực tại nào phản nghệ thuật, dù cho thực tại đó là chiến tranh, là cách mạng, là sự xáo động xã hội thường trực. Bởi vì thực tại nào cũng mang trong nó một ý nghĩa lịch sử, nghĩa là một ý nghĩa nhân loại. Một khi người viết nắm được ý nghĩa lịch sử tức là ý nghĩa nhân loại của thực tại đó thì nó viết ra tác phẩm. Mà không có thực tại nào nhiều ý nghĩa nhân loại bằng thực tại của những xáo trộn lịch sử, cái ý nghĩa nhân loại của lịch sử là ý nghĩa của một sự tìm kiếm, thực hiện nội tại qua hoàn cảnh bên ngoài. Con người tự tìm kiếm, tự thực hiện qua lịch sử. Vì vậy mỗi biến động lịch sử là mỗi lần con người thoát thai ra một hoàn cảnh để đi tìm một bộ mặt khác của mình, nó đi tìm cái diện mạo phong phú, đầy đủ toàn vẹn của nó. Cho nên mỗi biến động lịch sử là cơ hội cho nghệ thuật phát triển.

Cái thực tại xã hội của chiến tranh, cách mạng, cửa chia cắt đất nước ngày nay phải là một thực tại giàu ý nghĩa. Hãy thử lấy trường hợp Dostoievski chẳng hạn. Dostoievski đã sống cái thời kỳ xáo động của lịch sử, cái thời kỳ bàng hoàng của tiền cách mạng. Tác phẩm Dostoievski bất diệt vì nhà văn đã nhìn sâu vào thực tại xã hội mình đang sống, không phải vì nhà văn quay mặt trước thực tại đó. Những nhân vật Dostoievski đều sống mãnh liệt với thực tại xã hội của mình, nghĩa là đã sống mãnh liệt với thực tại nhân loại của mình.


Thực tại xã hội và thực tại nhân loại đó là gì? Là tâm trạng khắc khoải của con người được sự sa lầy của một xã hội, một ý thức hệ xã hội, ý thức hệ thiên chúa giáo - là cái bàng hoàng của con người trước ý thức hệ mới - ý thức hệ duy vật - đang manh nha. Đó là trường họp nhũng tác phẩm Dostoievski. Và những tác phẩm lớn của chúng ta cũng vậy, Kiều, Cung oán, Chinh phụ đều là những công trình được ý- thức, kết cấu trong một thời kỳ bi thảm của lịch sử dân tộc, trước một thực tại xã hội xáo trộn, hỗn loạn đến cùng cực. Cho nên, vấn đề không phải như Nhất Linh đã nói là "phải vượt không gian và thời gian" mà chính là phải sống thiết tha với thục tại xã hội của mình. Vì thật ra, cái thực tại xã hội và thực tại của con người chỉ là một và sự cãi vả, gây gổ, mâu thuẫn giữa con người với xã hội cũng chỉ là của con người với chính mình. Xã hội chính là hình ảnh phóng lớn của con người. Con người tìm thấy mình và nhìn thấy mình qua Xã hội.

Có người nói rằng thực tại xã hội hôm nay hướng người viết đến những tư tưởng siêu hình xa rời xã hội, vượt ra ngoài thực tại xã hội. Tôi không nghĩ thế. Tôi nghĩ rằng mọi tư tưởng siêu hình, triết lý xa xôi đến đâu cũng đều bắt nguồn từ thực tại xã hội. Thử nói đến trương họp những tư tưởng của Sartre. Tư tưởng bi quan của Sartre chính là kết tinh của một xã hội - xã hội của chính tác giả - một xã hội mất tín ngưỡng đang giáp mặt với hư vô, Sartre đã nói lên tư tưởng, tâm trạng của chính mình nhưng đó cũng là một tư tưởng, một tâm trạng của xã hội ông. Cái tư tưởng, cái tâm trạng đó của xã hội có thể trở thành trừu tượng công thức ở trong nghệ thuật đến nỗi nhiều khi xã hội không còn tự nhìn thấy mình ở trong đó nữa nhưng thật ra thì một khi một tư tưởng một tâm trạng nào đã đi vào tác phẩm thì thật sự nó đã có mặt ở ngoài xã hội rồi.

Dù là tư tưởng hư vô đi nữa, nhưng quyết nhiên tư tưởng hư vô của Sartre không phải bắt nguồn từ hư vô mà chính là từ thực tại xã hội. Nhưng người viết không chỉ diễn tả, thể hiện thực tại xã hội mà thôi, người viết còn muốn vượt quá, thấy trước thực tại đó, người viết còn có thể sáng tạo tương lai. Tuy thế sự vượt quá thực tại, sự sáng tạo tương lai ấy cũng phải bắt nguồn từ một thực tại xã hội nhất định chứ không phải từ một ảo ảnh trừu tượng nào.

Nhiều người nói rằng: Thực tại hôm nay đặt người viết trước hai vấn đề cấp bách: vấn đề cộng sản và vấn đề xây dựng xã hội mới. Người viết hôm nay thấy có nhiệm vụ phải tranh đấu với những đe dọa trực tiếp ảnh hưởng đến vận mạng dân tộc, xã hội.

Về vấn đề cộng sản, những nhà văn quan trọng hiện nay dã cho chúng ta nghe tiếng nói của họ, thái độ của họ. Phần lớn những tác phẩm đầu tay của Mai Thảo, Doãn Quốc-Sỹ, Võ- Phiến... đều có một thái độ rõ rệt đối với con người và chế độ cộng sản. Ngoài ra Vũ Khắc-Khoan, Mặc Đỗ, Nguyễn-Sỹ- Tế, Thanh-Tâm-Tuyền, Quách-Thoại v.v... đều đã nói lên tiếng nói chống cộng của họ. Nhưng cách đây mấy năm, tiếng nói ấy có vẻ lạc lõng giữa một xã hội thái bình mà cộng sản là một kẻ vắng mặt không ai nhìn thấy. Hiện tại cộng sản không còn là kẻ vắng mặt nữa và chúng ta hy vọng rằng những nhà văn bây giờ sẽ có những tác phẩm nhận định về cộng sản một cách đầy đủ hơn. Nhiều người viết trẻ hiện nay đang hăm hở muốn tham dự vào cuộc tranh đấu chung của dân tộc và chúng ta có thể đặt nhiều hy vọng ở họ. Tuy nhiên ý muốn tranh đấu không chưa đủ. Công việc làm nghệ thuật đòi hỏi nhiều điều kiện tài năng, học tập, kinh nghiệm.

Chúng ta không thể vì lý tưởng mà chấp nhận sản xuất những công trình thiếu nghệ thuật, thiếu sinh khí. Sự giả tạo, công thức lúc nào cũng đưa đến những kết quả nghịch lại mục đích của nghệ thuật, làm khô cạn nghèo nàn nghệ thuật. Vì vậy người viết hiện nay phải đặt vấn đề cộng sản trong cái tầm mức sâu xa của nó. Cộng sản không đặt người viết trước một vấn đề chính trị, nhưng nó đặt người viết đứng trước một vấn đề lịch sử, một vấn đề tư tưởng, xã hội, tâm lý. Cho nên cộng sản là một đề tài nhiều ý nghĩa đối với người viết.

Phần nhiều những nhà văn hiện tại, những nhà văn lớn đều có đề cập đến vấn đề cộng sản, Koestler, Malraux, Sartre, Goerghiu, Pasternak, Irvin Shaw, Duhamel... mỗi người với một lối nhìn riêng, một quan điểm riêng đã chiếu rọi vào "sự thật cộng sản" cái ánh sáng của họ. Riêng nhóm Nhân văn Giai phẩm ở miền Bắc cũng đã cho chúng ta thấy một phần nào những suy nghĩ của họ đối với cộng sản.

Đối với văn học, cộng sản là một vấn đề nhân loại, một vấn đề nhân loại quan trọng nhất của thế kỷ chúng ta, và nhân loại phải thanh toán với nó một lần cuối cùng trước khi bước vào một kỷ nguyên mới. Kỷ nguyên mới đó là cái xã hội mới mà chúng ta xây dựng. Cộng sản trở thành một bài học, một kinh nghiệm, một nguyên cớ để chúng ta xét soát lại mọi vấn đề, từ đấy chúng ta rút lấy những kết luận cho tương lai. Vì vậy chúng ta nói rằng vấn đề cộng sản và vấn đề xây dựng xã hội mới cần phải đặt song song. Đi từ một luận lý sơ đẳng của biện chứng hay nói một cách khác của luật nhân quả chúng ta phải nhận định một cách cúng rắn rằng cộng sản là hậu quả của một xã hội phong kiến suy đồi và một xã hội tư bản trụy lạc, suy đồi trụy lạc từ đời sống thể xác đến đời sống tinh thần. Cho nên muốn vượt qua cái hố sâu cộng sản, chủng ta phải vượt qua cái suy đồi, trụy lạc của phong kiến và tư bản. Chúng ta không lý luận một cách máy móc đâu. Chúng ta không chủ trương phá đổ, san bằng xã hội phong kiến và tư bản. Chúng ta cần nói rõ lại một lần nữa, chúng ta phải cố gắng thanh toán những tính chất suy yếu thoái hóa, vô trách nhiệm của hai thứ xã hội đó.

Những nhà văn ngày nay đã nói lên tiếng nói chống Cộng của họ nhưng những tác phẩm tố cáo, vạch trần bộ mặt xấu xa, thối nát của phong kiến và tư bản, chúng ta vẫn thấy đang còn rất ít ỏi. Người ta tự hỏi tại sao trong cuộc cách mạng giải phóng xã hội hiện thời, cuộc cách mạng được đề cao dưới khẩu hiệu bài trừ phong kiến, những nhà văn hiện nay đã chẳng làm được những gì đáng kể trong lãnh vực đó, và cái xã hội chúng ta ngày nay chẳng thấy được phơi bày ra đầy đủ trong văn chương bây giờ? Thật là một điều thiếu sót lớn lao. Chúng ta thấy nhiều một thứ văn chương hiền lành yên tĩnh, an nhàn, nhưng thấy thiếu một thứ văn chương thật là cách mạng, một thứ văn chương cải tạo xã hội mạnh bạo và sâu sắc, một thứ Văn chương cần thiết hiện nay nếu chúng ta muốn tiến đến một xã hội khỏe mạnh hơn. Nói thế không phải chúng ta chỉ muốn nhìn một cách bi quan vào hiện tại. Không. Chúng ta còn cần một thứ văn chương của hy vọng, một thứ văn chương hướng về tương lai, hướng về một lý tưởng xã hội, một lý tưởng nhân loại mới, nhưng chúng ta không thể nào không mang lấy trách nhiệm đối với thực tại mà chúng ta phải mổ xẻ với lưỡi dao giải phẫu của người chửa bệnh can đảm.

Chúng ta vừa nói đến trách nhiệm, nhưng trách nhiệm chỉ có thể có đầy đủ và thật sự với tự do. Cho nên điều kiện căn bản cho trào lưu văn học cách mạng và xây dựng xã hội vẫn là tự do cho văn học. Những nhà làm chánh trị có bổn phận bảo vệ an toàn cho dân tộc và hạnh phúc cho xã hội chẳng có lý do gì để e ngại sự hình thành một nền văn học thiết thực gia nhập vào đời sống xã hội, liên hệ mật thiết với vận mạng dân tộc.

Đứng trước thực tại hôm nay, tiếng nói của văn nghệ vẫn là tiếng nói đòi hỏi tự do, đòi hỏi cách mạng, đòi hỏi gia nhập, đòi hỏi tham dự vào giòng sống của dân tộc, đòi hỏi thoát ly ra ngoài vòng bế tắc của thời đại, đòi hỏi một ý thức mới, một xã hội mới, một đời sống mới.

Lý Hoàng Phong
Văn Nghệ số 9&10 Tháng 11-1961 (SỐ MÙA XUÂN 1962)
đánh máy lại trên TQBT số 67, Tháng 12-2015











Tạp chí VĂN NGHỆ - XUÂN 1963 + nhân bức tranh CHÚNG TA ĐI MANG THEO QUÊ HƯƠNG, nói về bìa báo TẾT

$
0
0








---------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Chúng ta đi mang theo quê hương - Tên một chương trình gây tiếng vang lớn của Thuý Nga năm 1999 - lấy cảm hứng từ một đoản văn của Mai Thảo
(Câu này MAI THẢO đã dùng lại trong “QUÊ HƯƠNG TRONG TRÍ NHỚ” trên báo SÁNG TẠO – 1958 – SỐ ĐẶC BIỆT HÀ NỘI:

“Kẻ thù không sợ chúng ta ở xa hay về gần. Điều nó sợ là ở xa hay gần mỗi chúng ta vẫn cứ là một khối sống rực rỡ. Cho nên đi hay ở đã không thành vấn đề. Đi không phài là tỵ nạn là mất gốc. Những cái mà tôi, mà anh, những người Hà Nội hiến dâng, góp phần vào cho sự sống ở Sài gòn, ở khắp nơi hôm nay mới chính là Hà nội, cái phần tinh hoa, cái phần quý giá nhất của Hà nội. Chúng ta đi mang theo quê hương, chúng ta đi mang theo Hà Nội là vì thế. Mà cũng chính là trong lối sống mà chúng ta đang chiến đấu, đang bảo vệ cho Hà nội, để vẫn là những người Hà nội…) .
 Nhưng nguồn gốc của nó chính từ bức tranh của hoạ sĩ Phạm Tăng làm bìa báo rực rỡ Xuân Văn Nghệ Tự Do - Bính Thân 1956 .
Xuất hiện trở lại trong triển lãm Giở Chồng Báo Cũ. Những tờ báo Xuân rực rỡ của văn nghệ miền Nam - mấy chục năm vẫn toát ra một thứ lân tinh bình an hạnh phúc, âm ỉ mà trường cửu, tưởng chừng sáng nay tôi đã chạm vào một thứ sáng mang tên là huyền ảo và say đắm...
"Chúng ta" (xưa) "đi mang theo quê hương" - cái "quê hương" vào năm 1956 ấy chính là cây đa- bến cũ - con đò, là những "thảo dã, xuân tình", là những hội hè Đình đám (mà theo tác giả Kim Định triết lý Việt Nam chính là bắt nguồn từ những mái đình như thế và ông đã khái quát thành một triết lý của dân tộc: triết lý cái đình - trong 1 quyển sách cùng tên), là những yếm thắm , má hồng, là những thầy đồ, lễ nghĩa, là những trẻ thơ khoanh tay nhận quà, là những "mồng Một tết cha, mồng Hai tết mẹ, mồng Ba tết thầy...."
"Chúng ta" (1975) "ra đi" (cũng) "mang theo quê hương" ..., quê hương một lần nữa là những "Ly rượu mừng" - "rót thêm tràn đầy chén quan san" , là những ước mộng "Việt Nam không đòi xương máu, tự do công bình bác ái muôn đời..." , là những "buổi chiều Thủ Đô tưng bừng phố xá"...
Những bìa báo Xuân như hiện ra từ "tìm trong câu thơ cổ/ tìm trong tranh tố nữ..." ngỡ đã lắng chìm sâu vào dĩ vãng, bỗng hôm nay, từ khói sương đẹp - từ ẩn nhẫn đẹp, từ đẹp hình và đến lộng lẫy hồn ấy , đã du tôi vào một vùng ngây ngất đầy...
Còn (cái gọi là) "chúng ta" (hôm nay)(những kẻ đến sau) đã ... đến và "đốt cháy" tan nát quê hương!
"Khóc lên đi, hỡi Quê Hương yêu dấu"

12509232_10201204701995537_571817849035633410_n

CHÚNG TA ĐI MANG THEO QUÊ HƯƠNG

11048277_10201204702195542_4017172707009733694_n
CHÚNG TA ĐI MANG THEO QUÊ HƯƠNG

11214077_10201204704275594_7081392000794882203_n11237922_10201204705355621_8779529760867249315_n12400869_10201204703635578_8723159445522694892_n12400877_10201204704795607_3710281108765234832_n12400877_10201204704795607_3710281108765234832_n12508803_10201204702635553_4206821799790000009_n12508854_10201204702995562_4708496396840674871_n12573066_10201204704995612_8352447905895566000_n12573724_10201204703915585_731830038648483919_n10259927_10201204702395547_422869070124813964_n1441279_10201204704515600_8555875035991306262_n



1 bìa báo Xuân trong nước, năm nay, lần đầu ca sĩ KHÁNH LY lên bìa 1 tờ báo quốc nội. NGƯỜI ĐÔ THỊ là 1 trong những báo có chất lượng bài viết tốt, đa chiều, nhiều bài viết / tư tưởng nhân văn... hiện nay ở Việt Nam.





Bàn đến bìa báo Xuân: có thể nói ngay là báo Xuân trong nước hình như có một lời nguyền không-bao-giờ-dám-đẹp...Trong khi nhiều khi điều cần chỉ là 1 bức tranh, một ký hoạ + sự dàn trang, typo đơn giản (& thẩm mỹ) là sẽ ra được cái hồn-Tết-Việt trên một nét đặc sắc hiếm có quốc gia nào còn giữ là báo Xuân/ báo Tết (xem lại các bìa báo Xuân trước 1975, những bìa báo chân phương - những sắc màu nồng ấm & hạnh phúc + với những phần typo xuất sắc, có thể 1 phần là do chữ toàn là viết tay - chưa có can thiệp của công nghệ - nên art sẵn & có "hồn" sẵn)
Trước đây thì có bìa Saigon Tiếp Thị coi được được, bìa của Nhà Đẹp hay dùng tranh vẽ làm bìa Xuân cũng hay.
Năm nay, coi thử qua 2 bìa của 2 tờ báo người-Việt-hải-ngoại & bẽ bàng khi thấy hồn-Việt-Nam thể hiện rất rõ qua những bìa báo biển-ngoài này hơn là Việt-Nam đất-trong.

Bìa của Người-Việt Xuân là tranh của Nguyễn Thị Hợp - lúc nào nhìn những bức "tranh-xuân" thanh bình của nữ hoạ sĩ này - những bức tranh xuân mà nếu được lên tiếng, thì nó không gì khác hơn - chính đó : những khúc ca dao êm đềm, hay đó chính là câu trả lời cho những câu hỏi của Duyên Anh/Phạm Duy "Có bao giờ em hỏi - quê hương mình ở đâu?", đó chính là đền bù cho những mất mát "Chưa kịp mê tam cúc, xuân hồng đã trôi mau / Chưa kịp hôn môi Tết, tháng Giêng son phấn sầu..."; đó là lời nhắc nhở để không bao giờ lãng quên "Sợ em đã quên mùi hoàng lan đêm xuân/ Quên hương cau thông vàng bụi phấn..."

Bởi thế, tranh của Nguyễn-thị-Hợp luôn làm lòng mình khẽ vang về khúc ca Xuân xúc động từ người-nhạc-sĩ-của-những-bài-ca-yêu-thương-sầu-muộn Trầm Tử Thiêng:
"Ước gì giờ này mẹ đang ôm con trong lòng mà ru
Cho mẹ còn nghe hương xuân trao cha mới vài xuân đầu
Ước gì từ một thời xưa êm đềm thành mùa xuân mới
Hoa rộ đầy trời mẹ ban cho con xuân vừa nằm nôi
Ước gì giờ này anh đang ôm em xuân về ngoài kia
Mối tình bình yên đôi ta không lo lắng gì chia lìa ..."




Báo TẾT (part 1) - SAIGON trên báo TẾT

$
0
0
Những bài báo hay, ấn tượng trong mùa báo TẾT vừa qua...
Những chuyên đề thường thấy trong các số báo TẾT thường là những chuyên đề về SAIGON - ít khi thấy ai làm về Hanoi;  Saigon dường như trở thành 1 địa danh để hướng tới, để nhắc nhớ, để suy niệm về 1 quá khứ/ tương lai đẹp...hơn là thủ đô ngày nay của nước Việt...
Hiện nay, cái Tết đã phai lạt đi ít nhiều, những ngày đầu năm, tôi chỉ còn biết dựa dẫm chút ít vào những trang báo sặc sỡ , khổ to hơn thường lệ (tuy càng ngày càng ít báo trình bày & màu sắc đẹp) giăng mắc khắp các con đường ở Saigon, để còn biết chút ít cái gọi là "It smells like Tết"

Những bài báo tôi chụp lại ở đây cũng sẽ gói gọn trong những bài (theo tôi) là hay trong các chủ đề : Saigon / Mỹ Thuật - Hội Hoạ / Tôn giáo (Phật giáo)/ Văn hoá /Âm Nhạc /  Du lịch  & 1 vài truyện ; thơ






IMG_0742 (2)




 Trên hình là bài thơ của CAO TIÊU - thủ bút của chính tác giả trong tập THƠ NHẠC CAO TIÊU

MÙA THƯƠNG HỢP TẤU THƠ RUNG NHẠC
XANH NGÁT ĐƯỜNG TRĂNG BÓNG THỆ NGUYỀN.








PART 1 :VỀ SAIGON



IMG_0361



IMG_0362




IMG_0363IMG_0365IMG_0366IMG_0368IMG_0369IMG_0398IMG_0394IMG_0395IMG_0396IMG_0397IMG_0402IMG_0403IMG_0404IMG_0405IMG_0406IMG_0407IMG_0408IMG_0409IMG_0410IMG_0411IMG_0431IMG_0438IMG_0439IMG_0440IMG_0441IMG_0465IMG_0482IMG_0483IMG_0484IMG_0500IMG_0501IMG_0502IMG_0503IMG_0504IMG_0505IMG_0506IMG_0507IMG_0508IMG_0509IMG_0510IMG_0511IMG_0512IMG_0513IMG_0514IMG_0515IMG_0516IMG_0517IMG_0524IMG_0528IMG_0529IMG_0530IMG_0531IMG_0532IMG_0546IMG_0547

Báo Tết (part 2) - Ơi những người & cảnh muôn năm cũ...

$
0
0

Các chuyên mục đặc sắc khác trên các báo TẾT vừa rồi, tạm chia theo các chủ đề:


ÂM NHẠC
  • MỘT LẦN GẶP PHẠM DUY
  • BÀI BOLERO ĐẦU TIÊN TRONG ÂM NHẠC VIỆT
  • NHỮNG LỜI CA DỌC ĐƯỜNG ĐỜI
  • VÀ BAO NHIÊU NĂM NỮA CHO LY RƯỢU HOAN CA

VĂN HỌC - chị TƯ CÀ MAU đếm sơ theo những tờ tôi có, có khoảng 6 TRUYỆN NGẮN như list ra dưới đây:
  1. LÀM THINH CHƠI KỊCH
  2. DÂU BIỂN NGANG QUA MỘT NÉT MÀY
  3. CHẮC EM LỦNG SẼ VỀ
  4. THẦM
  5. NGÀN NĂM THẮP LỬA BÊN LỀ
  6. QUÁN NHỎ MÙA ĐI
Các truyện khác & 1 số bài thơ trên các báo (Kiến Thức Ngày Nay/ Phụ Nữ/ Thanh Niên....) , 1 truyện & thơ trên báo VĂN HOÁ PHẬT GIÁO khá đặc sắc:

  • NĂM NAY ĐÀO LẠI NỞ - KIỆT TẤN
  • CON CHIM GÕ MÕ - TRỤ VŨ
NGƯỜI XƯA
  • KHÁNH LY – KHÔNG ĐỊNH ĐI MÀ ĐI, KHÔNG ĐỊNH VỀ MÀ VỀ
  • LÊ DUY HẠNH – 3 MÓN NỢ CUỘC ĐỜI
  • BẠCH TUYẾT – HỒN THIÊNG QUYỆN KHÓI TRẦM HƯƠNG
  • THÍCH NHẤT HẠNH – TÂM TÌNH THẦY GỬI CÁC CON (trong VĂN HOÁ PHẬT GIÁO số cuối cùng sau 19 số, không hiểu bài "nói chuyện" này có góp phần gì vào việc kết thúc 1 tờ báo chuyên đề không những đẹp mà con hay, không những hay về nội dung Phật giáo của nó mà còn hay về khía cạnh Văn hoá của nó - 1 năm ra 3 tờ)
  • NGƯỜI CUỐI CÙNG DỆT LÃNH MỸ A
  • CẢM THỨC “BUỒN TRÔNG” TRONG TRUYỆN KIỀU - NHẬT CHIÊU viết về KIỀU & NGUYỄN DU



HỘI HOẠ/ GỐM/ KIẾN TRÚC


  • BỨC TRANH CHÂN DUNG TRẦN NHÂN TÔNG CỦA ĐINH CƯỜNG
  • GIỮA TÀN TRO CỦA THÁNH ĐỊA BÀ LA MÔN BÍ ẨN
  • THÔNG ĐIỆP NÀO CỦA CỔ VẬT
  • GỐM BIÊN HOÀ/ GỐM SAIGON
  • PHO TƯỢNG PHẬT BẰNG SA THẠCH ĐƯỢC PHÁT HIỆN Ở TRÀ VINH
  • “TÔI TÌM LẠI TÔI TRONG HỘI HOẠ” – TCS
  • “NGHĨ VỀ MẸ TÔI VẪN DAY DỨT ĐẾN GIỜ” – HS NGUYỄN TRUNG
  • HÀO PHIÊU LƯU & HÀO ĐÃ TRỞ VỀ


CẢNH CŨ/ HỒN XƯA
  • DALAT - RUE DES ROSES – DÙ ĐƯỜNG ĐÃ THAY TÊN
  • CHÂN DUNG PHỐ MỘNG M’NÔNG
  • KHO BÁU CÕI THIÊNG TRƯỚC CƠN LỐC KIM TIỀN
  • ĐẤT & MẸ (chuyên đề xuất sắc trên THẾ GIỚI TIẾP THỊ)
  • HỌC TRONG TIẾNG NÓI BÌNH DÂN
  • MÓN KIỂM/ KỈM MIỀN TÂY
  • MỨT HUẾ
  • GÁC CU SAO GỌI LÀ NGU?


PHẬT GIÁO/ TÂM LINH
  • TỪ LINH THỨU ĐẾN PHAN THIẾT
  • TỨ, BÁT, NGŨ, TRONG VĂN HOÁ HUẾ
  • DẤU ẤN PHẬT GIÁO DỌC THEO BỜ SÔNG GIANH



Trước tiên, tiếp theo part 1 là chuyên đề SAIGON 
(những hình dưới đây là chuyên đề trên  KIẾN TRÚC & ĐỜI SỐNG - chuyên đề trên báo xuân này có thể nói là 1 trong những chuyên đề viết về thành phố hoa lệ này hay nhất trong năm nay - cùng với chuyên đề trên NGƯỜI ĐÔ THỊ & THẾ GIỚI TIẾP THỊ...& báo PHÁP LUẬT nữa), có những bài về kiến trúc BÔNG GIÓ, SỰ TRỞ LẠI/ NHÀ LIÊN KẾ ĐẾN "NỖI LÒNG CƯ XÁ"...


SAIGON

IMG_1267IMG_1268IMG_1269IMG_1270IMG_1271IMG_1272IMG_1273IMG_1274IMG_1275IMG_1276IMG_1277IMG_1278IMG_1280IMG_1281IMG_1282IMG_1283IMG_1284IMG_1285IMG_1286IMG_1287

ÂM NHẠC IMG_0392IMG_0375IMG_0367IMG_1319

TRUYỆN / THƠ

IMG_0359IMG_0360IMG_0370IMG_0372IMG_0373IMG_0393IMG_0400IMG_0401IMG_0420IMG_0442IMG_0443IMG_0444IMG_0448IMG_0449IMG_0450IMG_0451IMG_0452IMG_0542IMG_0543IMG_0544IMG_0545IMG_0549IMG_0550IMG_1279IMG_1315IMG_1316IMG_1343IMG_1344IMG_1345IMG_1346IMG_1347IMG_1348IMG_1349

NGƯỜI XƯA

IMG_0533IMG_0534IMG_0535IMG_0536IMG_0537IMG_0538IMG_0539IMG_0540IMG_0541IMG_1321IMG_1322IMG_1323IMG_1324IMG_1325IMG_1326IMG_1327IMG_1328IMG_0380IMG_0381IMG_0390IMG_0383IMG_0384IMG_0388IMG_0389IMG_1339IMG_1340IMG_1341IMG_1342

HỘI HOẠ/ GỐM/ KIẾN TRÚC

IMG_0489IMG_0490IMG_0474IMG_0473IMG_0739IMG_0740IMG_0741IMG_0742IMG_0743IMG_1335IMG_1336IMG_1337IMG_1338IMG_1302IMG_1303IMG_1304IMG_1305IMG_1306IMG_1307IMG_1308IMG_0422IMG_0423IMG_0424IMG_0425IMG_0426IMG_0427IMG_0428IMG_0429

CẢNH CŨ / HỒN XƯA

IMG_0518IMG_0519IMG_0520IMG_0521IMG_0522IMG_0523IMG_0514IMG_0514IMG_0466IMG_0467IMG_0468IMG_0469IMG_0470IMG_0471IMG_0472IMG_0475IMG_0477IMG_0478IMG_0479IMG_0485IMG_0486IMG_1317IMG_1318IMG_1329IMG_1330IMG_1331IMG_1332IMG_1333IMG_1334IMG_1309

PHẬT GIÁO

IMG_1288IMG_1289IMG_1290IMG_1291IMG_1292IMG_1294IMG_1295IMG_1296IMG_1297IMG_1299IMG_1300IMG_0435IMG_0436IMG_0437

"Ta còn ngồi/ nghe tóc ngát mưa hoa..." (#đichohêt1đêmhoangvutrênmặtđất Mộc Châu/Dalat)

$
0
0





“Ta còn ngồi
Nghe tóc ngát mưa hoa” (Vô Ngã Phạm Khắc Hàm)(*)

Khi chiều giăng lưới…
trong một nốt trầm của bàng hoàng nắng cuối ngày…chiều choàng lên vai mùi hương ngày cũ…khung cảnh như một thước film hiện ra trước mắt…
Soundtrack cho chuyển cảnh này vang vang trong tâm trí một khúc tình ca diễm ảo “Dạ Lai Hương” của Phạm Duy - một boston dìu dặt quyện hết thảy “hương gây mùi nhớ” - hương của một cõi êm đềm trong đêm hè ở Huế 1953 … “bỗng quay về dạt dào trên hè” 1 chiều xuân Saigon phù ảo 2016…


“Ðêm thơm như một dòng sữa
Lũ chúng em êm đềm rủ nhau ra trước nhà
Hiu hiu hương tự ngàn xa, bỗng quay về
Dạt dào trên hè, ngoài trời khuya.
Ðường đêm sao yên vui, người đi quen lối
Tình trai nở bốn phương trời
Ðàn em trong cơ ngơi
Nhờ đêm đưa tới những ai làm ngát hoa đời
Nhịp bàn chân hương đêm ơi…”


(*) 


Tóc Ngát Mưa Hoa
Tặng Minh Châu hiền thê
1- Hãy ngồi xuống đây,
Nghe xa lăng lắc,
Chuông đổ hồi,
Trên đỉnh núi Monte Grisa,
Hãy ngồi xuống bên ta,
Nghe chuông đêm trầm mặc,
Chuông đổ hồi,
Tí tách giọt sương hoa.
2- Hồi ấy,
Ta đã ném bao nhiêu đồng tiền xuống suối Trevi ?
Chắc không nhiều,
Nhưng cũng đủ để một lần trở lại.
Nhưng cánh thời gian bay hoài,
Bay mãi,
Nên chưa một lần ta dẫm lại
Dấu chân đi.
3- Trên đồi Miramare,
Mình đã hái bao nhiêu chùm hoa tỉ muội?
Mật ngọt ngào,
Năm tháng cũng chưa phai.
Lá liễu bay dài,
Dưới chân Ai một thuở,
Mímosa nở vàng,
Hoàng yến những hôm mai.
4- Ta muốn thêm một lần,
Nghe gió bora ào ào qua khe cửa,
Để cho lòng bừng thức những xuân xưa.
Ta muốn thêm một lần,
Nâng ly tuyết tửu,
Nghe tiếng giày thánh thót,
Lúc mau thưa.
5- “Chiêu như ty Mộ thanh tuyết”
Tóc xanh đã phai mầu.
Chợt ngậm ngùi, nhớ tiếc,
Mới hôm nào,
Thuyền ghé bến sông sâu...
6- Đã xa, xa thật rồi,
Đầu xanh hai thú tóc,
Ta còn ngồi
Nghe tóc ngát mưa hoa.

Santa Ana 12 tháng 12, 1990



“Em đâu ngờ anh còn nghe vang tiếng em trong tất cả những tiếng động ngù ngờ nhất của cái ngày sung sướng đó: tiếng gió thổi trên những cành liễu nhỏ, tiếng những giọt sương rơi trên mặt hồ, tiếng guốc khua trên hè phố…Ngần ấy thứ tiếng động ngân nga trong trí tưởng anh một thuở thanh bình nào, bây giờ đã gần im hơi, nhưng một đôi khi vẫn còn đủ sức làm ran lên trong ký ức một mùa hè háo hức, một đêm mưa bỗng trở về, gió cuốn từng cơn nhớ… Anh bỗng nhận ra anh vẫn còn yêu em, dù chúng ta đã xa nhau như hai thành phố…”

Sáng nay tưởng chừng bước đúng vào trong vùng cảm xúc ấy, vùng khói
 sương / vùng-không-khí-(của)-Nguyễn-Đình-Toàn, không khí thoát thai
 từ lời dẫn vào chương trình Nhạc Chủ Đề trên đài phát thanh Saigon
 pre-1975 qua giọng đọc truyền cảm của nhà văn/ nhà thơ/ nhạc sĩ NĐT
 - và đó, cũng là không khí của album Hiên Cúc Vàng qua giọng ca của
 Khánh Ly.

Nhạc của NĐT trước hết không xa lắm với những thiết tha, trìu mến & dằn vặt/ ray rứt như bài thơ sáu-tám của ông

“ Ru em lần cuối cùng này
Bằng hơi mát của một ngày sắp xa
Bằng giờ phút sắp chia xa
Rồi thôi rồi chẳng bao giờ nữa đâu
Giòng kinh năm ngón son cầu
Với môi mặn với hồn trao nghẹn lời
Với sầu xưa ngút trên vai
Tóc xanh non với khuy cài áo thơm
Hàm răng mát tuổi má tròn
Đường thêu chỉ đã hao mòn đây em
Gió trời xin ngủ bình yên
Coi như giấc mộng ưu phiền đấy thôi
Mây cao với mắt trông vời
Soi gương trán bỏng quên người tôi đi”

Thơ Nguyễn Đình Toàn đấy những chỗ đi và nơi về mịt mùng tan loãng vào nhau, nơi không gian thời gian ngưng đọng từ nỗi buồn chia xa thiên cổ riêng dành.
Âm nhạc của NĐT cũng thế, cũng trong cùng nỗi đồng vọng và đặc quánh những u hoài…những âm giai và ca từ chạm đến góc khuất nhất của trái tim, để nghe những xúc cảm trào dâng, để cho kỉ niệm được thổn thức…

Quán café ở miệt Đakao đó gợi lên đúng cái không khí ấy…
…một căn-nhà-xưa, cánh cổng khép hờ như thầm lên tiếng hỏi “Có bao giờ em trở lại đây/ Đứng dưới trời cao ngửng trông mây/ Nghe gió hắt trong cây nhắc lại thời thơ dại /Cuộc đổi thay còn lại ai... “

&… khi bước vào dường như ngay lập tức “…tưởng một mùi hương nơi vườn cũ bay theo mình “ 

http://mp3.zing.vn/…/Que-Huong-Thu-Nho-Khanh-…/ZWZA0O88.html
Ở đó có “Bên hiên người cúc vàng / Bao nhiêu lần đã tàn /Còn ngậm màu lưu luyến”…”


&... “Khóm liễu bên hiên nhà nghiêng ngả/ Lá vẫy hay tay người mừng rỡ/ Và nước mắt vi vu/ Còn trong khói xanh lơ / Thầm vươn trên những mái rêu hoen mờ…”

...và đó, nghe lại, thấy lại, và yêu lại dòng nhạc NĐT - "dòng nhạc giữ lại cho mình một tình yêu đơn sơ, một niềm yêu lãng mạn dẫu đất đen dường đã len vào hồn ta, dẫu đời chẳng còn ai. Một giọt sương trong một mầm lá mỏng, một ánh trăng phai một chiếc lá mừng đổi hương nồng… Ngôn ngữ mến yêu của chúng ta đẹp hơn khi dội được vào lòng những hình ảnh những cảm niệm những tiếng khóc những nỗi niềm. Chẳng biển rộng sông dài, chẳng núi cao vực sâu, chỉ là những tiếng võ vàng khua động giữa thâm tâm. Nơi những lời không nói được, NĐT đã gói vào những âm vang ray rứt khổ đau cho mình cất tiếng. Nghe với nhau để chung hòa, hát một mình để khóc. Để khóc… Và mừng, vì chính lúc thoát ra được những âm vang ray rứt khổ đau ấy mà mình tìm lại được mình tìm lại được nhau. Mai sau dù có bao giờ…" 


IMG_0692IMG_0693IMG_0694IMG_0695IMG_0696IMG_0697IMG_0698IMG_0699IMG_0700IMG_0701IMG_0702IMG_0780


MỘC CHÂU - ĐÀ LẠT - SAIGON XUÂN 2016

MỘC CHÂU























DALAT








SAIGON







SÁCH/ BÁO CẦN TÌM
Tôi đang tìm những sách/ báo/ tạp chí ...dưới đây, nếu quý cô/ chú/ anh/ chị/ các bạn nào có, có thể chụp cho tôi xin 1 bản qua huyvespa@gmail.com,

https://www.facebook.com/huyvespa/media_set?set=a.4245084901282.1073741829.1710448283&type=3

Thanks,
Best regards, 

Tôi đa






(một tuyển tập Tribute  cho PCT do nhóm trường đại học Toulouse làm )

Nh. Tay Ngàn - "vây hãm của cô đơn" (các sáng tác trên VĂN - Saigon - trước 1975)

$
0
0



http://www.gio-o.com/MS/NhTayNganAoTheTang.htm
http://www.gio-o.com/MS/NhTayNgan_Giac-sau-chua-ro-mau-xanh.pdf 

Tay Ngàn
khua nhịp về đâu
Rừng thiêng vỡ một
ngấn sầu
rụng
hai
Nay theo bước nhỏ còn ai
Ta hơ tro cũ
tay dài dìu em.


(Viếng Nhĩ - Thi Vũ)


Nh. Tay Ngàn, một bút danh thơ mộng và bí mật, như chính cuộc đời lặng lẽ và bi thảm của tác giả. Qua mấy lời giới thiệu và một bức ảnh chân dung trên tạp chí Văn tháng 2 năm 1965, ta biết được một gương mặt thanh niên thông minh và đặc biệt điển trai, vẻ đẹp thuần túy Á châu nhưng lịch duyệt và thời thượng hơn những bạn đồng lứa. Chàng trai đó đã sống cuộc đời tuổi trẻ mãi mãi của mình ở châu Âu. Đã viết những vần thơ tuyệt đẹp nhưng cũng vô cùng tăm tối trên những chuyến tàu đi về miền Orsay, đã theo đuổi người tình đến tận thành Madrid, đã mê sảng và điên loạn trong nhà thương tâm thần Villejuif. Và cuối cùng nằm chết quạnh hiu trong căn gác nghèo ở Paris khi mới 35 tuổi. Thi hài của ông được hỏa táng ở nghĩa địa Père Lachaise, Paris, cũng là nơi yên nghỉ của Chopin, Balzac, Apollinaire, Oscar Wilde và nhiều văn hào thế giới khác...



Trong niềm cảm hoài , sửng sốt & thán phục (với 4000 trang bản thảo để lại như lên đồng của một mảnh hồn bơ vơ nơi xứ người như trong những hồi ức của người bạn thiết - nhà thơ Thi Vũ Võ Văn Ái) tôi gom góp lại đây (gần như) những sáng tác của ông trên VĂN - Saigon - trước - 1975...để "mai sau dù có bao giờ..."


P/S :
Entry này bổ sung thêm (gần như) đầy đủ các sáng tác của NH. TAY NGÀN trên VĂN - so với entry cũ cách đây 4 năm: http://huyvespa.blogspot.com/2012/07/vay-ham-cua-co-on-nh-tay-ngan.html

Những sáng tác của NH. TAY NGÀN có thể đọc thêm ở đây :

http://www.gio-o.com/NhTayNgan.html

Entry này có bổ túc tài liệu LÁ THƯ của PHẠM CÔNG THIỆN gửi NH. TAY NGÀN năm 1966 - bức thư này đăng lại trên số TRIBU PCT do nhóm SV ĐẠI HỌC TOULOUSE phát hành bản hạn chế năm 1984.




















IMG_1591IMG_1592IMG_1593















IMG_1599IMG_1602IMG_1603IMG_1605IMG_1607IMG_1608IMG_1609IMG_1610IMG_1613IMG_1614IMG_1615IMG_1616IMG_1617IMG_1618IMG_1619IMG_1620IMG_1621IMG_1622IMG_1623IMG_1624IMG_1626IMG_1627IMG_1641IMG_1636IMG_1637IMG_1638IMG_1639IMG_1640Tribu_051Tribu_052Tribu_053Tribu_054IMG_1588IMG_1589

Hoài Khanh - "Thôi nước mắt đã ghi lời trên đá / Và cô đơn đã ghi dấu trên tay"

$
0
0

NHỮNG BÀI THƠ TRÊN tạp chí VĂN 

& TOÀN BỘ

 TẬP "TRÍ NHỚ HOANG VU & KHÓI" 


lòng ta trôi chiều cũ dưới chân đèo
tranh đinhtrườngchinh


"ôi đồi thông những chiều nghiêng nhớ nắng
lòng ta trôi chiều cũ dưới chân đèo
...
rồi thôi hết đất sẽ là vĩnh viễn
bông hoa kia nở trên xứ điêu tàn
tay yếu đuối ta sẽ còn nắm lại
những lời gì xưa đã hết âm vang "

(Hoài Khanh)

Thế là thật sự từ đây "Thôi nước mắt đã ghi lời trên đá/ Và cô đơn đã ghi dấu trên tay"
Sáng nay, chụp vội vài bài thơ của người đã "ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng"đăng trên VĂN như một nén nhang tiễn đưa...

Thơ mở ra cho độc giả những khung trời miên viễn, những phút gợn sóng trong lòng, những đôi cánh bay về một miền vô định...mà ở đó, ta thỏa sức, được là bất cứ ai, hay bất cứ điều gì...chúng ta muốn.....

"Người ngửng trông mới hay tình xưa. Làm chưa xong hết cuộc tiễn đưa"(Nguyễn Đình Toàn)

Cuộc tiễn đưa nào, tiễn đưa 1 cuộc tình vừa mới nở hoa nhưng nay bỗng bàng hoàng mất trên tay, hay tiễn đưa những kỷ niệm sầu ...về nghìn trùng xa cách, hay tiễn đưa chính mình về với nỗi buồn héo hắt?

Sứ mệnh của nhà thơ hay/ và đó cũng là nỗi oan nghiệt của họ, họ phải gắn chặt hồn mình, tâm mình và thân mình với những nỗi buồn...mà đôi khi, vì quá thân thiết nên họ và nỗi buồn nhiều lúc...chỉ là một.

Hoài Khanh, đã từng "Nuốt trọn niềm đau khổ. Cho sự chết vui cười. Giữa vô cùng vĩnh viễn. Ta cuối đầu im hơi"

Những ảo hình, những tro tàn của một cuộc tình không trọn vẹn, những mùi hương- chút dư vị xót xa của cuộc yêu, những tình tự sầu bi của một THÂN PHẬN sinh lạc thời, lạc kiếp - dưới điêu tàn của một cuộc nội chiến oan khiên oằn vai ...đã hiển hiện qua thơ của ông....và trong 1 thoáng nào đó, nó cũng kịp làm rung lên trong mỗi độc giả 1 chút âm ba buồn và sâu lắng trông bộn bề cơm áo gạo tiền - giữa mênh mang những trầm khúc ấy, độc giả quay về tìm một chỗ cho mình nương náu -  "người về soi bóng mình, giữa tường trắng lặng câm"

"Con sông nào đã xa nguồn. Thì con sông ấy sẽ buồn với tôi". Dòng sông, hay chính là dòng đời, những trôi nổi, những bềnh bồng, những chếnh choáng, đó, chính cuộc sống của chúng ta, chính nỗi buồn trong mỗi con người, may quá, có Hoài Khanh, ông đã nói họ, ông đã nhìn hộ, ông đã viết hộ, cho tất cả những tâm hồn "mang mang thiên cổ sầu" ....

Có ai đó đã ví rằng "Nếu Hoài Khanh là Đời, thì thơ Hoài Khanh chính là cuộc ĐỜI lên tiếng, cuộc đời đang trở thành THƠ.."

Cuộc đời vừa mất đi một cuộc-đời sầu-bi tình-tự / một cuộc đời cô-đơn khốc-liệt...





 photo hoaikhanh_giobac02.jpg


FullSizeRenderFullSizeRender_1FullSizeRender_2FullSizeRender_3FullSizeRender_4FullSizeRender_5FullSizeRender_6FullSizeRender_7FullSizeRender_8FullSizeRender_9IMG_2092IMG_2093IMG_2094IMG_2111IMG_2121IMG_2122IMG_2096IMG_2097

TRÍ NHỚ HOANG VU & KHÓI

IMG_2011IMG_2012IMG_2013IMG_2014IMG_2015IMG_2016IMG_2017IMG_2018IMG_2019IMG_2020IMG_2021IMG_2022IMG_2023IMG_2024IMG_2025IMG_2026IMG_2027IMG_2028IMG_2029IMG_2031IMG_2032IMG_2033IMG_2034IMG_2035IMG_2036IMG_2037IMG_2038IMG_2040IMG_2041IMG_2043IMG_2044IMG_2045IMG_2046IMG_2047IMG_2048IMG_2049IMG_2050IMG_2051IMG_2052IMG_2053IMG_2054IMG_2055IMG_2057IMG_2058IMG_2059IMG_2060IMG_2061IMG_2062IMG_2063IMG_2064IMG_2065IMG_2066IMG_2067IMG_2068

Nhạc tập pre-1975 / "Hát nữa đi H. - hát điệu nhạc buồn; điệu-nhạc-quê-hương..."

$
0
0
IMG_2473FullSizeRender (3)

Sẽ nói thôi, rất nhỏ…
“Những lời này cho em”…
Sẽ hát thôi, rất khẽ…
“Hát điệu nhạc buồn, điệu nhạc quê hương”…

 “Nước mắt rơi cho tình ra đời
Nước mắt khô âm thầm không lời…”

Và nước mắt đã rơi trước hừng đông sau chót, của một ngày cuối tháng Tư nóng giãy, ràn rụa những chia phôi và hỗn mang…

Ôm choàng một khúc hát, cầm tay một giai điệu, soi vào những bừng sắc truyền cảm typo , dìu thêm những gam màu óng ánh một niềm nhớ…từ những nhạc tập thời tiền-thuyền-nhân, tôi biết mình đang gom lại những tả tơi vàng son của một Saigon đã úa nhàu, trên tay – ôi những  “gấm nhung phiền thế thời”/ tháng Tư - “dưới mặt trời ngồi hát hôn mê” - ngồi hát (lại) như đang khấn nguyện những bản cầu hồn sầu bi và diễm ảo đã vào sâu dĩ vãng, hát một mình, hát nguyện trong nhà-nguyện-riêng-tây nơi thành-phố-tình-yêu đã mục ruỗng từ dạo đó, để rồi vấy thốc lên từng lớp bụi bảng lãng giữa không trung – Thứ ”bụi khói khóc hư vô” – ôi những bụi khói làm mắt cay vô cớ… những bụi khói thời gian mịt mùng bay lên từ điển lễ khâm liệm – khâm liệm một Saigon đẹp của những “cầu vồng bắc giữa mưa và nắng” - và đó, những lớp bụi cũng từ cuộc đào huyệt một vang bóng Saigon đẹp - đẹp từ những phế tích, từ những cố-tình-huỷ-diệt, từ những vết-tích-chết, từ những “tàn hơi hám cũ” – Saigon đẹp cả đến những cái tên nhân văn của bảng hiệu những ấn quán phát hành – những cái tên mà không cần chi khác, chỉ bằng cách nghĩ để định danh từ những chủ nhân cũng đủ thấy “tầm” & “tâm” của những người muôn năm cũ: Gìn Vàng Giữ Ngọc, Khai Phóng, Kẻ Sĩ, An Tiêm…(đó là còn chưa kể bảng hiệu của những ấn quán xuất bản triệu triệu những ấn phẩm khác như Lá Bối, Diên Hồng, Khai Trí, Trí Đăng, Cảo Thơm, Vàng Son…). Ôi cái đẹp của một thời “Thi ca trong sữa lúa /Tiểu thuyết trên lụa đào”…

Sau cuộc-khổ-nạn-của-người-Việt-Nam, sau trận phần thư khủng khiếp…Những quyển sách, những tập nhạc, im lìm…chờ hát – im lìm chờ mở ra – im lìm cam phận – Hồn một thứ gì đó/ hồn một ai đó đang âm thầm nương náu – Có phải?!?
Khi hát lên những bản tình ca cũ – trí nhớ như đã ướp bằng hương. Hương thời gian dắt mình đi trên “đường xưa lối cũ” về thời “đang nâng niu cuộc tình lộng lẫy” - để thấy lại một khung trời hoa mộng, bỏ hết những thề nguyền và bội phản của những ngày tháng Tư sầu xé lệ tang thương, chỉ còn những rung vang, chỉ còn những thi-nhạc-hoạ, chỉ còn những êm đềm (& ám ảnh) những đôi mắt cô quạnh của tranh bìa Nguyên Khai, Đinh Cường, Duy Liêm, Trịnh Cung, Duy Thanh, Hồ Thành Đức…dặt dìu như một cơn mộng đẹp; những gương mặt chìm ảo như đến từ một cõi chiêm bao – cánh áo bay lên – “đổi gì được đây lấy lại thơ ngây” - những nét đẹp khó nắm giữ, như “cho lần cuối” – “gần thắm thiết trong mối sầu” nhưng cũng “xa như hình bóng, còn gặp lại nhau chăng” & những dòng kẻ nhạc – một yêu dấu đã từng - dịu dàng & mỏng mảnh…”còn tiếng hát gửi người” – gửi những gì xa ngái…

“Sài gòn trái tim anh, tim đất nước
Anh mới hiểu
Tại sao mình yêu tổ quốc
Và tại sao mình yêu dấu Sài gòn
Em cho anh nhiều, em nhớ nổi không
Tiếng hát thê lương, điệu ru kỷ niệm…”
(Saigon Trường Ca – mở đầu Saigon Ngày Dài Nhất - Duyên Anh)


Ôi những điệu ru kỷ niệm, với bảng lảng hồn đầy và đam mê tình ngất, hôm nay, một mình mình hát - tiếng hát xé mây đưa thời gian trở lại, và dừng lại - dừng lại ở thời thảm-kịch-chưa-dựng-bày, dừng lại ở thời thiên đường – dù biết “thiên đường có thật – chỉ là sự thật – khi đó là những thiên đường đã lỡ”…

“Ngày xưa em lụa đào
Anh nắng vàng xôn xao
Ôi người yêu ngọc ngà
Sợ quên em đêm nhớ
Nụ hôn đêm nào cho
Khi về còn ngẩn ngơ
Dòng sông đưa chuyện tình
Theo sóng đầy lênh đênh
Em lụa phai nhạt màu
Nụ hôn xưa rớm máu
Vạt nắng sáng nguồn cơn
Bây giờ… hoàng hôn!”
(Chuyện Tình - Duyên Anh)

 “Ngày đó chúng mình” đã hát, và hôm nay, với một lần xuyến xao được tìm lại /thấy lại bằng những khúc ca - “dung nhan mang tình yêu” chấp chới ẩn hiện về trong trí nhớ…là một cánh rừng mịt mùng thác lá đổ “nối gót người vào dĩ vãng nhạt màu” , là những ốc đảo cô đơn “đã chìm vào cơn mưa”, là những lướt thướt của chấp chới “nắng chiều”, là mãi mãi những tiếng trầm hồ cầm âm u dội vào lòng nhau vĩnh viễn một “chiều đi lặng lẽ, thương nhớ muôn bề”, là những “vì sao đêm đi về bí mật”… rơi xuống đời thành những "giọt nước mắt cho ngàn sau" - giọt nước mắt quạnh quẽ, cô liêu khi "một mình ta đứng nhìn mối tình duyên tan theo”, hay giọt nước mắt phủ xuống hồn người đã tả tơi khi "buồn rơi trên tâm hồn lẻ loi, thương hình hài con người nhỏ bé", hay giọt nước mắt hòa tan cùng "trời còn làm nước mắt rơi mau/trên vùng tuổi mưa ngâu…”, hay cũng có thể lắm chứ, giọt nước mắt vui mừng khi "có một lần tôi đưa em, đưa em về miền nắng ấm/ những con chim thôi ngủ sau mùa đông lạnh căm” - quay lại cùng từng nhánh rong trôi về nguồn, trong từng sát na của " năm tháng úa trên lưng tháng ngày", trong không gian của 1 nơi chốn "sưởi ấm những giọt tình nồng", trong từng góc phố "mưa giăng chiều nắng tàn"...và trong chất ngất những nghẹn ngào của vùng kí ức; quay về – vẹn nguyên - những buổi trưa "theo em xuống phố", những buổi chiều "ngày hôm qua trong nắng thiên đường", những buổi tối "đèn xanh đã tắt giọng hát ân tình", những ngày "dĩ vãng màu xanh trong thân yêu", những tháng "gần thắm thiết trong mối sầu", những năm "thách đố thương đau"...

"...Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thủa trần gian bay lướt qua…”
(Ta về - Tô Thuỳ Yên)

Bằng những khúc hát, ta đã về như thế… Về với dĩ vãng & ở lại vĩnh viễn bởi lẽ “Từ đây tôi sống bằng kỷ niệm” như tuyên ngôn một nhân vật từ nhà văn của tuổi hoa mộng Duyên Anh.
Những tập nhạc của một thời hoa mộng, khi anh biết yêu lần đầu - khuôn mặt của thiên đường, khi em biết yêu lần cuối - nụ cười của vực thẳm.
Hát lên đi em ơi, để không còn là những “hiu hắt quê hương bến cỏ hồng”, hát lên đi em ơi, để chờ đợi, để gom lại một chút bụi khói sương của một thiên đường đã lỡ bốc cháy.
Hát nữa đi em, để còn biết “đôi khi hạnh phúc…buồn”, để biết “trong bao kiếp hoang…vui chưa tìm thấy”.

Và hát để đưa bồng bềnh của những đám mây kỉ niệm quay về gần, một lúc nào đó, sẽ rơi rụng xuống trần gian này thành những mơ mộng mông mênh...góp đầy cho một lần thương nhớ...


“mưa thân ái trên tay 
tay mỏi rời trong tóc 
tóc nhớ ai mọc dài 
mắt nhớ ai muốn khóc 

tay của em, 
tóc của em, và 
mắt của em 
của mưa của mưa, ừ 
của mưa 
tay em tay mưa tóc em tóc mưa mắt em mắt mưa 

ôi gia tài quí báu của đời ta 
ngàn vàng không đổi được”
(Một Chút Mưa Thơm - Mường Mán)

Những “gia tài quí báu của đời ta” này…ở đây, hôm nay, hát lên trong những ngày cuối cái tháng oan khiên – tháng mà ở đó, với nhiều người, bao nhiêu năm trôi qua đi nữa thời gian mãi mãi cũng chỉ có duy nhất một – tháng mà ở đó, nửa đất nước như lên cơn đồng thiếp…

Mưa cũng đã rơi, không còn là những “móc mưa hạt huyền”, không còn là “giọt mưa tìm đến để chia lầm lỡ với người hoài trinh”, không còn là những “giọt mưa trên lá”, không còn là những “giọt mưa rớt trên tượng đá” để ai đó phải đau khổ muôn niên, không còn là những hiền như sương sớm trong tuổi đá buồn với giọt “mưa rơi mênh mang trên hai tay xuôi” …

…chỉ còn là những cơn mưa quái ác …
“qua trận gió kinh thiên”…
& mưa ... & nước mắt….
…nước mắt
sau
cơn
mưa…

“Giọt nước mắt nghẹn ngào
biển ướp muối khô tim
Giọt nước mắt oan khiên
Giọt nước mắt cô đơn
…Ôi giọt nước mắt cho những thân phận sắt se
cho những tâm hồn tái tê
cho những con người não nề…
Giọt nước mắt tỏ tình thương ngàn xưa hư vô
Giọt nước mắt tội nghiệp còn thế giới hoang vu
Giọt nước mắt tâm tư
Giọt nước mắt ươm mơ
Rơi xuống em ơi. Xanh ngọc vàng tơ…”

(Giọt nước mắt cho Việt Nam – Duyên Anh)



huyvespa@gmail.com

FullSizeRenderFullSizeRender_1FullSizeRender_1_1FullSizeRender_1_2FullSizeRender_1_3FullSizeRender_1_4FullSizeRender_2FullSizeRender_2_1FullSizeRender_2_2FullSizeRender_2_3FullSizeRender_2_4FullSizeRender_3FullSizeRender_3_1FullSizeRender_3_2FullSizeRender_4FullSizeRender_4_1FullSizeRender_4_2FullSizeRender_5FullSizeRender_5_1FullSizeRender_6FullSizeRender_7FullSizeRender_8IMG_2430

Nh. Tay Ngàn - tập thơ "Mái Đông Trơ Trọi Trăng Mù"

$
0
0


Tập thơ "Mái Đông Trơ Trọi Trăng Mù" do chính Nh. Tay Ngàn chép tay, minh họa, và vẽ tranh.

1. Áo Thề Tang Tóc Quá 
2.Hóa Kiếp Biệt Ly Tình 
3. Nàng ơi Nhìn Lệ Khúc 
4. Hạt Dưa Mở Cửa Mộ 
5. Áo Rã Dưới Tường Hoa 
6. Đường Lá In Dấu Chân 
7. Thềm Sao Vương Nữ Ngủ 
8. Sắc Rêu Làm Ước Hẹn

Tài liệu của trang gio-o.com
Typing by me





ÁO THỀ TANG TÓC QUÁ
Còn bên liễu nàng đùa sắc trắng
Ngó bàn tay chợt vẳng tiếng chân
Xa xôi hư lạnh về gần
Áo rung cánh gió biệt trần từ đây
Qua nhắn nhủ hương gầy bờ trúc
Khóc chiêm bao cơn ngực bụi mờ
Khi sương vừa đủ bơ vơ
Người trên cầu dốc bây giờ hát đưa
Xưa nàng ngủ gió mùa đầy lệ
Xưa nàng quên câu kể lá thu
Một vòm mây xuống tóc dư
Ba trăm năm nữa mịt mù đám tang
Nàng không lạ hôn hoàng hồ mộng
Thiên nga xô nước vọng niềm thương
Bóng đời ngã xuống lệ vương
Ô hay trên ấy con đường chia ly
Chưa hiểu rõ niềm suy qua trán
Vòng sang bờ liễu cạn lá xanh
Ngừng con tim nhỏ giọt oanh
Tiếng thu đánh rớt cuối quành sông im
Về chiều đã nhớ chim xa tổ
Gọi hư không bóng đổ ngõ ho
Chiếc xe quên một tuổi già
Sắc trăng liệm xuống sầu ca biên thùy
Hồ trầm ánh huyền vi vừa khép
Nàng ôi nàng chỉ đẹp thế sao
Buồn trăng ngậm tính uyên vào
Ngủ như linh tính cồn cào thịt xương.
 
ÁO RÃ DƯỜI TƯỜNG HOA
Trời đông thổi cánh bông vừa chết
Nói làm sao cho hết đơn côi
Khi xưa đứng đợi tình người
Ý duyên hương sắc môi cười lá xanh
Cành đông nối mấy cành chim ngủ
Gọi hồn theo trùng lữ tràng giang
Giọng rao tim trắng cơ hàn
Chàng còn giao hẹn tiếng đàn tri âm
Mùa đông khắp quan san từ ấy
Ngỡ tuyết rừng trỗi dậy giấc thương
Nhà xưa thắp sáng ra đường
Dệt tơ từng sợi cơn buồn ở trong
Gió đông sẽ qua dòng triều lụy
Hát không ra hôn thụy lên môi
Sống chưa xanh đọng thành lời
Cuộc đày buổi sớm nàng cười lên điên
Vườn đông rú tiếng miền vô vọng
Úp đôi tay lên bóng ma rên
Nàng ôi nàng lạnh những nền hư cung
Tiếng đông chết hãi hùng tường bấc
Điệu ma hò trên nấc thang cao
Năm năm đóng kín tâm bào
Phòng đơn còn lại một màu đen khô
Đông kéo mãi giọng mồ trao trả
Khóc đi thôi sắc đã vừa tan
Chàng nào trở lại môn quan
Hay tìm khuôn mặt võ vàng buổi xưa
Đông sang tận cuộc đùa suy vận
Áo rã rồi mỗi bận gió reo
Đêm đêm cửa mở dáng nghèo
Muốn ca khúc lệ trong veo một lần.


THỀM SAO VƯƠNG NỮ NGỦ

Thôi nàng hãy mỉm cười lần chót
Bờ hư không chim hót cuối năm
Mộng sầu ta lựa đủ trăm
Nguồn cơn lên xám lệ dầm thế gian
Lửa đã tắt sau hàng dâu đậm
Thuyền mê cung mấy chấm mù sa
Vọng miền hú tiếng phai nhòa
Dưới trên khép kín màu hoa thệ nguyền
Chim đêm rủ nhau tìm ổ tối
Giọng trầm khê hối lỗi đôi khi
Điềm luân thế chạm viền mi
Mịt mùng giục giã bước đi không hồn
Hoa trước cửa hoa vờn từ tạ
Lạ bàn chân trên lá u mê
Hóa thân lẳng lặng tư bề
Cuối mơ vụt khóc ai về gọi ta
Thôi nàng ngủ ngọc ngà theo giấc
Đường qua song gió bấc về thôn
Tướng nhi sầu đã thổi vồn
Riêng soi ảo sắc ta thường nhớ trăng
Bóng cỏ lướt mối giăn con nhện
Huyền thức trôi trôi đến vô biên
Lưa thưa kẻ hỏi vườn thiêng
Không nghe thêm nữa câu truyền bát tiên
Tan rồi mất những triền sơn đỉnh
Nàng ngủ đi kiếp tính chiêm bao
Mái đông gót nhỏ vừa vào
Dáng linh thốt lặng nghẹn ngào từ tâm
Sao lả tả rồi cầm nữ khóc
Độc hành trên tơ tóc bàn tay
Vòm uyên co lạnh cho dài
Gái xưa còn đó cánh bay về hồn
Thôi nàng giữ lệ mòn cảnh điện
Tiệc miên thâu ta quyện bóng xanh
Dù chi cũng một cuộc đành
Thức canh đồng rắn bên thành lũy cao.


HẠT DƯA MỜ CỬA MỘ
Mạt cưa trước cửa ngày mưa xuống
Khói u mê hình tượng đọt nhang
Vào canh linh cửu giấy vàng
Lá dâu bỗng héo dưới hàng nến quan
Xin trả lại giàu sang ngoài chợ
Dọn hành trang năm mớ cỏ mê
Biết xuân chọn một lời thề
Hai trăm con tóc bay về đồng hoang
Người tỉnh rượu buồn hoàng hôn nặng
Tiếng đời dư chút cặn truy hoan
Vỗ tay kêu vọng qua màn
Ôi thôi vắng vẻ đáp toàn chua cay
Hồn tử sĩ thở dài biên ải
Gở cung tên hơ hãi chạy qua
Công nương tuổi chết khóc òa
Đầu toang vết nấm độc ra đen ngòm
Nhưng áo cưới vẽ mòn hoa chức
Hát xa xa một tục đế rung
Chiều rồi bà lão lên rừng
Điếm canh trôi mút nước lưng bên vàm
Không để lại cho cam bóng sắc
Tình vừa gieo lạnh ngắt từ ly
Bước đường con ngựa vội quỳ
Rống sương thửơ cổ nguyên thùy lên trăng
Ai sầu quá cô hằng che kín
Đi không về tính đến ngàn năm
Hạt dưa rụng xuống đêm nằm
Lối sơn sọc đỏ điệu cầm nát tan
Người ngồi đợi mơ màng thổi nến
Đổi ngón tay tơ nhện lung lay
Gở xong sợi tóc u hoài
Cửa nguồn vụt tắt một bầy long sô.
 
ĐƯỜNG LÁ IN DƯỚI CHÂN
Hồn vừa đậu mái tây hoang xế
Nhận tin buồn chẳng thể nói năng
Vận người đứng sắc ăn năn
Bỗng đâu tiếng sấm trời băng dưng cười
Sau nỗi chết tên vùi mộ rộng
Nhác ngó lên kèn trống vi vu
Lão già nón ứ sương phù
Nhớ ai miệng ngậm bức thư chiêu hồn
Nhan sắc trắng còn vờn mống lửa
Vàm ảo thu nhảy múa điệu câm
Cơn hoa vụt lạy bụi lầm
Ôi ôi dấu tích vừa trăm năm tròn
Khi nhớ lại mỏi mòn trông đợi
Biển da căng ánh dọi tình điên
Cô xuân tóc chẻ đôi miền
Cánh mơ để đó mặt hiền rung rinh
Người đón cốt nhận hình thân khổ
Viết vài câu trên mớ da xanh
Thêu đôi áo vải mộng cành
Đường lên ánh sáng thiên thanh ngợp dần
Miển linh thức tần ngần cổ nguyệt
Nhủ với ai lòng huyệt bi thương
Sợi giây miên ảnh khôn lường
Đáy sâu dội lại cơn buồn xa xưa
Không hiểu nữa cuộc đùa thiên thức
Xin ngủ say trong ngực thời gian
Những vì sao ứa lệ vàng
Mong manh từng bước tan tan nhoà nhoà
Chuông cứu tỉnh căn nhà tẩn liệm
Lá còn xanh lá tím bậc thang
Giọng rừng quê cũ bàng hoàng
Hôm kia rắn nổi mấy ngàn nọc đen
Đường bụi thốc bao phen muốn tỉnh
Biển đông bay mười chín kình ngư
Vật vờ xuống bóng tử du
Yêu chưa đủ mộng sao mù tứ chi
Cửa vườn ấy mỗi kỳ hương khói
Lá khô rồi lá đợi máu rơi
Đầu tường con quạ kêu đời
Đêm chưa về sáng con người khóc duyên.
 

HÓA KIẾP BIỆT LY TÌNH
Thôi có mặt với mùa lá chết
Ngồi vườn không như vết cỏ rung
Yêu nhau giữa mộng hãi hùng
Bóng chim tiều tuỵ âm cung bàng hoàng
Họp tơ nhạc nhớ vàng cuối ngõ
Nhắn trời xanh càng nhớ hình thân
Đêm sương đủ bước linh thần
Người về nước mắt bỗng dâng khúc tình
Hoa cứ rụng lặng thinh đâu đó
Tiếng cười ai vừa rộ ngoài sân
Về đây đỉnh sáng trôi gần
Hốt nhiên tiếng sấm mộ trần nối vai
Lần khân tính lưu đày dưới bến
Gỏ mặt bàn chờ đến mùi khuya
Trông nhau hình bóng đầm đìa
Ôm nhau tựa khói đằng kia reo hò
Ngủ mù mịt nghe đò sang khóc
Nghi trên hồn hơi độc vừa rơi
Nghìn thu tiệc yếm thế rồi
Áo xanh còn lại thế thôi vải nhầu
Tin một kiếp mắt sầu không tỉnh
Gở hai bên lối mịn hoa lau
Đợi vàng bốn cảnh trước đào
Bến sa giọt lửa thốt đau bãi người
Thôi đóng khắp mộng đời xưa ấy
Thắm dung nhang trông bấy nhiêu xuân
Vì hơi u buốt thâm ngàn
Đeo rong tự tính chưa tan mỗi đời
Song ngắm lại một lời ngọt thốt
Ghì vào tim vãi đợt triều ly
Biết nay thu lạnh người đi
Qua bao vương tích những vì sao rơi.

 
NÀNG ƠI NHÌN LỆ KHÚC
Lũng chiều đốt củi rừng chi nữa
Chú tiều mang bốn cửa đêm đen
Hỏi xong cánh lạ bên đèn
Gầy gò dáng sống cài then cổng chùa
Quạ làm tổ một xưa đồi gió
Đón vòng quay tiếng mõ thâu canh
Bến xuân ôi khóc con oanh
Bãi không gian thiếu bức tranh oan thề
Rời quán lẻ khách đề thư lạnh
Bán vài điềm mơ ánh hồng bay
Ra đi vừa đúng gió bầy
Thềm rêu quái vật mang thây nỗi buồn
Ru gì nữa cảnh sương hốc đá
Nghìn âm dư vừa đã chết reo
Mặt soi ảnh tượng mốc meo
Trẻ thơ ngày ấy tóc đeo lạc loài
Quên quên hết mười tay lợp mộng
Sầu sầu lên một giọng tha ma
Ai mùa lá trắng sang nhà
Dẫn ba cô tịch như gà cửa đông
Giờ hoi hóp nhiều đồng cây đổ
Nhắn mẫu thân cốt hổ hoá mưa
Vặn đèn vừa tỏ bụi đùa
Than ôi móng cổ nguyệt vừa trái tim
Bận chín khúc dong tìm đơn chiếc
Não lòng xin chia biệt về thơ
Đẫm hoen vết nở môi hờ
Mối giây ca khúc không ngờ lời điên
Chim điên hót mấy miền người chết
Hót tới trưa cơn mệt mặt trời
Đời xưa hoạ xuống động dơi
Mẹ từ sắc ảnh sai người đầu thai
Nhưng vóc mộng thở dài bờ cỏ
Mắt đung đưa không nỡ rời trăng
Vừa trông ngõ trúc lệ hằn
Năm cô áo biếc che khăn ngập hồn
Quên quên đủ túi khôn suối ngọt
Đọng tường câu thánh thót đá xanh
Vườn trời nhơn đó ngồi canh
Mái đông ngồi đến tay đành rời tay.



Ladakh - chập chùng giữa núi tuyết : Những Có & Không...

$
0
0
IMG_4895

Chúng tôi đến với xứ sở nơi Đức Phật đã đản sanh và đạo Phật đã từng đạt đến những thành tựu cao nhất , nay, suy-tàn và dần-biến-mất : Ấn Độ… Nhưng chúng tôi đi xa hơn chút nữa, đến vùng cực Bắc của quốc gia này, nơi Phật Giáo đã rẽ sang một hướng/nhánh khác và phát triển rực rỡ, nếu không muốn nói là đang giữ lại những gì tinh tuyền & nguyên chất nhất  của hướng đi riêng của nó : dòng Phật Giáo Mật Tông – Phật Giáo Tây Tạng.

Vùng đất chúng tôi đến, được mệnh danh là “The Last Shangri-la” (thiên đường cuối cùng còn sót lại nằm giữa muôn trùng đỉnh mây & núi tuyết: Ladakh.

Ladakh nằm trong bang Jammu & Kashmir – bang này được chia làm 3 vùng - dựa vào yếu tố địa lý và đặc biệt là tôn giáo. Đó là thung lũng Kashmir, Hồi giáo với thủ phủ là thành phố Srinagar, đây cũng là thủ phủ mùa hè của bang. Phần thứ 2 là miền Jammu, Hindu (Ấn Độ giáo) , với thủ phủ là Jammu, cũng là thủ phủ mùa đông. Phần thứ 3 là thung lũng Indus, miền Ladakh, Phật giáo, với thủ phủ là Leh. Những cuộc chiến do tranh chấp miền đất Kashmir giữa Ấn Độ và Pakistan chỉ xảy ra trên 2 vùng Kashmir và Jammu, chừa lại Ladakh bình yên với trầm mặc những tu viện ẩn khuất sau màn mây.


Ladakh - bắt nguồn từ tiếng Tạng "la-days" (vùng đất của những con đèo ngang núi) - với những tu viện cổ kính u trầm cùng những làng mạc bao quanh tách biệt và xa rời với thế giới, Ladakh chứa trong mình cả Có & Không - có sự hùng vĩ của trùng điệp núi - dãy Himalaya muôn đời bí ẩn với trập trùng những đỉnh tuyết , có sự mênh mông của vô-số-kể con đèo xuyên núi mang trong lòng chúng sự phiêu-lưu-trao-tặng, có những điểm đến làm say lòng những lữ khách có máu phiêu du: con đèo cao nhất thế giới mà mô-tô có thể lưu thông được/ hồ thiêng trên 5000m so với mực nước biển, những địa hình với nhiều loại địa chất, nhiều loại đất đá mà khi băng ngang cứ ngỡ là khung cảnh của các hành tinh khác - làm say lòng bất cứ ai lỡ mang trong mình dòng máu"bàn chân nhớ đất" và suy tưởng "đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất"

"Không" của Ladakh , đến từ cái vô hình mà nó mang trong lòng, đến từ những giá trị tinh thần Phật Giáo (mà ở vùng đất này là sự ảnh hưởng sâu sắc & tận cùng của Phật Giáo Tây Tạng): những Pháp Chuyển Luân xoay vòng đêm ngày không ngừng mang những lời khấn nguyện hướng về các vị Phật của những người dân bản xứ - những "Không" của Om Mani Padme Hum chấp chới trên triệu triệu phướn nguyện mang những câu kinh và lời khấn bay mãi mãi vào vĩnh hằng - những "Không" của các chú tiểu thật trẻ sẽ dành 16 năm cho việc "học" Phật và sau đó "sẽ tiếp tục học..." - những "Không" thách thức thời gian 400-500 năm của những tu viện, những pho tượng, những bức vẽ trên tường, trong hang đá mang đậm dấu ấn Phật Giáo Tây Tạng ... "trơ gan cùng tuế nguyệt" - những "Không" của vô nhiễm từ những trao đi nụ cười...
Ladakh được xem là vùng đất lưu giữ, duy trì tiếp tục những gì thuộc về văn hoá & tôn giáo của Tây Tạng "thật" hơn cả ... Tây Tạng - trong ngữ nghĩa/khía cạnh : Tự Do của những tinh tuý này - bởi lẽ ở vùng đất khai sinh phái Mật Tông của đạo Bụt, ngày nay, tất cả phong tục, lễ nghi và ngay cả tín mạng của người dân đều bị kiểm soát dưới bàn tay của Trung Cộng : người lãnh đạo tinh thần của đất nước khổ nạn Tây Tạng : ngài Lạt M
a thứ 14 cũng đang lưu vong ngay trên đất Ấn. 

Hãy một lần đến vương quốc (đã) bị đánh mất của Tây Tạng này để đắm chìm trong nền văn hoá - được xem là một trong số ít những nền văn hóa nguyên chất cuối cùng của thế giới va chạm với thế giới bên ngoài (từ 1972) - và để chạm vào những gì vô nhiễm nhất của bí ẩn Phật Giáo Mật Tông.  


Ladakh - should be not called "little Tibet" any more thanks to its Tibetan Buddhism freedom (where you can see the Dalai Laima picture in each & every gompa (monastery); the ritual is not under any gonverment's surveilance; more than that, you can take the pictures of the ancient statue / thangka (Buddhism painting art on wall, cloth or stone) in the gongkhang (main hall). 
Ladakh - originated in Tibetan phrase "la-days" means "land of mountains passes" . With its ancient gompa (monasteries) & the oasis-like villages, this far-north region of India / the most sparsely inhabited region has its own immemsity as well as its emptiness and cannot but leave visitors enraptured and being immersed. 
Recommed by another travellers as well as trip-advisor web-site, Ladakh now is considered the only major region where the true taste of Tibetan religion and culture can be savoured.

(huyvespa@gmail.com)


IMG_3341

FullSizeRender 15_79586328



Xuyên qua trùng trùng núi tuyết sông băng, nơi-chúng-tôi-đến: thị trấn Leh hiện ra đẹp ngỡ ngàng bên dưới.
Cảnh tượng dường như siêu-thực, những mái nhà đất nhỏ lúp xúp trên một vùng bình nguyên trơ trọi, nép cạnh con sông xanh màu lục bảo.
Tôi cứ ngỡ mình sắp land xuống sao Hoả và cũng ko thể hình dung máy bay sẽ hạ cánh chỗ đâu. Lòng cũng tự hỏi người xưa đã làm thế nào để vượt các khắc nghiệt của thiên nhiên mà đến Leh lập nghiệp.

Sau hành trình bay và transit dài 24 tiếng, cuối cùng tôi cũng đến được Leh, lại được sống trong cái không khí ‪#‎Tibet‬ mà mình yêu quý, sẽ lại thấy hồ xanh trời trong và những lá cờ ngũ sắc phấp phới giữa đèo. My ‪#‎Tibetdream‬continues...

Trong suy nghĩ của tôi (và qua nhiều hình ảnh đã xem trước đây), Leh có vẻ gì đó bụi bậm - xấu xí hơn Lhasa hay Paro tôi yêu.
Nhưng tôi đã lầm, Leh cũng xinh xẻo - trong trẻo như những thị trấn Tạng tôi đã từng qua. Leh cũng có Jokhang (dù bé nhưng xinh), có walking street (như Lhasa thu nhỏ làm tui nhớ ghê nơi), có những người dân Tạng chơn chớt hiền hậu làm thị trấn nhỏ này thanh bình đến vô cùng. Ko có cảnh chèo kéo, ai chụp hình chung cũng cười thật tươi - chắc nhờ ko có người Hán xung quanh;)
Chúng tôi đến Leh cuối xuân đầu hạ, đào hồng đã chuyển xanh nhạt dần nhưng vẫn đẹp mê hồn khắp lối phố. Tháng này vẫn chưa đến mùa du lịch (Jul - Sep) nên phố xá vắng hoe, nhiều chủ shop người Ấn vẫn chưa quay lại (80% shop), khách du lịch Ấn vẫn chưa lên (vì đường bộ vẫn chưa thông, chỉ có cách bay thẳng vào Leh với giá hơi cao). Thế nên, phố xá này là của chúng tôi. Xa xa là núi tuyết, stupa và pháo đài Leh sừng sửng. Tự hỏi lòng bao nhiêu lần trong đời ta được ngồi thanh thản tự tại uống 1 ngụm Chai (trà sữa Ấn) và ngắm nhìn dãy Himalaya xa mờ xa...
(text from Võ Hoàng Việt)
FullSizeRender 24IMG_3772IMG_5471IMG_5469IMG_5284IMG_5283IMG_5282IMG_5281IMG_5218IMG_5217IMG_5208IMG_5200IMG_3779IMG_3778IMG_3777IMG_3776IMG_3775IMG_3774IMG_3773IMG_3690IMG_5200IMG_5197IMG_5196IMG_5195IMG_5194IMG_5193IMG_5192IMG_5191IMG_5190IMG_5189IMG_5188IMG_5187IMG_5186
"Dẫu chối bỏ cuộc đời để được đến với ‪#‎mây‬..."
‪#‎cloud‬
Incredible ‪#‎India‬ !!!
‪#‎đichohết1đêmhoangvutrênmặtđất‬ 
‪#‎leh‬ ‪#‎ladakh‬ #india ‪#‎onthemove‬ ‪#‎wanderlust‬ ‪#‎khardungla‬ pass
‪#‎hymalaya‬


IMG_5185IMG_5184IMG_5183


TURTUK - Ngôi làng của những gương mặt thiên thần.
Turtuk là một làng nhỏ ven biên giới, trước đây thuộc về Pakistan nhưng sau 1972, đã thuộc về India (we all know why;) thế nên người dân trong làng đều là người Pakistani và theo đạo Hồi.
Turtuk chỉ bắt đầu đón khách du lịch từ 2010 nên người dân còn vô cùng ngây thơ, hồn nhiên.
Để đến được Turtuk, bạn phải tiếp tục đi 72km đường đèo dốc từ Diksit, qua rất nhiều doanh trại quân đội, một sân bay dã chiến và những đia hình đá núi sặc sỡ khác nhau. Có ai tưởng giữa hoang mạc đá núi - lại hiện lên một ngôi làng xanh um - suối chảy róc rách - mận đào trồng khắp lối.
Nhưng lý do khách du lịch đến Turtuk ko hẳn vì mận đào , hay vì ngôi làng đẹp nhưtranh vẽ - mà vì dân làng và những em bé quanh đây. The kids here are really really special. Their faces. Their eyes. Their shyness. Their laughness. Their reaction to the outsiders.
Nhìn bọn trẻ trong làng để thấy chiến tranh đã lùi rất xa, chỉ còn lại nụ cười hoà bình trên gương mặt các em...dù chúng đang phải sống trên quê-hương-bị-đánh-cắp.
Hơn 2h đi hết hang cùng ngỏ hẻm - chơi với bọn trẻ vẫn không thể đủ, ước gì chúng tôi có cả ngày ở đây. Rời Turtuk để quay về Diksit, bỏ lại sau lưng ngôi làng nhỏ bé mọc lên giữa đá sỏi, cứ ngỡ như tôi vừa rời Shangrila - nơi thời gian/không gian dừng lại , con người và thiên nhiên hoà hợp - không có chiến tranh hay biên giới. Imagine...

IMG_5182IMG_5181IMG_5180

The largest Maitreya - Future Buddha (Phật Tương Lai) (32m height) all over the world.
IMG_4955
NUBRA VALLEY - Thiên đường xanh giữa hoang mạc xám.
Chúng tôi có 2 ngày 2 đêm ở Nubra - một cảm giác bình yên lạ lùng khi mỗi sáng ngắm tu viện Diksit và tượng Phật Di Lặc cao 35m in hình trên bóng núi, chiều lại ngồi thưởng trà giữa vườn Táo đang mùa ra hoa. Nubra thấp hơn Leh 500m, nằm cạnh con sông Shyok xanh như ngọc, nên khí hậu có phần dễ chịu và cỏ cây cũng xanh hơn.
Ngày đầu tiên ở Nubra, chúng tôi leo tu viện Diksit - được xây dựng cheo leo 1 bên vách núi, 1 bên vực thẳm thác đổ ầm ầm. Len lỏi qua những bậc thang hẹp dẫn lên chánh điện, chúng tôi được 1 bạn Tu sĩ trẻ nhiệt tình giới thiệu chi tiết về Tu viện và mời uống Chai. Bạn mặc áo tăng, đội snapback Monster và vắt trên eo...cuốn truyện India Love stories (mà lúc đầu tôi cứ tưởng cuốn kinh;). Bạn tâm sự đã tu học ở đây 2 năm. Tổng cộng bạn phải học 16 năm mới hoàn thành. Hy vọng đến năm thứ 4,5 - bạn sẽ thôi đọc tiểu thuyết ngôn tình mà toàn tâm cho Phật học...

Chiều trên tu viện nhìn thăm thẳm xuống thung lũng Nubra, thấy các chú tiểu Tăng đang chơi cricket say mê, xa xa có các vị lão Tăng đang thưởng trà và dõi theo lũ trẻ, trên cùng là đức Maitreya vĩ đại đang dõi mắt theo nhịp sống chậm trôi - dường như mọi ý niệm hối hã của không gian và thời gian chẳng bao giờ tồn tại nơi miền đất Phật này. Bình yên đến lạ...
(text from Võ Hoàng Việt)

IMG_4953IMG_4952IMG_4940IMG_4937IMG_4915IMG_4901IMG_4900IMG_4899IMG_4898IMG_4897IMG_4896IMG_4895IMG_4893IMG_4892
Kinh cầu trên đỉnh trời...
Highest motorable ‪#‎road‬ in the world
Highest on-hi-pass ‪#‎cafeteria‬ in the world
Above 5000m from the sea
‪#‎hymalaya‬
‪#‎đichohết1đêmhoangvutrênmặtđất‬
‪#‎leh‬ ‪#‎ladakh‬ ‪#‎india‬ ‪#‎onthemove‬ ‪#‎wanderlust‬ ‪#‎travel‬
‪#‎khardungla‬ ‪#‎top‬ of the ‪#‎world‬




IMG_4824IMG_4710IMG_4652IMG_4651IMG_4650IMG_4649IMG_4648IMG_4625IMG_4622IMG_4621IMG_4593IMG_4592IMG_4510IMG_4509IMG_4482IMG_4481IMG_4474IMG_4472IMG_4470IMG_4463IMG_4428IMG_4423IMG_4422IMG_4421IMG_4420IMG_4418IMG_4410IMG_4380IMG_4376
Leh- Manali. Cung đường huyền thoại. Đẹp kinh khủng khiếp. Chạy dọc theo dòng Indus xanh huyền hoặc. Qua những địa hình đá/núi khác nhau. Cứ như đi từ sao Hoả qua sao Mộc lại đến sao Kim. Cuối cùng dừng lại tại tu viện Lamayuru mọc sừng sững giữa một vùng bình nguyên nâu tro như Mặt trăng.
Now I know why they call this Moonland Monastery.
(text from VHV)IMG_4375IMG_4345IMG_4292IMG_4250IMG_4228IMG_4195IMG_4194IMG_3789IMG_3788IMG_2760IMG_2719_79666500IMG_1531IMG_1530_79681156IMG_1529IMG_1527
An 8-hour road trip from Leh town to Tsomoriri lake at the altitude of 5000m, going to roadway along Himalayas mountains range was being in obstacles and danger under-constructed yet truly breathtaking views. One-night memorable lifetime of us... been staying at Nomadic house in condition of no power, no water, no heater at - 7 degree freezes... We have been in serious altitude sickness all night long. It was, finally, able to catch sunrise, the sightseeings lovely rewarded for what experiences had been in...
IMG_1525


THAG-THOK. Tu viện dòng Ninh Mã.
Tibetan Buddhism có 4 dòng phái, trong đó Ninh Mã là dòng đầu tiên - dễ phân biệt với 3 phái còn lại nhờ mang mũ đỏ (nên còn gọi là Hồng Mạo Giáo).
Sau 3 năm liên tiếp được chạm ngõ Phật giáo Mật tông (Tibet, Bhutan, Ladakh), đây là lần đầu tiên tôi đến được 1 tu viện dòng này.

Thagthok là một tu viện nhỏ với Dukhang (chánh điện) được xây ngay trong 1 hang núi. Trong hang tối âm ẩm, lạnh buốt; các tượng phải đặt trong cửa kính để tránh ẩm mốc.
Lúc chúng tôi đến, các sư đang làm lễ chiều - 1 sư tiểu lãnh nhiệm vụ chia phần ăn và...tiền cúng dường cho các sư cả & sư huynh. Tôi còn vô tình chộp được cảnh 1 sư đang vào Facebook trong khi các sư khác đang tụng kinh;)
Các tu viện và tu sĩ ở Ladakh vô cùng thân thiện và cởi mở. Họ mời chúng tôi chai (trà sửa Ấn), bánh thánh và cả cơm trưa - cho phép chụp hình chung, đi lại tham quan trong lúc họ làm lễ - và đặc biệt họ được tự do thờ Dalai Latma ngay giữa điện chính. Có lẽ vì vậy mà nhiều trang du lịch đã recco nếu bạn muốn sống với không khí Phật giáo Tây Tạng đúng nghĩa - hãy đến với Ladakh, thay vì Tibet...
(text from Võ Hoàng Việt)

IMG_1454
TSOMORIRI - Hồ thiêng mùa băng giá và đêm dài như thế kỷ.
Dù mới chỉ ngày 2 của cuộc hành trình, chưa kịp làm quen với độ cao của Ladakh, chúng tôi đã chọn đi con đường khổ-ải nhất, xa xôi nhất để đến với Hồ thiêng cao nhất Tsomoriri, nằm ở độ cao 4500m so với Leh chỉ 3600m.
8 tiếng ngồi lặt-lẹ trên xe, qua những cung đường zigzag nhiều đá học, qua những trại binh to vật vả, những túp lều du mục với bầy cừu hàng trăm con, qua những làng mạc thưa thớt nằm ép mình bên dòng Indus xanh như ngọc - 4h chiều xe chúng tôi đến Hồ thiêng.

Cả mặt hồ vẫn còn đóng một lớp băng dày cộp, dưới sức nóng của mặt trời đầu hạ, nghe rõ mồn một tiếng băng dần rã kêu răng rắc.
Chúng tôi đến làng Korzok khi trời dần sụp tối, Korzok là 1 làng du mục hiếm hoi cạnh hổ, phần lớn thời gian người dân đi du canh du cư (tháng 10 đến tháng 4 năm sau khi nhiệt độ mùa đông ở đây xuống đến -20 độ ?!?). Đến hè họ lại về làng trồng trọt, chăn nuôi và thêm những năm gần đây là làm du-lịch.
Chúng tôi chọn ở 1 homestay gần tu viện Korzok, thật ra cũng ko nhiều lựa chọn vì nhiều nhà trọ vẫn chưa mở lại. Căn phòng chúng tôi ở chưa đến 10m2 nhưng cả bọn đều quyết chui vào chung 1 phòng vì quá lạnh. 4/7 chiến sĩ đã ngả gục vì độ cao, vì thiếu oxy và vì đường quá xấu.
Tối đó chúng tôi được ăn món thịt dê gác bếp, món meat duy nhất được bà chủ kiếm ra, hăng hái lấy tay bỏ phân bò vào nhóm củi, và cũng cánh tay ấy cắt xé thịt dê (?!?)
9h cả bọn đã lên giường trong cơn đau đầu liên hồi vì thiếu oxy. Người thì rên ư ử, người thì tím tái, người thì vômit cả đêm. Tôi cũng ko tránh khỏi cơn đau đầu đeo đuổi cả đêm dù đã kinh qua Namtso Lake, ngủ chập chờn 1/2 tiếng lại dậy - mong trời sáng mau mau để ngắm mặt trời mọc rạng ngời trên hồ băng.
5h30 sáng tôi bắt đầu leo từng bước nhọc lên đỉnh đồi sau làng để đón ánh bình minh đầu tiên. Cảm giác của 2 năm trước khi đầu đau như búa bổ vẫn ráng vượt-qua-chính-mình để đón bình minh ở Namtso lại hiện về.
Và cảm giác ấy vẫn vẹn nguyên - thật tinh khôi - trong trẻo, tự nhủ có bao lần trong đời bạn gần ông mặt trời đến vậy?...

(text from Võ Hoàng Việt)

IMG_1275IMG_1250FullSizeRender 50FullSizeRender 48FullSizeRender 37FullSizeRender 36FullSizeRender 35FullSizeRender 24FullSizeRender 14_79506187FullSizeRender 13_79621890FullSizeRender 13FullSizeRender 11FullSizeRender 4_79506750FullSizeRender 4IMG_3437IMG_3436IMG_3435IMG_3433Snapseed_79620546IMG_5601IMG_5569IMG_5478IMG_5477IMG_5472IMG_5471IMG_5468IMG_5467IMG_5466IMG_5421IMG_5417IMG_5284IMG_5215



Hội An - vàng trước ngõ trong ngần áo lụa...

$
0
0

Những bụi phấn vàng, những bóng nắng vàng, những mảnh tường vàng, những bài hát vàng ... gieo trong không khí một ‪#‎hoian ‪#‎faifo êm đềm trong cái vàng vọt hun đốt của nắng hè...
Vàng lên cõi nhớ, dư vị êm êm võ vàng của một giấc mơ, một sát-na của mùi hương thoảng qua- mang tên là kỷ-niệm - "vàng trước ngõ/ trong ngần áo lụa" có thể chạm vào được, ở đây: Hội An!
"Xin úa hoa cho sầu/ và xin bướm đưa em vào / ngày mưa sẽ gây cho lòng em nhớ..."



IMG_6655



IMG_6656IMG_6657IMG_6658IMG_6659IMG_6660IMG_6686IMG_6687IMG_6773IMG_6774IMG_6775IMG_6776

The phenomenal wooden-carving masterpiece since 1875 in the un-commercial "pagoda" takes my breath away! 
@‪#‎hoian‬ 

IMG_6781IMG_6782IMG_6783IMG_6789IMG_6793IMG_6795IMG_6796IMG_6797IMG_6815

VỀ MỘT MÙA XUÂN DỰ TƯỞNG (HOÀI DIỄM TỪ) (Xuân Hồng Tuổi Ngọc 1973)
Tạm thời đưa em về bên đó
Thắp ngày vui rũ sạch áo hoàng hôn
Ta sẽ lấy nhau như những tin đồn
Tiệc thời gian mượn mùa xuân làm chứng
Gió bớt lạnh bởi có tình hâm nóng
Trời có buồn mây trắng sẽ làm quen
Ta sẩy chân vào chốn ưu phiền
Hãy bình tĩnh ướp đời nhau bát ngát
Hãy thong thả mở phơi tình tươi mát
Đợi bướm về ăn cưới những cành hoa
Anh sẽ đưa em đi hỏi từng nhà
Tìm tuổi thơ lầm than trong trí nhớ
Ta dắt dìu nhau trở về quê cũ
Thả thuyền con cùng khai hội dòng sông
Em đừng quên hát mừng tuổi ruộng đồng
Vì mái tóc chở đầy hương lúa mới
Tạm thời gửi mùa xuân về bên đó
Nắng chia vui lộc biếc nở đầy cành
Trong trái tim giáp mặt những đường ranh
Những ngã rẽ đưa người chung một lối
Không còn ai trong tình buồn đứng đợi
Em thẹn thùng tô một chút son tươi
Tựa vai anh trang điểm lại môi cười
Lòng ấm cúng như mặt trời mới mọc
Em xõa tóc đắp hồn nhau thơm ngát
Anh bỏ phố rêu bỏ núi bỏ rừng
Cầm tay em soi bóng xuống dòng sông
Nghe vũ trụ nói tình yêu thành thật.


IMG_6825

Nguyễn Tất Nhiên - "Sao THIÊN THU không là THIÊN THU" - chiều nhạc tưởng nhớ NTN - 24/07/2016

$
0
0

Bên Nhau (Nguyễn Tất Nhiên) - Nhật Hạ

Bên nhau chút nắng vương vương tóc ngắn chiều lắng
Bên nhau lướt thướt sương giăng sướt mướt đôi lòng
Bên nhau dắt díu tay đan ngón yếu qua cầu nuối nắm nhau tình đau
Bên nhau ánh mắt vương tơ tóc buốt vào tim
Bên nhau thấy Chúa không cho đất hứa chung về
Bên nhau thấy thế gian ngăn chắn lối chung đời
Ngồi bên nhau tiêu điều
Xin cho những nụ hôn ngắn ngắn hơ ấm khi gió lay em gầy vai
Xin cho những nụ hôn nhớ đời đỡ nâng người những cơn đau lẻ loi
Em bay tóc ngắn cho mây ướm nắng chiều tan
Cho cây cuối xuống bao dung bóng lá ân cần
Cho tôi sống nuối như tia nắng cuối không đành về bên kia chân ngày.


Ngàn năm rộng cửa thiên đường khổ đau (hay thơ, văn Nguyễn Tất Nhiên trên Tuổi Ngọc)<---
"Tôi đã nguyện làm cây thánh giá đứng chơ vơ trên chót đỉnh cô đơn nhìn bụi thời gian rong rêu lên đời mình cô quạnh.
Tôi đã xin làm giọt mưa vỡ trên mặt người yêu dấu.
Tôi đã quì ngay trên nát tan mình xưng tụng tình yêu, ngưỡng vọng người yêu hiền dịu như “ma soeur” tuyệt vời như thánh nữ.
Từ muôn thưở nhân loaị vẫn ưa nhìn những màu sắc buồn thảm. Tình khúc tuyệt vời, vả chăng, là khổ đau chất ngất.
Khi một tác phẩm đã thành hình, đã được ném vào mênh mông cõi trần gian hệ luỵ thì “nói năng chi cũng thừa”.
Cám ơn người đã bước vào tình khúc tôi. Hay nói khác đi cám ơn người đã mang lấy tình tôi"
NGUYỄN TẤT NHIÊN đọc lời phi lộ cho băng nhạc của chính mình NHỮNG NĂM TÌNH LÂN ĐẬN phát hành năm 1984 USA
NGUYỄN TẤT NHIÊN - người 23 năm trước , 3/8/1992 đã dựng lên một THIÊN THU cho chính mình, đã trả lời câu hỏi "Sao thiên thu không là thiên thu?" bằng cách đi vào thiên thu trong một cơn ngủ không trở dậy trong một xe hơi cũ, dưới bóng cây trong 1 sân chùa ở Cali...


Và từ đây, những bài nhạc của PHẠM DUY phổ thơ gã si tình lãng mạn “bởi yêu em nên sầu khổ dịu dàng”:

1/ ANH NAM KỲ DỄ THƯƠNG (tên khác: ANH VÁI TRỜI) (phổ thơ bài CÔ BẮC KỲ NHO NHỎ) – DUY QUANG

2/ CÔ BẮC KỲ NHO NHỎ (phổ thơ bài ĐÁM ĐÔNG)– DUY QUANG / DON HỒ / TUẤN ANH

3/ EM HIỀN NHƯ MA SOEUR (phổ thơ bài MA SOEUR) – DUY QUANG / DON HỒ / SĨ PHÚ/ THÁI CHÂU

4/ HAI NĂM TÌNH LẬN ĐẬN (phổ thơ bài cùng tên) – DUY QUANG / SĨ PHÚ / TRẦN THÁI HOÀ / KHÁNH LY 

5/ HÃY YÊU CHÀNG (phổ thơ bài OANH) – THÁI HIỀN / DUY QUANG + TUẤN NGỌC + ELVIS PHƯƠNG

6/ THÀ NHƯ GIỌT MƯA (phổ thơ bài KHÚC TÌNH BUỒN) – LÊ UYÊN / KHÁNH LY / NGỌC LAN / JULIE / DUY QUANG / THÁI CHÂU + DUY QUANG 

BONUS : VÌ TÔI LÀ LINH MỤC (NGUYỄN ĐỨC QUANG phổ bài thơ LINH MỤC) – DON HỒ / KHÁNH LY / NGỌC LAN 








Nhà thơ đã từng có một ước mơ khá nhẫn tâm khi muốn ban phát cho người yêu của mình một niềm "vì ta phải khổ" ("Để người tên Duyên, đau khổ muôn niên")...đã từng có rất nhiều bài thơ trác tuyệt mang đầy không khí và hơi hướm của/ về Saigon, mặc dù ông chẳng mảy may gì nhắc về địa danh thân thương này, dù là nửa chữ...trong những bài thơ mà hàng hàng lớp lớp thanh niên trước 1975..không ít thì nhiều....để ở đầu giường! Thơ của ông tình đến nỗi...mà chỉ có thơ mới chuyên chở được hết..cái tình ..thơ ấy! Nó là một sự tổng hòa của mãnh liệt (từ những) ngây ngô, của đằm thắm (khởi nguồn từ) ao ước, của những rung cảm (đến từ) tinh khôi...khi bắt đầu chạm ngưỡng ...đời sống, chạm những rung động đầu đời của cái thời mà văn thơ vô cùng diễm tuyệt, những mối tình chỉ là e ấp của "Bước khẽ tới người thương"(Nhã Ca), của giả định"Ví dụ ta yêu nhau"(Nguyễn Thanh Trịnh/ Đoàn Thạch Biền), của lời ngỏ "Cám ơn em đã yêu anh"; của mơ màng "Hôn em, kỷ niệm" (Duyên Anh) của ấm êm "Như con mèo ngái ngủ trên tay anh"(Võ Hà Anh)... như thế, mà thôi!

Chắc cũng bởi, những hình ảnh trong thơ của ông đủ sức nhắc nhớ về 1 thời mà "vùng tuổi xanh" còn đang miệt mài chắp chới những mộng lành chưa tan, và như thế , cũng đủ để bất cứ ai cũng giữ trong lòng...một Saigon rất riêng, khi đọc thơ ông! (mà chắc, cũng bởi, nhiều người đã ví Saigon như một "thục nữ", một hình ảnh rất "kịp tóc" nào đó...và những mối tình của ông Nhiên, cho một người tình nhỏ, hay một người tình lớn...thì có khác nhau gì mấy.



Saigon từ những lúc....

"...Đèo nhau qua đoạn đời này

Cầu Trương Minh Giảng nghe đầy hoàng hôn
Mưa rỉ rả, mưa nguồn cơn
Mưa đâm lóc thịt, mưa dầm thuộc da…
Chở em đi học mưa nhòa
Đường loang loáng nước lập lòa loáng cây
Lạnh vừa đủ siết vòng tay
Run đi em để sau này… nhớ nhau…"

(CHỞ EM ĐI HỌC TRƯỜNG ĐÊM)
...cho đến ...những khi lo lắng ..dùm cho người thương...
"Ngày thi sắp gần kề rồi đó nhỏ
Nhỏ lo năm mà ta ngại tới mười
Sợ bài thi làm nhỏ biếng môi cười
Ta thật sự nghe lòng đau khôn xiết
Ta tưởng tượng nếu nhỏ mà thi rớt
Nhỏ sẽ buồn như những lá thu bay
Lệ thắm nồng ướt đẫm chiếc khăn tay
Như có dạo nhỏ buồn ta phải đỗ
Ta tưởng tượng nếu nhỏ mà thi đỗ
Nhỏ có mừng chưa chắc đã hơn ta
Nụ nhỏ cười sẽ rực rở như hoa
Nỗi sung sướng ửng hồng đôi má đỏ
Ngày thi đã gần kề rồi đó nhỏ
Ta không thi nhưng hồi hộp lạ thường
Đêm ta nằm cầu mong Chúa xót thương
Cho nhỏ đỗ dẫu ta… người ngoại đạo"
(CHO NHỎ NGÀY THI)

...hay thậm chí..
"Ta tiếc dùm ai từng sợi tóc
Rụng lẻ loi sầu trên vai ngang"
(HỒNG TRẦN)

Đặc biệt nhất là 2 bài thơ viết gợi hứng từ 2 con đường ở Saigon....ngoài tiêu đề, không còn nhắc chi về Saigon, hay về 2 con đường đó, nhưng có lẽ, nó (phải) là 2 bài thơ hay, nặng tình (và táo bạo) nhất về Saigon!

"Hôn rách mặt mà sao còn nghi ngại?
Nhớ điên đầu sao cứ sợ chia tan?
Mỗi lòng người một lý lẽ bất an
Mỗi cuộc chết, có một hình thức, khác
Mỗi đắm đuối có một mầm gian ác
Mỗi đời tình, có một thú, chia ly
Chiều nắng âm thầm chào biệt lũ lá me
Lá me nhỏ, như nụ cười hai đứa, nhỏ
Tình cũng khó theo thời cơm áo, khó
Ta dìu nhau đi dưới bóng nợ nần
Em bắt đầu thấy ân hận, chưa em?
Vì lỡ nói thương anh, cái thằng quanh năm túng thiếu
Ân hận, có, thì hãy nên, ráng chịu
Hãy xem như cảnh ngộ đã an bài
Như địa cầu không thể ngược vòng quay
Như Chúa, Phật phải cam go trước giờ lên ngôi Phật, Chúa
Tình cũng khó theo thời cơm áo, khó
Nên mới yêu, mà cư xử rất vợ chồng
Rất thiệt tình khi lựa quán bình dân
Khi nói thẳng: “Anh gọi cà phê đen bởi hụt tiền uống cà phê đá”
Mỗi cuộc sống thăng trầm, phải mua bằng nhục nhã
Mỗi mặt trời, phải trả giá một hoàng hôn
Đêm, chẳng còn cách khác tối tăm hơn
Nên mặt mũi ta đây, bùn cứ tạt
Môi thâm tím bận nào tươi tắn, hát
Em nhớ vờ hoan hỉ vỗ tay, khen
Để anh còn cao hứng cười duyên
Còn tin tưởng nụ hôn mình, vẫn ngọt
Khăn tăm tối hãy ngang đầu quấn nốt
Quấn cho nhau, quấn bạo, quấn cuồng điên
Vòng sau cùng sẽ gặp quỷ Sa Tăng
Bởi hạnh phúc mơ hồ như Thượng Đế
Đời, vốn không nương người thất thế
Thì thôi, ô nhục cũng là danh
Mình nếu chọn đời nhau làm dấu chấm
Mỗi câu văn đâu được chấm hai lần."

(HAI HÀNG ME TRÊN ĐƯỜNG GIA LONG)

"Em còn nhỏ làm sao mà biết được
Ta oặn mình trong những khổ tâm riêng
Em còn nhỏ làm sao mà biết được
Đời buồn hiu như lá rụng, ban đêm
Chiều đã kêu chiều bằng tiếng gió
Lòng ta u uất cũng kêu nhau
Em còn nhỏ làm sao mà biết được
Nụ cười nào báo hiệu cơn đau
Nụ cười nào chỉ là hơi thở mệt
Của một thằng mạt gọng, rán, phong lưu
Nụ cười nào phát âm từ đáy ngực
Đã gần như những tiếng ho khan
Chiều đã kêu chiều bằng tiếng gió
Trong ta đêm xuống rất bạo tàn
Mưa với nắng dẫu chung trời, chung đất
Mà quanh năm bắt buộc tránh nhau hoài
Ta với người bắt buộc, phải chia hai
Làm sao em biết trời đau đớn
Làm sao em lớn bằng ta lớn
Để chung cùng công việc: đứng than thân
Để chung cùng rõ nghĩa thêm , hơn
Phía nào khác của biến từ “chóng mặt”
Em còn nhỏ làm sao mà biết được
Áo cơm hành bủn rủn thiên tài
Học thói người xưa ta cạo đầu bán tóc
Chưa đủ tặng em nửa chiếc áo dài
Em còn nhỏ làm sao mà biết được
Ta với đời, thực sự chẳng nương nhau
Ta với đời, tất nhiên thua cuộc
Vì áo cơm là những ngọn lao
Em còn nhỏ làm sao mà biết được
Mỗi nụ tình ẩn chứa một loài sâu
Và , khi em thấm nhuần ê ẩm
Ta sợ tài ta đã rũ nhầu"

(VÀI ĐOẠN VIẾT Ở ĐINH TIÊN HOÀNG)
...Và vì thế, cùng với những câu thơ....
"Chiều em vui quá, thuở vàng son
Ta bỗng lang thang khắp ngã đường
Ta đi cho hết thời oanh liệt
Cho thấu một trời đau đớn riêng !"
(THỤC NỮ)

...tôi "lang thang khắp ngã đường"đi tìm riêng cho mình 1 góc khác của Saigon....
Thì đó, cũng "bởi yêu em nên sầu khổ dịu dàng"...!


Những bức hình chụp Saigon của 5 năm về trước, thời Saigon còn bùng binh Cây Liễu … Với lời comment của nhà văn Viên Linh:

“ Nhìn những góc giáo đường nhà thờ Đức Bà, một khung cổng sắt thâm nghiêm, nhìn bồn nước và mấy bậc thang cũ kỹ, hoen rỉ, những lưới sắt bao kín một ngôi nhà (khiến mình hình dung có dáng người thanh thoát nào đó bên trong); nhìn cây cột xi măng ở con đường Duy Tân bóng mát, nhớ con rùa trong hồ nước, chỗ ấy gần Trường Luật, gần khu Cư xá các giáo sư Đại học, bác nhớ những lời ca của Phạm Duy “Con đường Duy Tân, Cây dài bong mát, … Uống ly chanh đường, Uống môi em ngọt…” 37 năm rồi từ ngày bỏ Sài gòn, bác chưa về lại, và ngạc nhiên tìm thấy Sài gòn cũ qua cái nhìn của Huy, một chàng trai trẻ măng mà nhìn thấy vẻ đẹp của thành xưa cổ kính. Bác nhớ những buổi trưa ngồi Lambretta xẹt vào Bưu Điện mua một bao thuốc lá Pall Mall điếu dài, một cái bánh mì, hôm nào không ăn bánh mì thì thay bằng một cái bánh “Papa au rhum” (bánh ngọt có pha rươu rhum, hình thể tròn, để trong cái chén bằng giấy, nổi tiếng của tiệm bánh ở ngoài cửa Bưu Điện). Huy chụp được cả mấy chùm hoa phượng đỏ tươi . Không nói ra mà bác thấy Huy vừa đi vừa ngước nhìn lển trời xanh, nhìn hoa lá cành, những mái nhà, bờ tường, cột sắt, tượng đá. Saigon, Paris của Viễn Đông như ngưởi Pháp nói. Đó là khu Phố Tây của Sài gòn đấy. …” Huy là một thi sĩ đấy, thi sĩ làm thơ về sự thanh vắng của lá cành, vỉa hè, hoa viên, làm thơ bằng ống kính máy hình, chụp được sự im lặng dữ dội - [! chữ này hay đấy, của cô gì đấy bác mới đọc! ] – cái nghịch lý của một chữ như thế mới diễn tả được nét đẹp làm ta đau thương. Gửi Huy một bài thơ về Sài gòn đăng báo khoảng năm 1970. 

BÀI NÓI CHUYỆN MỞ ĐẦU 
CHIỀU NHẠC "THIÊN THU" TƯỞNG NHỚ NGUYỄN TẤT NHIÊN
24.07.2016
San Jose - USA

https://vietbao.com/a256058/san-jose-chieu-tho-nhac-nguyen-tat-nhien-nong-nan


Sao thiên thu không là xa nhau?
nên mưa xưa còn giăng ngang hồn sầu
tôi đứng như cây cột đèn gẫy gập
và một con đường cúp điện rất lâu
Thiên thu, đối với chúng ta, là bất tận. Đối với nghệ sĩ, đối với thi sĩ, thiên thu là sự tuyệt đối trong nghệ thuật, là lý tưởng của thi ca. Khi say mê theo đuổi lý tưởng đó, thi sĩ tìm ra hạnh phúc. Nhưng vì không thoát được quá khứ, thi sĩ phải tỉnh táo lại, va chạm vào thực tế, nhận ra thiên thu kia không có trên thế giới này, và sẽ đặt câu hỏi:
Sao thiên thu không là thiên thu?
Bi kịch của người làm thơ, bi kịch của Nguyễn Tất Nhiên, bắt đầu từ đó.
“Thiên Thu” là bài cuối trong tập thơ “Thiên Tai” của Nguyễn Tất Nhiên. Những bài trước, như “Khúc Tình Buồn” mà Phạm Duy phổ nhạc dưới tựa đề “Thà như giọt mưa” hoặc “Linh mục” mà Nguyễn Đức Quang phổ ra thành “Vì tôi là linh mục” cho người đọc thấy một Nguyễn Tất Nhiên đang lạc trong một “thiên thu” mà không hề đặt câu hỏi. Thiên thu được xếp vào cuối tập thơ Thiên tai là điều hợp lý. Sau cơn mê say, sau cơn ảo tưởng, khi trở về với thực tại, thi sĩ bắt đầu chiêm nghiệm về lý tưởng của mình, và bắt đầu đặt câu hỏi. Và thi sĩ bắt đầu phải đối mặt với sự thật.
Sao thiên thu không là xa nhau?
Sao xa nhau không là thiên thu? Để nỗi sầu của thi sĩ trở thành nỗi sầu bất tận, để thi sĩ không nhận ra mình bất lực, như cột đèn dựng lên để soi sáng con đường, nhưng đã bị gẫy đổ, để cho “con đường [ bị ] cúp điện rất lâu”.
Đang “chạy vòng vòng”, đang “chạy mòn chân”, đang “nào hay đời cạn”, thi sĩ bừng tỉnh, thấy mình như cột đèn đã gẫy, không còn khả năng để soi sáng đường đi.
Hơn mọi bài khác, “Thiên thu” cho ta thấy được chân diện mục của nghệ sĩ Nguyễn Tất Nhiên: luôn theo đuổi lý tưởng của nghệ thuật nhưng không thoát khỏi cuộc đời thực, nơi thi sĩ phải đối diện với những khuyết điểm của mình, của thơ. Muốn thiên thu thực là thiên thu, thi sĩ chỉ còn con đường duy nhất là rời bỏ cõi thực.
Nhưng tại sao thi sĩ không ngủ quên trong mê say để khỏi va chạm vào thực tế? Nguyễn Tất Nhiên không quên được vì quá khứ mãi chắn ngang. Nguyễn Tất Nhiên bị “mưa xưa giăng ngang hồn sầu”, bị “nắng xưa làm hanh mái tóc nhầu”, bị “mây năm xưa còn vương trên tay phiền”, bị “tình xưa đốt cháy âm thầm”, và bị “mặt trời xưa còn gượng huy hoàng”. Nói tóm lại, Nguyễn Tất Nhiên bị những cái XƯA làm cho mình không quên được, không thoát được, thực tại.
Mỗi khi bị quá khứ bắt kịp, buộc Nguyễn Tất Nhiên phải đối mặt thực tại, nhà thơ ĐỨNG lại. Tôi đứng như cây cột đèn gẫy gập
. . .
Tôi đứng như xe tang ngừng ngập
. . .
Tôi đứng như tường vôi luống tuổi
. . .
Tôi đứng như căn nhà nám lửa
. . .
Tôi đứng như dòng sông im lặng
. . .
Tôi đứng một mình trong nghĩa địa ...
Nguyễn Tất Nhiên phải đứng lại để chiêm nghiệm về hành trình tìm thiên thu của mình, tự biến mình thành nhân chứng cho thực tại, cho cái hữu hạn, cho sự bất lực của nhà thơ. Và để tự thấy mình đã bị gẫy gập như cây cột đèn, ngập ngừng như chiếc xe tang chưa muốn đưa quan tài đi chôn vào lòng đất, thấy mình cằn cỗi như tường vôi, sắp sửa bị đốt cháy như căn nhà nám lửa, im lặng như dòng sông không có sóng đưa thuyền, để rồi đứng giữa nghĩa trang tìm hiểu sao thiên thu lại không là thiên thu . . .
Ngày trước, Bùi Giáng cũng tìm thiên thu của thi ca nơi mùa xuân trước mặt.
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau.
Bùi Giáng không băn khoăn về những gì bỏ lại ở sau lưng. Quá khứ là một giấc ngủ dài, chỉ có mùa xuân, lý tưởng của thi ca phía trước là quan trọng. Bùi Giáng không đặt câu hỏi về cõi thực, nên thơ ông không bị dằn vặt, không có tính chất bi kịch của nhà thơ trẻ Nguyễn Tất Nhiên.
Sao thiên thu không là chôn sâu?
nên nắng xưa còn hanh mái tóc nhầu
tôi đứng như xe tang ngừng ngập
và một họ hàng khăn trắng buồn đau
Nguyễn Tất Nhiên không chôn sâu được cuộc đời thực, vẫn để nó ngập ngừng như chiếc quan tài chưa chịu bị chôn vùi vĩnh viễn. Có nghĩa là Nguyễn Tất Nhiên dạo ấy, thuở còn ở ngưỡng cửa tuổi trưởng thành, đã ao ước thiên thu nhưng không dám đi vào thiên thu. Để rồi nhà thơ phải đặt câu hỏi quan trọng nhất, một câu hỏi mà ông không muốn trả lời: Sao thiên thu không là thiên thu?
Sao thiên thu không là thiên thu?
nên những người yêu là những ngôi mồ
tôi đứng một mình trong nghĩa địa
và chắc không đành quên khổ đau!
Nhà thơ muốn tìm một tình yêu tuyệt đối, nhưng chỉ có được những mối tình ngắn ngủi trong cuộc sống phù du. Nhà thơ muốn quên mà không quên được cuộc đời thực, cuộc đời hữu hạn, nên đành nói chữa: Và chắc không đành quên khổ đau.
Năm 1992, năm Nguyễn Tất Nhiên được 40 tuổi, nhà thơ đã đi tìm thiên thu, đã giã từ quá khứ, đã chấp nhận rời cuộc sống thực để quên khổ đau. Và huyền thoại Nguyễn Tất Nhiên đã trở thành thiên thu từ đó.
Đỗ Quý Dân





13686666_10209035650061772_448805831022081354_n13882414_10209030171244805_8730576137895089892_n13782253_10209030173124852_2166956966603900057_n"BUỔI CHIỀU THIÊN THU"
CHƯƠNG TRÌNH ÂM NHẠC THÍNH PHÒNG TƯỞNG NHỚ NHÀ THƠ NGUYỄN TẤT NHIÊN TẠI TRIANON THEATER, SAN JOSE, CALIFORNIA 24/7/2016
(Bài đăng trên Phương Đông Times thứ Sáu 29/7/2016)
Với tôi, đã là Thiên Thu thì không có phân định không gian hay thời gian nữa, đó là sự vô tận, là miên viễn mãi hoài. Nhưng tôi vẫn muốn gọi tên cái buổi chiều hôm ấy là buổi chiều Thiên Thu! Buổi chiều chỉ dành cho thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên và niềm vọng tưởng của tất cả chúng ta đến anh.
Vượt qua một hành trình dài gần hai tháng đi dọc hết chiều ngang của nước Mỹ, chặng gần cuối khi trở về của tôi là San Jose, California, thành phố vùng tây bắc xinh đẹp của Hoa Kỳ, nơi sẽ diễn ra chương trình ca nhạc Thiên Thu dành cho tài hoa thi ca Việt Nam Nguyễn Tất Nhiên. Trong chương trình này, tôi có mặt với tư cách là một người làm thơ… hát cho một người làm thơ!
Đêm cuối ở Nam Cali cùng những người bạn văn nghệ gồm có nhà thơ Lê Giang Trần, Nguyễn Lương Vị, nhạc sĩ Lai Ton Dung, KTS. Phạm Vũ, Hải Hoa Phượng… Chúng tôi đã ngồi nhắc nhớ nhiều kỷ niệm về nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên, một nhân vật khá dị biệt của thi ca Việt Nam và cũng là một người bạn thân thiết của những người bạn vong niên đáng kính của tôi, sau đó chúng tôi chia tay nhau vào lúc 2 giờ sáng thứ Bảy để lên xe của KTS. Phạm Vũ nhằm hướng bắc mà đi. Đến San Jose trời đã quá trưa, nhạc sĩ Trần Quảng Nam đã chờ sẵn ở điểm hẹn để đưa đến nhà nhạc sĩ Nguyên Nhu, chủ nhiệm CLB âm nhạc San Jose. Hôm đó là bữa tập sau cùng trước ngày diễn. Lúc tôi đến mọi người đã khá đông đủ, ban nhạc thật hùng hậu gồm 3 guitars (trong đó có nam ca sĩ Duy Hùng con nhạc sĩ Phạm Duy, Công Dũng cùng nhạc sĩ Nguyên Nhu), 3 violons (Cường Trần, Giao Vũ, Zing Nguyễn), 1 saxophone là nghệ sĩ Trọng Khôi và tất cả cùng phối hợp dưới sự dẫn dắt tài ba của nghệ sĩ piano Vũ Huân. Lần lượt các ca nhạc sĩ thay phiên nhau cùng tập dợt với ban nhạc trong khi đó thì hai người dẫn chuyện là nhà thơ, luật sư Đỗ Quý Dân cùng nhà thơ Nguyễn Vũ Nhã đang trao đổi kịch bản ngoài sân vườn. Mọi người có vẻ háo hức tập luyện và nóng lòng chờ giờ khai diễn cho chiều hôm sau. Buổi chiều chủ nhật Thiên Thu.
Lúc còn ở Việt Nam, nhà thơ Nguyễn Vũ Nhã đã từng bày tỏ với tôi về ý định tổ chức đêm thơ nhạc cho nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên sau gần 10 năm tính từ lần tổ chức đầu tiên trước đó. Hôm nay anh cũng là người sốt sắng nhất trong các khâu chuẩn bị cùng với người bạn thân là nhạc sĩ Trần Quảng Nam và các cộng sự của CLB âm nhạc San Jose. Câu hỏi đặt ra là: Tại sao cái tên Nguyễn Tất Nhiên lại gây sự chú ý đến như vậy? Với tôi, đơn giản anh là một người làm thơ tài hoa, có số mệnh đặc biệt và sự ảnh hưởng sâu rộng đến giới thưởng ngoạn, đặc biệt là những người yêu thơ tình.
Nguyễn Tất nhiên sinh năm 1952 tại Biên Hoà, Đồng Nai. Anh là cựu học sinh của trường Trung học Ngô Quyền, Biên Hoà. Năm 14 tuổi (1966) đã cùng người bạn thân là Đinh Thiên Phương ra mắt tập thơ đầu tay “Nàng Thơ Trong Mắt”, nhưng tập thơ gây tiếng vang của ông là tập “Thiên Tai” xuất bản năm 1970, với bài thơ “Thiên Thu” nằm ở cuối tập sách. Sự phát tiết quá sớm của một tài năng thi ca và tính cách ngông cuồng, dị biệt đã như một dự báo bất an cho Nguyễn Tất Nhiên về cách anh xuất hiện và rời khỏi cuộc đời này. Nguyễn Tất Nhiên thành danh sớm, thơ được nhiều nhạc sĩ nổi tiếng phổ nhạc (như Phạm Duy, Nguyễn Đức Quang, Anh Bằng…), những người thuộc thế hệ ông sống thường chép tay những bài thơ, ca khúc phổ thơ gắn chặt với tên tuổi ông như Chiều Trên Đường Hồng Thập Tự, Như Màu Nắng Sân Trường, Khi Nào Em Vượt Biển (tự viết cả nhạc và lời), Em Hiền Như Masoeur, Thà Như Giọt Mưa, Hai Năm Tình Lận Đận, Hãy Yêu Chàng, Anh Vái Trời, Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ… (Phạm Duy phổ nhạc), Trúc Đào (Anh Bằng), Vì Tôi Là Linh Mục (Nguyễn Đức Quang) v.v… Bấy nhiêu đó đã đủ nói lên sự tài hoa và khả năng sáng tạo đa dạng của một nhà thơ trẻ tuổi bạc mệnh.
Vượt biên năm 1980 cùng gia đình, lúc đầu Nguyễn Tất Nhiên sống lưu vong ở Pháp. Sau đó không lâu ông di cư qua Mỹ và chỉ sống đến năm 1992, tự kết thúc đời mình ở năm 40 tuổi, cái tuổi được gọi là “Nhi bất hoặc”, như mọi thứ đã “định” rồi! Trong dịp này, tôi cũng có gặp anh Nguyễn Hoàng Nam là em trai của nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên từ Nam Cali lên dự, một lần nữa anh khẳng định bút danh Nguyễn Tất Nhiên là do chính ông tự đặt cho mình chứ không dùng tên thật là Nguyễn Hoàng Hải đã ký. Câu chuyện này đã có một thời gian tranh cãi đình đám trên các mặt báo cách đây không lâu.
Vé của chương trình Thiên Thu đã được bán hết từ trước đó. Buổi chiều Chủ nhật hôm ấy tại nhà hát Trianon, San Jose đã không còn một chỗ trống. Đây có thể được xem như một bất ngờ dành cho một chương trình nhạc thính phòng đậm đặc màu sắc kinh viện và cổ điển. Khán giả hầu hết là những người đứng tuổi. Họ đến rất sớm và chăm chú theo dõi cho đến tận giờ cuối chương trình. Các ca sĩ đến từ Nam California như Nguyên Khang, Nhật Hạ, khách mời đến từ trong nước là thi sĩ Bùi Thanh Tuấn (người viết) và các nghệ sĩ địa phương như Nguyên Nhu, Trần Quảng Nam, Duy Hùng, Đỗ Quý Dân, Nguyễn Vũ Nhã, Đồng Thảo, Vĩnh Thanh Thảo, Anh Tuấn, cùng với sự có mặt bất ngờ của hoạt náo viên Hoàng Tuấn (Quê Hương Media) đã cùng nhau tạo nên một không gian âm nhạc trang trọng nhưng rất phong phú và đạt hiệu quả nghệ thuật cao.
Như trong đề từ dẫn nhập vào chương trình, nhà thơ – luật sư Đỗ Quý Dân có nói “Hơn mọi bài khác, “Thiên thu” cho ta thấy được chân diện mục của nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên. Ông luôn theo đuổi lý tưởng của nghệ thuật nhưng không thoát khỏi cuộc đời thực, nơi thi sĩ phải đối diện với những khuyết điểm của mình, của thơ. Muốn thiên thu thực là thiên thu, thi sĩ chỉ còn con đường duy nhất là rời bỏ cõi thực.
Nhưng tại sao thi sĩ không ngủ quên trong mê say để khỏi va chạm vào thực tế? Nguyễn Tất Nhiên không quên được vì quá khứ mãi chắn ngang. Nguyễn Tất Nhiên bị “mưa xưa giăng ngang hồn sầu”, bị “nắng xưa làm hanh mái tóc nhầu”, bị “mây năm xưa còn vương trên tay phiền”, bị “tình xưa đốt cháy âm thầm”, và bị “mặt trời xưa còn gượng huy hoàng”. Nói tóm lại, Nguyễn Tất Nhiên bị những cái XƯA ấy làm cho mình không quên được, không thoát được thực tại”.
Có phải vì không thoát được cái thực tại mà Nguyễn Tất Nhiên đã tự cố ý tấn công vào chính những tình si của mình nên ông đã chọn lối thoát đi về Thiên Thu ở thời điểm mà trần gian không còn tồn tại nữa…?
Seattle July 28/ 2016
BÙI THANH TUẤN

& 1 SỐ SƯU TẬP "MỚI" của Huyvespa về 

NGUYỄN TẤT NHIÊN trên tạp chí VẤN ĐỀ/ 

VĂN...
FullSizeRender_5 (2)FullSizeRender_6FullSizeRender_7FullSizeRender_8FullSizeRender_9FullSizeRender_10FullSizeRender_11FullSizeRender_12IMG_7249 (2)FullSizeRenderFullSizeRender_1FullSizeRender_2FullSizeRender_3FullSizeRender_4website counter
free hits
Track My Website

Dalat - cùng đếm bao nhiêu ngày hoang...

$
0
0
IMG_9015IMG_9016

“…tay yếu đuối ta sẽ còn nắm lại/ những lời gì xưa đã hết âm vang…” (Hoài Khanh)
Không như các tác phẩm (ít ỏi) khác về Đà Lạt, vượt trên những miên man của kỷ niệm rời, cả những đoản khúc hồi ức lảng bảng mây mù và sương khói, những ký vãng từ những con đường/ những con dốc/ những ngôi nhà/ những bài hát… Nguyễn Vĩnh Nguyên đi vào Đà Lạt từ một đám mù sương khác… Đám sương phủ xuống từ khí quyển đặc trưng và trí quyển đậm chất Đà Lạt - thành phố (dành cho những tâm hồn) cực đoan (trong ngữ nghĩa lưu đày chính mình trong niềm “khoái cảm” của yêu thương/ của từ bỏ/ của lãng quên/ của một mình/ của dâng hiến/ của rốt ráo kiếm tìm/ của tĩnh lặng/của “phận người”…)
Mưa và mù sương ôm ấp thành phố cao nguyên này, ôm ấp những tâm hồn dưới lũng tình yêu này, từ đó, Nguyễn Vĩnh Nguyên đi tìm những lời giải cho câu hỏi “cái gì” từ Đà Lạt níu chân và giữ lại những mảnh hồn từng một “thời” được nuôi nấng bên trong nó (mà không thể là một “cái gì” từ bất kỳ thành phố nào khác) để rồi chính những mảnh hồn đó “nhập thế” vào chính Đà Lạt – trong im ắng / hoang vu / lặng lẽ - trong một cách nói nào đó, những tan-vào-thành-phố này chính là sự “dữ dội” của “căn tính” Đà Lạt, hơn thế nữa, những tìm đến và phục dựng những khuôn-mặt-Đà-Lạt được khắc hoạ trong một khoảng thời gian bị hư-vô-hoá 1954-1975 càng khiến cho cuộc “du hành” này của tác giả giải ảo thêm được nhiều “ẩn ức” thú vị…
Những gương mặt đã xa, những câu chuyện đã qua, những chìm lấp trong sương mù Đà Lạt; tất cả như tan ra, nhưng chưa biến mất mà như nhoà lẫn vào nhau, trong thinh không Đà Lạt, một chút bụi khói thời gian vấy thốc lên bao phủ quanh tôi khiến tôi thấy mình bỗng như mắc kẹt trong chính thực-thể-Đà-Lạt ấy…Mắc kẹt trong chính những kỉ niệm riêng tây đang quẫy đạp trong tiềm thức...
Đó là những ngày trôi qua ở Dalat (Dalat trôi qua hay ta trôi qua?) những ngày buồn buồn, những ngày đèm đẹp, những ngày mà mỗi nhịp phách mưa là một khúc requiem mơn trớn / xoa dịu vùng - bất - an của bất kỳ lữ khách nào (mưa từ đỉnh cao hay mưa từ vực sâu?)
Những ngày ở Dalat là những ngày đọc Đoàn Minh Phượng, đọc và biến mất vào cái đám tro bụi mù sương ấy, đọc về những đám mây của Dalat (để rồi thẫn thờ Dalat có thật hay Dalat không có thật?!?)
Níu xuống một vạt rừng đẫm sương chiều cô quạnh, rót nghiêng một mặt dốc có hoa xanh và lá vàng, thả cho bát ngát bay những gió chiều hoang vu tha thiết trôi ngược về những mặt hồ xanh thẫm… là ta có một Dalat…
Hãy đổ lá xuống thành một dòng thác nhỏ. Mưa suối lá mang theo mùi hương xa ngái. Phải chăng là mùi của một lặng im thông Cam Ly một-chiều-nào-chúng-ta, mùi ngọt ngào của hồng Trại Mát đến-và-đi-phiêu-du-như-gió, mùi thơm-như-môi-hồng đào hồ Tuyền Lâm của mùa xuân nào phôi pha, và cả mùi nhẹ bay của bàng hoàng sương nữa, sương sớm Suối Vàng hay từ những giọt lệ đầu ngày ướt trên mi Thung Lũng Hồng…Nghiêng tai để nghe tất cả những mùi hương-xa ấy là ta có một Dalat…
Cây cuối xuống và lá rụng đầy hồn người, sợi chiều trói mình vào khoảng mông lung, rớt trên lưng chừng đèo một tiếng chim xao xác…
Trong tiếng chim chiều hoang liêu ấy, chợt vang vang một ý nghĩ ngông cuồng ngày cũ của Thiện…là ta (lại) có một Dalat (nguyên bản và vô nhiễm) “Tất cả lịch sử Việt Nam đã chết trong tôi. Tôi muốn tất cả nước Việt Nam bị tiêu diệt và chỉ chừa lại thành phố Đà Lạt mà thôi. Chỉ có Đà Lạt mới xứng đáng là Việt Nam trong tất cả mọi ý nghĩa thiêng liêng nhứt và thơ mộng nhất của Việt Nam. Hãy để tất cả thế giới bị tiêu diệt và chỉ xin chừa lại Đà Lạt …”
Hát một cơn mưa xao xuyến dội về, để rồi có một Dalat chìm trong ảo ảnh - hãy đến với Dalat như đến với một bóng hình (đã kịp) chìm khuất, như đến với một huyền thoại mất và cũng như vậy, đã đến với một hồn hiu quạnh còn.
Huyền thoại mất & hiu quạnh còn… của Đà Lạt và cho Đà Lạt hôm nay hiển bày trong chuyến du khảo này , trên lối dẫn của một “dòng hương khói bay” - dòng “hương xa” & “như thấy kiếp xưa bước nhẹ về”.

huyvespa@gmail.com

Another review http://nhilinhblog.blogspot.com/2016/10/da-lat-et-jentends-siffler-le-train.html

IMG_6975IMG_6978IMG_6990IMG_7005IMG_7019IMG_7020IMG_7021IMG_7607IMG_7638IMG_7639IMG_7640IMG_7710IMG_7711IMG_7721IMG_7745IMG_7746IMG_7748IMG_7749IMG_8614IMG_8604IMG_8719

website counter
Stats For Free

http://nguoidothi.vn/vn/news/am-thuc/quan-mon-cua-ban/5366/nguyen-vinh-nguyen-tim-lai-da-lat-thoi-huong-xa.ndt

Nguyễn Vĩnh Nguyên: Tìm lại Đà Lạt thời hương xa



“Trong những chuyến trở về Đà Lạt, tôi luôn nghe những người đồng hành (cũng vì quá yêu mến Đà Lạt) và cả cư dân ở đó nữa, than thở đại ý: “Chất Đà Lạt đã mất rồi”, “Bây giờ ngồi ở Đà Lạt mà nhớ Đà Lạt”. Tôi tự hỏi: Cái sự mất mát của Đà Lạt là gì, nguyên nhân cụ thể thế nào? Và tôi du hành ngược về quá khứ để tìm câu trả lời” - Nguyễn Vĩnh Nguyên chia sẻ khi dự án khảo cứu độc lập của anh kéo dài trong ba năm vừa khép lại. Trong tháng 9.2016, cuốn Đà Lạt, một thời hương xa (du khảo văn hóa Đà Lạt 1954-1975) của tác giả này ra mắt bạn đọc.
Vì sao anh chọn Đà Lạt làm đối tượng trong cuốn du khảo đầu tiên?
Tôi có một sự gắn bó đặc biệt với Đà Lạt. Cuộc sống khoảng 5 năm (1997-2001) ở Đà Lạt cho tôi nhiều kỷ niệm đẹp thời tuổi trẻ. Trong suốt thời gian 15 năm chuyển về sống ở Sài Gòn, những khi mệt mỏi, chao đảo, tôi thường vác ba lô đi Đà Lạt một mình, với tâm thế vừa là một lữ khách tìm khuây, vừa là kẻ trở về ngôi nhà an lành trong ký ức. Tôi thấy thành phố đổi thay từng ngày; luôn đặt dấu hỏi trước sự “xa lạ” nhanh chóng của cảnh quan, khí hậu, không gian văn hóa và tâm tính thị dân.
Về bối cảnh rộng, tôi thấy Đà Lạt có tuổi đời hơn một thế kỷ, rất nhiều người “yêu điên đảo” thành phố đó, nhưng công trình nghiên cứu, khảo cứu, ghi chép ký ức cộng đồng về Đà Lạt lại thiếu vắng. Giới nghiên cứu, am tường Đà Lạt rất mỏng, hầu hết đã lớn tuổi, họ sống lặng lẽ, thanh đạm và kín tiếng... Trong khi đó, những người ít chịu bỏ công nghiên cứu thì lại chọn đám đông nhỏ hẹp để khẳng định.
Một số sách viết về Đà Lạt ấn hành trong khuôn khổ địa phương này, tôi tình cờ đọc thấy nhiều điểm sao chép trên mạng dễ dãi và cẩu thả. Vậy là tôi chọn cách âm thầm làm một điều gì đó. “Điều gì đó”, trước hết là để tháo gỡ phần nào những câu hỏi mình tự đặt ra, rồi sau đó, là biết đâu đó, sẽ là một gợi ý để những người có ưu tư với Đà Lạt đồng hành.
Đường phố Đà Lạt 1961. Ảnh tạp chí Life
Vì sao lại là giai đoạn 1954-1975?
Như bạn biết, với hầu hết các đô thị trung tâm văn hóa của miền Nam trong khoảng 1954-1975, kể cả Sài Gòn, đến nay vẫn là một khoảng mờ mịt vì nhiều lý do, trong đó vấn đề lớn nhất đó chính là sự khó khăn về nguồn dữ liệu nền, đầu vào và sự khó khăn đầu ra cho công trình. Đà Lạt không là ngoại lệ. Đà Lạt thời thực dân (từ lúc hình thành đô thị đến khoảng 1950) thì nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã tiếp cận khá thấu đáo.
Riêng giai đoạn 1954-1975 hay trước một chút, thời Hoàng triều cương thổ thường dừng lại ở những ghi chép, hồi ức. Những tác phẩm có tính chất khảo cứu của tác giả trong nước viết rất thiếu vắng, hoặc rơi vào tình trạng phải đạo, định kiến ý hệ vẫn thường thấy ở các công trình “lễ lạt” nhà nước đầu tư. Nhiều sự thật về giai đoạn này còn lẩn khuất đâu đó trong sương mù dày đặc. Và cũng chính sương mù, sự che đậy, ẩn mật đó có sức quyến rũ đặc biệt với tôi.
Anh có thể nói rõ hơn về khái niệm “hương xa” được dùng cho Đà Lạt?
Đó là exotisme, những cuộc du hành, trải nghiệm và biểu hiện văn hóa ở những truyền thống, không / thời gian khác lạ. Tôi không muốn nhìn cái nhìn quen thuộc áp vào định kiến “thực dân”. Tôi muốn đặt trục nhìn trên giác độ văn hóa: người Pháp kiến tạo Đà Lạt như một thủ phủ trên cao trong cuộc du hành “hương xa” về Đông Dương (trong thời điểm phát triển rực rỡ nhất, thành phố này có tới 5.600 cư dân phương Tây - năm 1944; đây là vườn ươm nòi giống Pháp ở vùng Viễn Đông). Nhưng nói tới du hành văn hóa cũng là nói tới sự phản hồi của bản địa trước những cuộc du nhập của văn hóa đến từ “kẻ khác”.
Thời hậu thực dân, về chính trị, khi người Pháp mất ảnh hưởng, những trí thức miền Nam được hấp thụ các giá trị Tây học lại lên Đà Lạt để nhàn dật, nghiên cứu, theo đuổi học thuật và sáng tạo.
Phạm Duy nói đại ý rằng, ông thấy ở Đà Lạt một đời sống châu Âu ngay trên đất nước mình. Trong khoảng đầu thập niên 1960, những chàng trai tuổi đôi mươi như: Đinh Cường, Trịnh Công Sơn, Phạm Công Thiện... chọn Đà Lạt để sống những tháng ngày “thơ mộng và giang hồ”, suy tưởng và băn khoăn. Trông ảnh tư liệu, bộ dạng họ đôi khi như thể “nhập vai” những Albert Camus, Jean-Paul Sartre hay các văn sĩ Thế hệ Bỏ đi (Lost Generation) Mỹ từng ngang dọc ở Paris những năm tuổi trẻ. Đà Lạt là giấc mộng Paris, là khát khao đón “gió thổi đồi Tây” của nhiều trí thức, nghệ sĩ theo đuổi “hương xa” trong tâm thức dĩ Âu vi trung (lấy châu Âu làm trung tâm)... thời hậu thuộc địa.
Tôi muốn nhìn Đà Lạt như giao điểm, hay sản phẩm của những cuộc kiếm tìm hương xa trong quá khứ.
Từ phải: Marybeth Clark, Nguyễn Văn Trung, Phạm Duy, Đinh Cường, Khánh Ly, Thái Lãng, Đỗ Long Vân chụp trong triển lãm tranh Đinh Cường ở Alliance française de Dalat, Noël 1965. Ảnh Đinh Trường Chinh cung cấp
Việc tiếp cận tài liệu giai đoạn ấy hẳn có nhiều khó khăn?
Đa số báo chí, văn học, công trình trước tác tư tưởng giai đoạn này ở miền Nam đang nằm trong các kho hạn chế của các thư viện, với những nguyên tắc hành chính đầy phi lý, ấu trĩ hoặc nằm rải rác trong “giang hồ” giới sưu tập, buôn bán sách báo cũ mà muốn thủ đắc, phải chịu giá cắt cổ nếu không có mối quan hệ tốt...
Nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên tại thư viện tỉnh Lâm Đồng. Ảnh TL
Tôi may mắn được một số sự giúp đỡ để có thể đi vào kho hạn chế của vài thư viện ở Đà Lạt và Sài Gòn. Cách giữ gìn tài liệu thô sơ, việc “cầm tù” chúng bằng các quy định nghiêm ngặt khiến tôi nghĩ không chừng chỉ mười năm nữa, nhiều thứ quý giá sẽ xuống cấp, thất thoát... Tôi đã nghĩ rằng, cho đến chừng nào mà các tàng thư vẫn bị khoanh vùng “nhạy cảm” hay “hạn chế” thì chừng đó, hiện tại còn đứt gãy với quá khứ, tương lai sẽ nghèo nàn và bạc màu vì thiếu vắng tính kế thừa tự nhiên.
Cũng vậy, đời sống đô thị chỉ giàu có, sang cả khi mà chúng ta biết công nhận những giá trị đô thị đã được kiến tạo từ trong lịch sử.
Chuyện ăn, ở, tổ chức thời gian... ở Đà Lạt của anh ra sao trong quá trình thực hiện dự án này?
Thường cuối tuần tôi vác ba lô đón xe đêm về Đà Lạt. Chuyện gõ cửa tá túc nhà bạn bè, người quen lúc 4 giờ sáng là bình thường. Nhưng những chuyến đi xác định lên làm việc với lịch trình quá dày, thì tôi thường ở nhà nghỉ, thuê xe máy để đi lại. Một căn phòng giá bèo, một chiếc xe chạy ổn, vậy là đủ. Có những chuyến tôi chìm đắm trong các tàng thư, các kho hình ảnh, miên man với các cuộc tiếp cận đến độ chẳng rảnh để đi phòng trà nghe nhạc hay để ý tới khung cảnh bên ngoài... Về khoản ăn uống la cà, tôi tự nhận là “thổ địa” Đà Lạt, lo gì.
Chất văn học trong cuốn du khảo này của anh sẽ được thể hiện như thế nào?
Các nhân vật, hiện tượng trải rộng trên rất nhiều lĩnh vực. Có những lĩnh vực hẹp, chuyên sâu. Chính vì thế, tôi chọn một văn phong dung hòa, vừa phải để bạn đọc bình thường có thể tiếp nhận. Một đôi chỗ tôi cho phép mình tung tẩy bằng lối “phục dựng” riêng. Ví dụ như về nhạc sĩ Lê Uyên Phương, tôi chọn ba bài viết trong cuốn Không có mây trên thành phố Los Angeles (Lê Uyên Phương, truyện và tùy bút - NXB Tân Thư, Hoa Kỳ, 1990) đọc nhuyễn chúng rồi quẳng cuốn sách đi, ngồi để “viết lại” như một truyện ngắn kể về cậu bé tên Lập lớn lên trong thành phố Đà Lạt từ giữa thập niên 1940 đến thập niên 1950 với một tình yêu âm nhạc mãnh liệt. Hay trường hợp ông Nguyễn Bạt Tụy, một học giả của Đà Lạt, một trí thức nổi tiếng miền Nam, tôi chọn cách đi sát theo những tài liệu ngôn ngữ, dân tộc học đã công bố để bước qua những thêu dệt, huyền thoại hóa, cố gắng dựng lại một chân dung từ rất nhiều mảnh ghép rời rạc...
Đà Lạt là thiên đường sáng tạo, nhưng cũng là nơi nhấn chìm rất nhiều đại thụ vào trong sương mù của hư vô. Việc dấn bước vào sương mù để tìm thấy họ, với tôi là một thử thách đầy thú vị.
Từ phải: Trịnh Công Sơn, Tôn Nữ Kim Phượng và Đinh Cường trong triển lãm tranh Đinh Cường ở Alliance Française de Dalat, Noël 1965. Ảnh Đinh Trường Chinh cung cấp
Sau khi hoàn tất cuốn sách, anh cảm thấy những thắc mắc ban đầu của mình về Đà Lạt đã giải quyết xong chưa?
Mọi thứ mới chỉ bắt đầu. Tôi cảm thấy cuốn sách vẫn chưa đủ. Đi vào tâm hồn, căn tín của một đô thị là một hành trình không thể giải quyết ngắn ngày và đơn giản gói trong một, hai cuốn sách; mà phải là một cuộc tri hành lâu dài. Nhất là với một đô thị bị vây phủ bởi quá nhiều lớp “sương mù” huyền thoại và định kiến!
Suy nghĩ và quan niệm của anh về Đà Lạt trước và sau khi khi thực hiện cuốn sách du khảo về Đà Lạt có chênh nhau điểm nào không?
Trước đó, tôi có một cuộc khảo sát cá nhân khá ngẫu hứng, dưới dạng nhật ký, tản mạn. Kết quả cuộc khảo sát đó là cuốn Với Đà Lạt, ai cũng là lữ khách (NXB Trẻ, 2014). Một Đà Lạt trong cảm nhận riêng tư, Đà Lạt trong thời của tôi. Khi đem đối chiếu một Đà Lạt của những người đến trước, lịch thời, sẽ thấy có ít nhiều khác biệt về hoàn cảnh, điều kiện, tâm thế nhưng cũng có một thứ tôi tin là hóa giải được, khiến tôi hiểu, đồng cảm với họ, đó là một tinh thần tịnh mặc, một tình yêu chân thành, một cuộc truy cầu hiểu biết và sáng tạo.
Cá nhân anh có nghĩ Đà Lạt sẽ tìm lại được giá trị của mình - thành phố trí thức và văn hóa như đã từng?
Tôi không đủ quyền năng để trả lời câu hỏi này. Như đã nói, tôi chỉ làm công việc của người khảo cứu, ghi chép, kết nối tư liệu để cố gắng dựng lại thời hoàng kim của một đô thị trong tư cách đặc khu đại học, một sinh quyển trí thức lý tưởng hôm qua. Hành trình đó cũng mới chỉ vỡ vạc bước đầu. Với những gì tìm kiếm được, tôi nghĩ sẽ giúp người đọc có một cách kiến giải sâu hơn về cái gọi là “sự mất mát” của Đà Lạt trong sâu xa, cốt lõi là gì. Từ đó, hy vọng sẽ suy tư tiếp về cách thế làm sao để hạn chế “sự mất mát” đó hay liệu có thể phục hưng, sáng tạo lại giá trị sang cả đã từng cho Đà Lạt chăng?

Đà Lạt, một thời hương xa dự kiến dày 400 trang, có trên 220 hình ảnh tư liệu mới, cũ. Cấu trúc gồm hai phần: Du hành thời gian và Không gian đã mất. Phần Phụ lục liệt kê những cơ sở giáo dục tiêu biểu, các trung tâm văn hóa, nghiên cứu, du lịch, các hoạt động của thanh niên, đoàn hội trong đô thị Đà Lạt.
Những nhân vật gắn bó với Đà Lạt giai đoạn 1954-1975 được chọn khảo sát: Nhất Linh, Hoàng Nguyên, Nguyễn Bạt Tụy, Phạm Duy, Phạm Công Thiện, Lê Uyên Phương, Đinh Cường, Trịnh Công Sơn, Linda Lê... Các hiện tượng: tự trị đại học, sáng tác âm nhạc, sinh hoạt văn nghệ, cà phê một thời, đường sá tiêu biểu, nếp sống gia đình đặc thù Đà Lạt... cũng được tái hiện, phân tích.

 Trâm Anh thực hiện



Nguyễn Thị Hoàng - "định mệnh còn gõ cửa" (tuyển truyện từ VĂN part 2)

$
0
0



Trước khi nổi tiếng với tác phẩm đầu tay VÒNG TAY HỌC TRÒ, Nguyễn-thị-Hoàng xuất hiện trên văn đàn với chất giọng thơ lạ và lẩn khuất đâu đó là một niềm sầu sâu thẳm rất đàn bà như trong những bài thơ ký dưới tên Hoàng Đông Phương trên VĂN….

Em đợi anh về những chiều thứ bẩy
Hiu hắt vòm trời buổi sáng thứ hai
Nhạc dạo mơ hồ trong tiếng mưa bay
Thành phố ngủ quên những ngày chủ nhật”

“Cho em xin một chiều vui thứ bẩy
Có nhạc phòng trà có lá me bay
Tiếng gió reo vui đêm dài xa lộ
Nửa cuộc đời còn khoác kín vòng tay”
 

..Người ta chỉ biết nhiều đến Nguyễn-thị-Hoàng khi bà nổi lên với ồn ào scandal “Vòng Tay Học Trò”...
Nhìn gần hơn có thể thấy, Vòng Tay Học Trò – xuất hiện nhiều kỳ trên 1 tờ báo khá “chính thống” là Bách Khoa và ký tên là Hoàng Đông Phương bắt đầu từ 1966 – ngoài là  thành công đầu tay khiến Nguyễn-thị-Hoàng đường hoàng bước vào “chiếu trên” trên văn đàn từ những năm đầu thập niên 60,  trong một chừng mực nào đó là 1 cơn déjà-vu..xảy ra đến 2 lần với bà..

Trong một bài phỏng vấn với Mai Ninh, bà Nguyễn – thị - Hoàng đã nói rõ & nói kỹ về quyển này như sau
Chán chương trình, không khí ở Văn khoa, Luật, bỏ học, đi làm không lâu lại bỏ việc này (thư ký riêng của một tỉ phú) 1960, tìm việc khác 1961. Được bổ nhiệm về Nha-Trang dạy học, trường nơi đây từ chối; chuyển lên Đà-Lạt. Trường nữ dư giáo sư, trường nam thiếu nên xảy chuyện “hoa lạc giữa rừng gươm”, 1962. Năm sau bỏ Đà-Lạt. Mùa hè 1964, một xấp pelure5 ố vàng, một cây bút gì đó, viết một hơi một tháng, VTHT. Bách khoa in mấy kỳ, thiên hạ xôn xao. Nhưng sau đó chuyển cảnh qua chồng con, bản thảo VTHT xếp lại. Đến 66, một nhóm tìm kiếm VTHT, xuất bản. Tái bản 4 lần trong vòng mấy tháng. Sóng gió nổi lên từ mọi phía, vì những lý do và động lực khác nhau. 5 tờ báo, cùng nhất loạt lên tiếng phê phán, chỉ trích, tóm lại là chửi bới. Rất tiếc cuộc biển dâu cuốn trôi không còn một mảnh tài liệu nào, còn trí nhớ NTH thì chỉ gạn lọc lưu trữ những gì tốt đẹp. Hình như nhân danh hay đại diện phụ huynh học sinh, nhà trường gì đó có lên tiếng trong một bài báo. Không có những phản ứng trực tiếp tương tự như trong phim đối với cuốn truyện, còn gián tiếp thì không biết.
Khi viết, với không phải viết cái gì đã sống, mà trên khung cảnh, sự kiện, nhân vật của khoảnh khắc thoáng qua “trong vai” cô giáo ấy, tăng giảm biến đổi để đúng vóc dáng một câu chuyện. Đã không tính đến chuyện viết tiểu thuyết hay hình thành một tác phẩm với dụng ý, mục đích nào mà chỉ góp nhặt lại những mảnh vụn của một khúc đời đã vỡ.
Thế mà nó trở thành tác phẩm, tác giả với hàng loạt những hệ quả sinh khắc liên hồi từ ấy.
Được lồng bóng trong một giai đoạn thời sự bất an, những ngộ nhận phê phán không thuần túy qua lăng kính văn học nghệ thuật mà nhiều vấn đề ngoài nó.Cái nhãn hiệu độc dược hiển nhiên dễ dán là vô luân lý đạo đức, hay một chữ gì đó tương đương hoặc nặng nề hơn.
Nhưng nó là như thế nào so với hàng loạt những tác phẩm đã dịch và in ra, những câu chuyện có thật trong đời thật. Trong VTHT hay bất cứ đâu, nếu cô giáo yêu một học trò ngoài lớp mình dạy bị kết án thì những mối tình hay hôn nhân giữa thầy giáo với học trò(chuyện thường thấy), lớp mình hay lớp khác trong trường, thì được phép, tại sao?
 Nên hình như chủ đề chỉ là cái khiên, những mũi tên nhắm phần sau là một trường hợp, của một giai đoạn.
Nó là cái chìa khóa mở cửa vào một thế giới, nhưng hơn mười năm sau, cũng là thứ chìa khóa đóng kín thế giới ấy lại để có mặt bỗng nhiên vắng mặt.
Nó là cái khởi đầu muốn chấm dứt tất cả những gì trước và sau nó, nhưng thật phản tác dụng, nó lại là cái tín hiệu, là mối nối của những tương giao, hiệu ứng hai mặt của một tính cách định mệnh. Bởi, nó gián đoạn, chôn vùi gần kín thời gian một đời người hay một đời viết, nhưng bù đắp, cái gián đoạn chôn vùi này lại lắng đọng và tích lũy một tố chất cuồn cuộn khác trong hồn nhiên tự tính.
Trên tất cả, nó đem đến những kiếm tìm gặp gỡ và bù đắp cái không là gì cả mà là tất cả của hôm nay, như giọt lửa sau cùng dưới đám tro vùi, thắp lại được một phần còn mong manh mà kỳ thực là cái khởi đầu chờ mong của SỐNG và VIẾT.
Khoảng 71, 72 gì đó, Kiều Chinh và Đặng Trần Thức có tìm gặp NTH định làm phim VTHT. Về sau lại thôi, hình như vì sợ đọ sức với Mourir d’aimer của Pháp. Sau đó (sách hay phim) ai làm gì liên quan đến VTHT, NTH hoàn toàn không hay biết, cho đến nay. NTH vẫn vấp phải những thứ tương tự oan khiên như vậy. Sự thật, những thứ kia là thuần túy phim ảnh, tiểu thuyết, phía mình thì trích dẫn và phóng tác bằng chính những mảnh vỡ đời mình. Ví dụ, một thời gian sau cuốn Ngày Qua Bóng Tối, NTH xem Un Certain Sourire của F. Sagan. Những nhân vật trong NQBT của NTH lại giống như Luc (với Rossano Brazzi Ý), Bertrand, Dominique và Francoise, chỉ khác ở F.S thì phá phách, ở NTH thì rã rời (trong truyện này).
Tấm ảnh nào trên HL? Có người về khi đi mang theo mấy tấm hình NTH trong thời gian viết VTHT, sau khi ra khỏi vai trò cô giáo thoáng qua. Có phải trên trận biến hóa liên hồi của những vai trò và tính cách, con người (hoặc NTH) không thể khoác áo sai lúc và nhầm vai? Chỉ mỗi một điều ngàn muôn năm không thay đổi, cái là tự tính bất biến, hoặc “luyện tập” (không phải luyện tập để có ma lực!), để trở thành bất biến hoại, để có ai còn tìm kiếm kiếp nào sau, còn nhận ra và gặp lại.
NTH xin lỗi về những lời đáp lại không vừa ý những câu hỏi; trong phạm vi bài này và từ mọi phía thắc mắc chưa gặp được nhau. Bởi vì NTH đã không thu nhỏ hoặc phóng lớn mình theo thói thường của một phỏng vấn xưa kia. Chỉ vì những câu hỏi trên đã “chạm mối thương tâm”, nhức nhối mấy mươi năm trời nên đành phóng tỏa không đắn đo suy nghĩ gì hậu quả những lời mình. Cám ơn, MN và “ai đó” (biết có chữ nào qua giới hạn chữ nghĩa?) đã giúp người câm- câm thời khí, không phải bẩm sinh- bỗng được nói “sau ngần ấy năm trời”. Còn gì nữa không? Còn. Vẫn còn. Vẫn còn những gì không bao giờ có thể hết.

Sáng tác sung mãn (như phần nhiều các tác giả trước 1975 – dĩ nhiên trong số các tác phẩm của bà có quyển hay rất hay và dở rất dở). Nhưng trong những cái “rất dở” đó tôi vẫn luôn bắt gặp được điều gì đó rất độc đáo, có khi là cách dùng một từ đảo, một câu văn dài hay chỉ đôi khi là một ý tưởng miên man hoài hoài không chấm dứt…(khác ngược hẳn với văn chương hiện nay, nhiều quyển chỉ…”kiêu” mỗi cái tựa sách, bên trong…là một cùng cực của sự rỗng tuyếch và sáo mòn)

Cái sự miên man bất tận như những lời độc thoại của nhân vật cũng có thể nói là phong cách sáng tác đặc trưng của bà, đặc biệt trong các truyện ngắn trên Văn…

Bà từng nói về việc VIẾT của mình như sau

“Một tác phẩm có mặt từ ba yếu tố: nghĩ (hay cảm), viết, và in. Nghĩ thì như thở, càng bị rượt đuổi vây khổn, càng dập dồn, chồng chất. Viết ra thì khó liên tục nếu ăn ở không yên và chèo chống không ngừng với mọi vấn đề. Nếu vượt hai điều trên được, lại phải đứng dừng trước bức tường thứ ba: in ra, ngoài khả năng của một tác giả tận cùng đơn độc, trong mọi nghĩa. Khi qua đi một khúc đoạn ở cuộc đời hay nỗi niềm riêng, NTH vẫn ngạc nhiên là mình vẫn còn sống và câu hỏi duy nhất là làm sao để in ra, cũ và mới những gì đã ứa ra từ quá trình sống… chín này.”

Tôi không biết lúc bà đang sáng tác những tác phẩm này trên VĂN -  bà có một niềm ưu tư hay món nợ tình cảm gì đang nợ nần với ai không mà trong mỗi tác phẩm, để lại dư vị trong tôi đều là một chút buồn…loang ra như nền “trời xanh trên mái cao”, cuộn trào như sóng, cao xa tầm tay với, buồn thấm đẫm vào thịt da qua từng con chữ, từng câu văn…Khi chấm hết mội truyện ngắn, Nguyễn-thị-Hoàng gieo vào độc giả một thứ dung môi “độc hại” nhưng đầy thú-đau-thương “ứa ra từ quá trình sống chin” ấy của bà…

Những nỗi buồn “oan trái” đôi khi mang chút ít dằn vặt “hiện sinh” đã từng gây nên ít nhiều “dè bỉu” nơi những người cho văn chương của Nguyễn-thị-Hoàng chỉ là một thứ văn chương “làm dáng”… (như Mai Thảo?!?) Tôi không biết nên đồng tình hay phủ nhận ý kiến này…?!?

Chỉ biết rằng sự “làm dáng” ấy, hay nói đúng hơn là cái ý thức “làm văn” nơi Nguyễn-thị-Hoàng , nếu có, đến từ sự ham muốn biến tiểu thuyết/ truyện ngắn của mình thành một “phương tiện” để lý giải đời sống, lý giải sự “vô-lý” của đời sống và cái hoa mỹ, nếu có, chính là sự khỏa lấp vết thương sâu trong lòng các nhân vật bất hạnh của mình…Vì hơn ai hết, bà biết, cái kết không viên mãn, cái kết dấy lên như một vết sưng tấy… là bản án mà mỗi nhân vật phải lãnh chịu, không hơn không kém…

Những chữ, những dòng, những chấm và cả những-không-chấm trong truyện ngắn Nguyễn-thị-Hoàng…như một chiếc thuyền lòng đã mắt nạn và nằm kẹt lại vĩnh viễn nơi người đọc, những “triết lý”, những câu hỏi liên tiếp reo lên trong truyện ngắn của Nguyễn-thị-Hoàng neo lại trong lòng tôi một chút mơ màng trong đời sống chật chội này, nó cũng đủ làm dấy sáng trong tôi leo lét những lân tinh hy vọng, dù là ít ỏi… hy vọng lấy từ chút hơi tàn sức kiệt muốn sống và phải sống… Cái triết lý ấy từng được Nguyễn – thị- Hoàng nói đến dâu đó trong nhiều tác phẩm

“Trong mỗi mấp máy , bước chân đi vào hay ra khỏi đời sống hỗn tạp mang mang, trong từng thấp thoáng linh cảm hay cỏn con mơ tưởng của con người đều vẩn vơ dấu vết của bước chân định mệnh. Bước chân đó dù ghé dến thềm đời của một người nào, dù dịu dàng hay mãnh liệt, dù thầm kín hay ngang nghiên cũng đều là một ma lực kì dỵ, vừa dẫn dắt ta theo con đường  vạch sẵn từ tiềm thức nhưng đồng thời cũng dìu ta lên một cõi sáng láng nào, dù là khoảng cao phải trải qua bao nhiêu vực thẳm của đời sống và tâm hồn. Sự trốn chạy chỉ là một cách để dấn sâu thêm vào vực thẳm. Và sự dấn sâu tâm hồn hay đời sống vào vực thẳm cũng là một cách để cuối cùng bay vút lên cao” (Cho Đến Khi Chiều Xuống – truyện dài)

Đi sâu vào cõi sống tâm hồn và giải nghĩa… ý nghĩa của định mệnh , phải chăng Nguyễn-thị-Hoàng cố công đi tìm câu trả lời “Đừng hỏi chuông nguyện hồn ai, chuông nguyện hồn…anh đó” ?!?

Cách diễn tả tâm trạng của người nữ trong những truyện ngắn trên VĂN của bà cũng thật đặc biệt và táo bạo: thường là một trào dâng thèm khát yêu thương, thèm khát được vỗ về… tình thương như là một cứu cánh cần kíp cho đời sống trong từng nhân vật của Nguyễn – thị- Hoàng, họ có thể không ăn, không ngủ…nhưng họ phải yêu, phải tận hiến cho tình yêu, phải thở “khói thương nhau”…thì lúc đó họ mới tồn tại…cho đến khi sự bất toại của đời sống xảy đến, những người nữ ấy bàng hoàng nhận ra khuôn mặt đau đớn của đời sống…Buông tay và trượt ngã…nhưng họ, vẫn tiếp tục phải sống, phải đối mặt…
Vẽ thêm nhiều khuôn mặt cho nỗi buồn, Nguyễn-thị-Hoàng còn biến truyện ngắn của bà hấp dẫn độc giả bằng chính cái cảnh huống bà gán ghép cho những nhân vật như chưa thể bi kịch hơn của mình – có khi là khung cảnh của một đêm tối, chàng trai vô danh nào đó gặp lại cô gái nhỏ năm nào, giờ đã “vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề” trong ĐÊM TÀN OANH TRẢO; bao nhiêu kỷ niệm – bấy nhiêu đau đớn.. ;  có khi lại là một hành trình đi tìm sự cứu cánh trong tình yêu của một người nữ đã qua thời xuân sắc gặp lại người em gái nhỏ năm nào…trao yêu thương để rồi bẽ bàng thấy rõ vị trí của mình, chỉ có thể là bên lề của cuộc sống, khi mà “đi chỉ là dẫm đẹp lên chỗ của những người khác ” trong MÙA XUÂN LÁ VÀNG (cũng có thể nói phải chăng Nguyễn –thị-Hoàng là nhà văn đầu tiên chạm đến vấn đề nhạy cảm trong văn chương : đồng tính nữ với tinh tế trong ngòi viết không thể “sensual” hơn) ; lại có khi là một cõi sống mịt mùng trong đó tình yêu tìm đến trong một bóng dáng vừa xa xôi, vùa gần gũi nhưng rồi tất cả cũng chỉ là hư ảnh dể rồi cuối cùng con người còn lại trong chính nỗi bơ vơ cực cùng của mình khi tuyệt vọng ùa đến một cách choáng ngợp và bất ngờ trong BÓNG SAO CHÌM , BÓNG MA…Và rồi nữa, sự hạnh ngộ thoáng chốc, tưởng chừng là một nhịp cầu tương phùng giữa hai tâm hồn lạc loài, nhưng rồi, gặp chỉ để càng xa thêm, vì mỗi người đã tự đẩy mình sang hai bờ của trùng dương cô đơn… trong GỢI NIỀM THÂN MẬT…
….
Nữ nhà văn “hồng nhan đa truân” ấy, sau khi khuấy đảo văn đàn trong một thời huy hoàng của văn chương miền tự do, nay đã chọn cho mình một lối sống im lặng…nói như bà trong trường thiên “nhật ký” NHẬT KÝ CỦA IM LẶNG… phải chăng “bất động cũng là hành tung của một kẻ ẩn mình”…Tôi thấy đâu đó cũng có sự “nổi loạn” ngay trong “phát ngôn” có phần yếm thế kia…

Tôi luôn bắt gặp những suy tư rất riêng, và nhiều lúc, những độc thoại này, như một độc thoại dành riêng cho mình trong truyện ngắn Nguyễn-thị-Hoàng

"...đến một lúc nào đó, ta gặp một người nào, chỉ một lần, dù mến yêu dù thù ghét, cũng chỉ một lần, rồi từ đó cho đến ngày nhắm mắt, vĩnh viễn, dù trái đất còn quay, người ta vẫn có thể còn đi lại, viếng thăm nhau, những đường bay vẫn tiếp tục nối kết mây trời và biên cương nhưng không bao giờ, ta còn gặp lại người đã gặp một lần thứ hai nào nữa, DÙ SỐNG SÓT ĐẾN VẠN TRIỆU ĐỜI TA SỐNG.."

Tôi không mong đó là những gì mà Nguyễn-thị-Hoàng muốn dành cho chính bà trong đời sống này...
Chút tình…xin đừng lãng quên! *
(CHÚT TÌNH XIN LÃNG QUÊN - Tên 1 truyện dài của NTH)

huyvespa@gmail.com

IMG_1648IMG_1649IMG_1650IMG_1651IMG_1652IMG_1653IMG_1654IMG_1655IMG_1656 (2)IMG_1657IMG_1663IMG_1664IMG_1665IMG_1666IMG_1667IMG_1668IMG_1672IMG_1674IMG_1675IMG_1676IMG_1677IMG_1678IMG_1679IMG_1680IMG_1681IMG_1682IMG_1683IMG_1685IMG_1690IMG_1691IMG_1692IMG_1693IMG_1694IMG_1695IMG_1696IMG_1697IMG_1704 (2)IMG_1705IMG_1706IMG_1707IMG_1708IMG_1709IMG_1710IMG_1718IMG_1720IMG_1721IMG_1722IMG_1723IMG_1724IMG_1725IMG_1726IMG_1728IMG_1729IMG_1730IMG_1731IMG_1732IMG_1733IMG_1735IMG_1736IMG_1738IMG_1739IMG_1740IMG_1741IMG_1742IMG_1743IMG_1747IMG_1748IMG_1749IMG_1750IMG_1751IMG_1752IMG_1753IMG_1754IMG_1755IMG_1756IMG_1757IMG_1838IMG_1839IMG_1840IMG_1841Hit Web Stats
Fast Counters

Tâm ca (1965) & Tình Ca (1959) - Phạm Duy

$
0
0
''...Tôi không muốn làm lợi khí của bất cứ bên nào. Tất cả những điều tôi muốn nói đều đã được nói ra trong các bài tâm ca hay trường ca, tôi không muốn vênh vang một thái độ trong các tác phẩm ấy, tôi chỉ muốn phô diễn một lời than thở. Ở đây tất cả dân tộc bị khiếp đảm vì cuộc chiến tranh kéo dài từ ba mươi năm nay. Ai cũng muốn tìm nơi lẩn trốn, nhưng sự ra đi không phải chuyện dễ dàng, cho nên người ta đâm ra tù túng, ngờ vực và đôi khi bạo nghiệt nữa ! Người ta không có thì giờ để học hỏi, để đoàn kết, để giáo dục nhau. Mười Bài Tâm Ca ra đời là để chống lại sự vong thân ấy! ''

Phạm Duy – một nhạc sĩ ít khi nào có những tuyên ngôn về các tác phẩm của mình, có lần đã nói như thế về 10 bài tâm ca. Mười bài Tâm Ca là mười cái nhìn cứu cấp vào một nhân sinh trên bờ vong thân, tan vỡ. Nhiều người biết nhưng không tìm ra lời…

Mười bài Tâm Ca đã cất lên tiếng nói lương tâm của con người đối mặt cùng sự thật và nhận diện lại mọi thứ trong đời.
Tiếng nói của tâm ca là tiếng nói đậm đà, tha thiết, có những lúc đi đến chỗ đắm đuối, mời gọi mọi người bước vào để chia sẻ tình yêu. Tình yêu theo cái nghĩa tràn đầy và dung chứa được mọi thứ của nó.

Tâm Ca số 1 Tôi Ước Mơ nhận diện cái bi đát của xã hội trong giai đoạn ấy.
Tâm Ca số 2 Tiếng Hát To là thái độ của tác giả trước sự bi đát đó.
Tâm Ca số 3 Ngồi Gần Nhau nhận diện sự chia rẽ dân tộc và kêu gọi đoàn kết.
Tâm Ca số 4 và số 6 Giọt Mưa Trên Lá, Một Cành Củi Khô nhận diện lại thiên nhiên, siêu nhiên, đời sống con người khi được (hay bị) đặt vào cái thiên nhiên đó và trái tim của nó hướng về những điều siêu nhiên kia.
Tâm Ca số 5 Ðể Lại Cho Em nhận diện lại gia tài của người đi trước để lại cho người đi sau.
Tâm Ca số 7 Kẻ Thù Ta nhận diện kẻ thù.
Tâm Ca số 8 Ru Người Hấp Hối nhận diện cái chết.
Tâm Ca số 9 Tôi Bảo Tôi Mãi Mà Tôi Không Nghe nhận diện chính mình.
Tâm Ca số 10 Hát Với Tôi một tuyên ngôn, trình bày lại thái độ (và lời mời gọi) của tác giả sau khi ta đã có cơ hội nhận diện lại mọi sự trong đời như thế.

Tâm ca số 2 là bài hát dài nhất trong mười bài Tâm Ca của Phạm Duy. Và vì nó dài, nó cũng chứa đựng được rất nhiều hình tượng và tư tưởng nhân bản của Phạm Duy. Bài này gồm tất cả 6 đoạn, không có điệp khúc.

“Tôi sẽ hát to hơn súng nổ bên bờ ruộng già.Lời tôi ca, lời tôi ca xin lúa đừng lo. Lời tôi thay cho tiếng đạn bay. Lời tôi xây cho vững tay cầy (...) Tôi sẽ hát cho vơi thống khổ vơi dòng lệ nhòa. Một miền quê, một miền quê tim héo và khô. Lời tôi ca khâu vá tình thương, Lời hôm qua chắp nối Con Ðường, Lời hôm nay vương tiếng Mẹ buồn, Lời mai đây cao ngút Trường Sơn…”

Tiếng hát to hơn tiếng súng nổ gầm thét đêm đêm bên bờ ruộng lúa thân yêu kia. Nhưng xin lúa đừng lo, lời ca tôi chỉ xin xây cho tay cầy thêm vững, cho dòng lệ nhoà đi, và cho nỗi thống khổ vơi dần. Hôm qua tôi hát Con Ðường Cái Quan để xin làm người lữ khách ra đi nối lại lòng người và đất nước. Hôm nay, tôi hát Mẹ Việt Nam để tôn vinh Ðất Mẹ, Núi Mẹ, Sông Mẹ, và Biển Mẹ. Còn ngày mai, tôi sẽ hát to tiếng hát Trường Sơn.
Trong gần 1.000 bài hát được làm ra trong suốt cuộc đời ca nhân của mình, Phạm Duy đã luôn luôn muốn nói đến tình yêu. Tình yêu trong mọi thế thái của nó. Ông cũng đã không ngần ngại dùng những tiếng nói bình thường hay sống sượng của cuộc đời để nói lên lòng yêu thương cuộc đời, sống và chết cho cuộc đời, của ông. Ông cũng đã cất lên tiếng nói của Ðạo, của thăng hoa, siêu thoát để diễn tả cũng những tâm tình tha thiết đó. Nhưng tiếng nói đi thẳng ra từ trái tim thi sĩ, trái tim luôn đập cùng những nhịp đập với đời sống kia, có lẽ mới là những tiếng nói đi sâu, và, nhờ thế, ở lại trong tâm hồn con người lâu nhất.
Tâm ca là tiếng nói của lương tâm, lương tâm những người không chấp nhận: không chấp nhận chiến tranh, không chấp nhận oán thù, không chấp nhận sa đoạ và nhất là không chấp nhận mọi thứ nhãn hiệu mà người ta dán lên để biện minh cho những thảm trạng ấy :
"Ðể lại cho em một nước phân lìa
Ðể lại cho em một giống nòi chia
Hận thù nhân danh chủ nghĩa
Bạo tàn vênh vang bề thế... “

Và như thế; thì làm sao mà có thể phủ nhận 1 điều:"Không thể tưởng tượng một VN không Phạm Duy - và một Phạm Duy không Việt Nam"
huyvespa@gmail.com

01.Tôi Ước Mơ (thơ: Nhất Hạnh) Thái Thanh 
02.Tiếng Hát To _ Thái Thanh (ban Hoa Xuân)
03.Ngồi Gần Nhau - Phạm Duy

04.Giọt Mưa Trên Lá - Thái Thanh (ban Hoa Xuân)
05.Để Lại Cho Em (thơ: Nguyễn Đắc Xuân) Anh Ngọc _ Thái Thanh (Hoa Xuân)
06.Một Cành Củi Khô - Phạm Duy
07.Kẻ Thù Ta -Phạm Duy
08.Ru Người Hấp Hối - Thái Thanh
09.Tôi Bảo Tôi Mãi Mà Tôi Không Nghe - Duy Quang - Phạm Duy
10.Hát Với Tôi - Hợp ca


http://www.mediafire.com/file/3raehsz40nsirdu/MuoiBaiTamCa.rar 


IMG_9488IMG_9434IMG_9435IMG_9436IMG_9437IMG_9438IMG_9439IMG_9440IMG_9441IMG_9442IMG_9443IMG_9444IMG_9445IMG_9446IMG_9447IMG_9448IMG_9449IMG_9450IMG_9451IMG_9452IMG_9453IMG_9454IMG_9455IMG_9456IMG_9457IMG_9458IMG_9459IMG_9460IMG_9461IMG_9462IMG_9463IMG_9464IMG_9465IMG_9466IMG_9467IMG_9468IMG_9469IMG_9470IMG_9471IMG_9472IMG_9473IMG_9474IMG_9475IMG_9476IMG_9477IMG_9478IMG_9479IMG_9480IMG_9481IMG_9482IMG_9483IMG_9484IMG_9485IMG_9486IMG_9487

Thơ và nhạc trước 1975, như là một quyền phép lạ lùng, vì nó mang cái hồn sâu kín, nó gợi nhớ, và nhắc nhớ....nhiều khi chỉ bằng vài từ, ngữ.
Chỉ cần vài từ ngữ, sẽ thấy thênh thang cung đường về kỉ niệm...Một chút xanh xao, mơ hồ của thưở vừa biết yêu ... & rơi một nỗi sầu quạnh quẽ...sầu đã rụng thành hoa...đã đơm bông kết trái thành những câu lục bát à ơi diễm tuyệt, vừa mang tâm sự hồn người, vừa tha thiết một tình với quê hương.
Thơ Cung Trầm Tưởng là những thực thể sống động như thế, những hàng, những chữ nằm im lìm trên giấy, nhưng có sức lay động ghê gớm, và nhắc nhớ nhiều.
Cung Trầm Tưởng gắn bó với giai đoạn đầu của thời chia đôi đất nước, qua thi tập Tình Ca, mười ba bài mà Phạm Duy đã phổ nhạc 6 bài, đó là Mùa Thu Paris, Kiếp Sau, Về Ðây, Tương Phản (PD đổi thành Bên ni bên nớ) , Khoác Kín (Phạm Duy đổi là Chiều Ðông) và Chưa Bao Giờ Buồn Thế (Phạm Duy đổi thành Tiễn Em). Tất cả năm bài đều thuộc vào những bài thơ phổ nhạc tiêu biểu cho sự gặp gỡ giữa thi ca và âm nhạc ở cung cao sáng tạo.
Những tác phẩm này phần nào đã ghi dấu một thời kỳ, thời kỳ mà những nhà thơ như Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng... từ Pháp, đem theo tư tưởng Tây phương về như món quà tặng cho lớp trẻ.
Phạm Duy đã từng nhận xét về Cung Trầm Tưởng:
“…Saigon 1958. Chính quyền ở miền Nam đã đứng vững sau mấy năm thành lập. Người dân (nhất là người dân ở thành phố) sống trong an ninh và thịnh vượng hơn là trong thời chinh chiến vừa qua. Phòng trà mọc lên khá nhiều. Thế hệ ca sĩ thứ ba ra đời sau các thế hệ ca sĩ ''tiền bối ''Ái Liên, Thương Huyền, Thái Thanh v.v... Tân Nhạc ở miền Nam phát triển mạnh mẽ với xu hướng nhạc tình.
Cung Trầm Tưởng, một thi sĩ trẻ vừa ở Paris về, đưa cho tôi mấy bài thơ để phổ nhạc trong đó có hai bài nói về mùa Thu và mùa Ðông Paris. So với nhạc tình thời đó, hai bài này rất mới lạ cho nên được các nữ ca sĩ trẻ đẹp như Thanh Thúy, Thu Hương, Lệ Thanh trình bày hằng đêm tại các phòng trà. Các Ðài Radio, các nhà xuất bản, các hãng làm đĩa hát đua nhau phổ biến những bài thơ phổ nhạc này của chúng tôi. Nó trở thành những tình khúc của một thời. Thời kỳ đẹp nhất của người Việt trong thế kỷ này chăng ?...”
Thụy Khê đã từng nhận định về những bài thơ của Cung Trầm Tưởng được Phạm Duy phổ nhạc như sau....
“ Kiếp Sau - Bài thơ rất ngắn, sau này Cung Trầm Tưởng có viết lại hai version khác, nhưng có lẽ vẫn không vượt được bản đầu in năm 1959 ở Sài gòn:
“Bù em một thoáng trời gần,
đơm hoa kết mộng cũng ngần ấy thôi!
Bù em góp núi chung đồi
thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơ
Bù em xuôi có ngàn thơ,
vẫn nghe trắc trở bên bờ sông thương
Quên thôi, bông sẽ phai hường,
mà xưa tiếng gọi nghe dường thiên thu.
Non sông bóng mẹ sầu u,
mòn trông ngưỡng cửa, chiều lu mái sầu
Thôi em xanh mắt bồ câu,
vàng tơ sợi nhỏ xin hầu kiếp sau.”
Kiếp Sau làm năm 1956. Hơn bốn mươi năm. Không một vết nhăn.
Trò chuyện về thơ tức là chuyện trò với chữ -vấn đề ngữ sự- nói như Cung Trầm Tưởng.
Trước hết là chữ bù. Bù em. Phạm Duy có lẽ vì nhu cầu âm nhạc đã đổi ra đền. Ðền em, nũng nịu, Tây hơn, hợp thời hơn, nhưng Bù em, mới hiếm, mới Việt. Chữ đền có nghĩa đổi trao, lấy đi rồi đền lại. Chữ bù chỉ thấy cho, chỉ"lấp đầy". Nguyên lý lấp đầy lại rất phụ nữ, rất nhục cảm, rất Sartrien, rất Cung Trầm Tưởng. Bù lại gần với âm bu. Bu là gọi mẹ theo tiếng quê ta. Một người "Tây con" như Cung Trầm Tưởng thời ấy, làm thơ tặng những em "tóc vàng sợi nhỏ" mà lại viết Bù em thật tuyệt.
Nhưng Phạm Duy có lý khi ông đổi lại là đền em. Ai cũng hiểu. Ở Phạm Duy là ý thức cộng đồng, ý thức dân ca, ở Cung Trầm Tưởng là ý thức biệt dã, ý thức thi ca. Bù em là ngôn ngữ thứ nhất, ngôn ngữ bùa chú khác lạ, không giống ai: Ngôn ngữ vừa được nhà thơ tác tạo. Cả bài thơ có hơi cổ điển, có hồn ca dao. Nhưng không phải ca dao thuần túy mà là ca dao đã hóa thân, cổ điển đã tục lụy.
“Thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơ”
Các cụ xưa đâu viết thế. Các cụ môn đăng hộ đối, đâu có thẩy bình dân "cũng rồi" ngồi chung chiếu với quý tộc "thiêu nương". Rồi lại:
“Thôi em xanh mắt bồ câu”
Ca dao đâu viết thế. Ca dao thường trực tiếp, dễ hiểu: Em thôi, mắt xanh, hay mắt em, thôi xanh v.v... Nên khi gặp thôi em xanh mắt người đọc lạc vào mê đạo.
“Mà xưa tiếng gọi nghe dường thiên thu”
Toàn thể câu thơ là một bể hoang đường, lạc đất.
Tất cả những "cũng rồi", "mà xưa", "nghe dường" gieo vào câu thơ ở những chỗ bất ngờ nhất, làm lỗi nhịp, làm đảo thần lục bát, phát sinh một hồi âm mới: Wagner hay Mozart? Phạm Duy hay Văn Cao? Có hết. Tất cả đồng quy ở tiếng gọi thiên thu hay tất cả đều đã hoang sơ?
Cung Trầm Tưởng đã xướng lên một thứ cổ dao hiện đại:
“Non sông bóng mẹ sầu u
Mòn trông ngưỡng cửa, chiều lu mái sầu”
Những tiết tố âm nhạc, quá khứ, hiện tại, không gian, thời gian, ẩn hiện, giao tỏa với nhau. Những hình ảnh sáo mòn như "đơm hoa kết mộng", "sông Thương trắc trở"được hồi sinh trong một kiếp mới, nhờ cách xếp câu, đảo tứ:
“Bù em một thoáng trời gần,
đơm hoa kết mộng cũng ngần ấy thôi!
Bù em góp núi chung đồi
thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơ
Bù em xuôi có ngàn thơ,
vẫn nghe trắc trở bên bờ sông thương”
Những cách treo chữ: cũng rồi, cũng ngần..., buông chữ: bù em, thôi em..., đảo chữ: mòn trông..., hoặc tạo cảnh: chiều lu mái sầu... đều có tính cách phá tán âm thanh lục bát, phá tan nội dung ca dao để tạo ra, về mặt thời gian, một tiếng gọi từ ngàn xưa vọng lại, về mặt âm thanh và tư tưởng, một khúc điệu mới, phong liệm nỗi buồn nguyên thủy, rồi nghiền tán nó ra, rắc vào không gian, gieo vào vũ trụ, tạo ra một môi trường buồn ẩm nhạc:
“Ngày đi, chiều tới không nghiêm,
khoan thai gió cởi phong niêm rũ buồn
Bờ nghiêng nắng giốc đường thuôn,
thiết tha tiếng cũ nghe luồn không trung.”
(Về Ðây)
Trong bài Bémol, Buồn lại rơi theo nhịp khác, như nốt nhạc bị giam cầm:
“Chiều buồn lạc thanh âm
Hoang sơ vào khuya tối
Linh hồn tôi dương cầm”
Bài Khoác Kín cũng là một trong những giá trị độc đáo của thi ca Cung Trầm Tưởng mà Phạm Duy đã phổ nhạc và đổi tên thành Chiều Ðông (Phạm Duy có tài lựa những tuyệt tác của mỗi tác giả để đưa vào cung bậc âm thanh). Khoác Kín cũng là một bài thơ ngắn, nhưng mỗi câu, mỗi chữ đều là những giọt tuyết lệ của thời gian, nhỏ trong không gian tàn tạ:
“Chiều đông tuyết lũng âm u
bâng khuâng chiều tới tiếp thu trời buồn
Nhớ ngày tầu cũng đi luôn,
ga thôn trơ nỗi, băng nguồn héo hon.
Phường xa nhịp sắt bon bon,
tàu như dưới tỉnh, núi còn vọng âm.
Sân ga mái giọt âm thầm:
Máu đi có nhớ hồi tâm đêm nào?
Mình tôi với tuyết non cao;
với cồn phố tịnh buốt vào xương da;
với mây trên nhợt ánh tà;
với đèn xóm hạ cũng là tịch liêu.
Tôi về bước bước đăm chiêu,
tâm tư khoác kín sợ chiều lạnh thêm.”
Giọng buồn Cung Trầm Tưởng, thời 55-60, đã khác hẳn giọng sầu Huy Cận trong thời thơ mới. Cung Trầm Tưởng đem lại một cô đơn mới: Cô đơn hiện sinh. Cô đơn của con người trong sự nhận thức lại chính mình. Cô đơn của một Roquentin trực diện với "bản lai chân diện mục" của mình trước gương soi mói, soát lục. Cô đơn của gã tử tù Meurseult, xa lạ với loài người:
“Hoang liêu về chết tha ma
Tiếng chân gõ guốc người xa vắng người”
(Tương Phản)
Và chắc hẳn Wagner dưới suối vàng cũng đã có phần nào trách nhiệm trong cách biến tấu nhịp điệu thể xác và linh hồn lục bát Cung Trầm Tưởng" ./.




IMG_9523IMG_9492IMG_9493IMG_9494IMG_9495IMG_9496IMG_9497IMG_9498IMG_9499IMG_9500IMG_9501IMG_9502IMG_9503IMG_9504IMG_9505IMG_9506IMG_9507IMG_9508IMG_9509IMG_9510IMG_9511IMG_9512IMG_9513IMG_9514IMG_9515IMG_9516IMG_9517IMG_9518IMG_9519IMG_9520IMG_9521IMG_9522








TUỔI NGỌC NOEL 1971-1972-1973-1974

$
0
0
Mời mọi người đọc lại 4 số báo Noel - Năm Mới liên tiếp của TUỔI NGỌC từ 1971 đến 1972 (sẽ được upload đầy đủ sau holiday).
http://huyvespa.blogspot.com/2014/12/van-tuoi-ngoc-noel-1971-1972-1973-1974.html
  
Trước hết, mời mọi người cùng ngược dòng kỷ niệm với những miên man hồi ức của người vẽ tranh bìa/ nhà văn ĐINH TIẾN LUYỆN trong những bồi hồi mới đây nhất của nhà văn trên trang facebook của ông (https://www.facebook.com/luyen.dinh.351)
Image may contain: 1 person, text and indoor
MỘT THỜI TUỔI NGỌC / NHỚ VỀ DUYÊN ANH
Tôi vừa lật Album bạn bè tìm lại hai tấm hình và đưa vào máy scan. Mở ra trong phtoshop phóng lớn theo thói quen tìm những vết xước hay vết hoen ố thường có trong các tấm hình cũ để phục hồi lại. Không hề có. Những tấm hình thật mới và thật đẹp. Y như mới hôm qua đây. Cái hôm qua ấy nghe nhẹ nhàng mà sao thấy thấm buốt tình bằng hữu một thời. Một thời Tuổi Ngọc của chúng ta và một thời của anh Duyên Anh và tôi.
Tôi vẫn tâm niệm, không bao giờ ôm quá khứ hay núp bóng quá khứ. Chẳng ích gì, nên cũng ít khi bươi lại chuyện cũ. Nhưng mới hôm qua đây, khi nhìn lại hình ảnh những tấm bìa và những trang báo ngày xưa mà bạn bè vừa lật lại, tôi bỗng vỡ òa bao ký ức thời làm báo Tuổi Ngọc. Cái cliché này, cái phí-lê này, cái co chữ này.. Bài này trước, thơ góc kia, chuyên mục chỗ nọ … Từng số báo một và từng trang một, đều qua tay tôi làm ma-két, xếp đặt trình bày cho thợ dàn trang xếp chữ và cũng chính tôi là người phải chịu trách nhiệm bản sửa mo-rát cuối cùng và ký bản in thử cho máy in chạy. Nơi trang báo cũ vừa nhìn lại, tôi như thấy lại tất cả khoảng thới trai trẻ nhiều đa mê của mình. Nhớ nao lòng. Nhớ nhiều lắm. Nhớ mùi thơm của những chồng giấy mới chất cao, nhớ mùi hăng hắc của mực in và mùi lưu huỳnh ngàn ngạt của lò đúc chì…
Và nhớ anh Duyên Anh
Hồi trong trại tù cải tạo, nơi này nơi kia tôi nghe đồn anh thế này thế nọ và đã chết. Đến khi được ra trại (đầu năm 1981) tôi về Saigon tìm đến ngôi biệt thự nhỏ ở đường Công Lý, nơi xưa anh ở. Con Ky và Cu Đốm ra đón tôi ( Con Ky, Cu Đốm là nhân vật gia đình trong truyện Cây leo hạnh phúc của DA, là cô bé Thiên Hương và cậu út Thiên Sơn, còn Chương Còm Thiên Chương lúc đó đã vượt biên theo Ông Đặng Xuân Côn, là anh em kết nghĩa của DA. Có dịp tôi sẽ thêm chuyện về những đứa trẻ này, vì cả sau khi bố chúng mất, vẫn còn thân tình tới lui với tôi) Chúng lớn hẳn nhưng tất cả vẫn còn trong ký ức của nhau khi chú chú cháu cháu mừng rỡ gặp lại. Chị Ngọc Phương (Ngọc thân ái, vấn đáp tuổi mới lớn trong TN, cũng là vợ DA) sau đó mới ra ôm chầm lấy tôi mà khóc. Chị vốn hay khóc, ôm tôi khóc miết khiến tôi chẳng dám nói gì, càng khiến tôi tin rằng anh DA đã chết thật. Mãi một lúc lâu, sau vài câu trao đổi dò dẫm tế nhị, tôi mới biết người bạn vong niên quý mến của tôi vẫn còn trong tù cải tạo.
Tôi đi tù trước anh chừng nửa năm thì anh cũng ra tù sau tôi chừng nửa năm. Ngày ra tù anh nhắn tôi lên (sau 30 tháng 4 tôi về Biên Hòa) Ngôi nhà anh ở lúc này đã di dời đồ đạc trống trải nhiều chỗ, phần bán phần cho, vì vợ con đã có giấy bảo lãnh đi Pháp. Anh hỏi tôi có muốn lấy gì làm kỷ niệm không. Tôi chẳng thiết gì. Những cuốn sách bản đặc biệt của anh đóng bìa cứng anh đã gửi một linh mục dòng lưu giữ. Cậu giữ những bộ TN đóng tập này đi. (sau này người mượn người xin cũng thất lạc gần hết. Còn ít tâp tôi cũng để lại cho anh Mường Mán giữ luôn). Tôi còn giữ lại vài tấm hình của gia đình. Trước khi ngôi biệt thự đổi chủ, tôi còn trở lại đó thêm vài ba lần nữa. Ngày trước khi còn chung việc với nhau tôi cũng thỉnh thoảng ngồi chung bàn với gia đình (kể cả chung bàn kéo xì phé, có NXHoàng, MThảo, HPAnh, NNgữ… Không nhớ có kỳ phùng địch thủ TKTường ở đây không nhi?). Khác là bây giờ lần nào tôi cũng thấy anh vào bếp và còn dạy tôi cách đập tỏi xào rau muống sao cho thơm ( Sau này qua Mỹ được anh Vũ Trung Hiền - ở Cali - tặng tôi cuốn "Duyên Anh và những câu chuyện bên ly rượu" do anh viết tôi còn dịp theo dõi bước đi của người Anh cả cho tới tận cuối đời , và vài cuốn sách của anh DA viết sau này, trong đó có cuốn "Ca dao quyện lấy món ăn dân tộc - nấu nướng dân gian). Duyên Anh là thế, ân cần đằm thắm trong đời sống thường tình như tất cả mọi người . Là người viết văn hay làm thơ, hắn cũng mãi chỉ viết hay làm, còn chính độc giả mới cho hắn cái NHÀ, để gọi hắn là nhà văn hay nhà thơ, khi những gì hắn viết ra được nhiều người đón nhận. Anh DA xứng đáng có một cái nhà rất lớn, khi sách của anh in ra tái bản liên tục và sau này số lượng in ngay lần đầu các NXB đã phải thương lượng với con số ấn bản 10 ngàn. Anh xứng đáng có một cuộc sống tốt đẹp.
Nhưng hết tốt đẹp rồi, khi cái nhà của độc giả tặng hiện tại bị bôi bẩn và cái nhà anh ở bao lâu nay anh cũng phải bỏ ra đi. Anh lêu bêu chỗ này chỗ kia mãi cho tới ngày anh vượt biên thóat. Trong suốt thời gian gặp lại nhau (chừng hơn năm gì đó) chúng tôi không hề bao giờ khơi lại chuyện viết văn làm báo ngày xưa. ( Nếu ai còn muốn biết, tôi sẽ tiếp.)
Những tấm ảnh post kèm: trong sân nhà DA khoảng năm 1972, tấm hình chân dung là anh gửi về từ Pháp, 1984.
Image may contain: 1 person, standing, tree, car and outdoor
(hình trên: nhà văn DUYÊN ANH)
VUI BUỒN CHUYỆN LÀM BÁO
Anh Duyên Anh lớn hơn tôi đúng một vòng con giáp. Cùng tuổi Hợi. Cùng quê Thái Bình. Trên vai tôi như một người anh cả, chúng tôi có những liên hệ thân thiết không chỉ trong công việc mà còn coi nhau thân mật như một người trong nhà. Cụ thể nhất là sau những cuộc nội chiến - chuyện thường tình gia đình nào chả có - thấy Chủ nhiệm tới tòa soạn sớm với khuôn mặt lầm lì cau có thì y như rằng chỉ ít phút sau Thư ký tòa soạn nhận được lệnh triệu hồi về tư gia nghe Chủ nhiệm phu nhân than thở khóc lóc. Con gái khóc thì đẹp có văn có thơ, chứ đàn bà khóc thì chẳng ma xuất bản từ thiện nào chịu nhận phát hành thứ văn thơ ấy ( xin lỗi quý bà). Tôi là kẻ chịu trận. Láp nháp vài ba câu an ủi ngớ ngẩn vớ vẩn rồi ngồi nghe kể lể sụt sùi chừng một vài tiếng đồng hồ thôi. Một vài tiếng đồng hồ ngoài giờ làm việc không lãnh lương over time ấy , tưởng là vô nghĩa nhưng chính nó đã ràng buộc tình thân thiết chúng tôi với nhau . (Nhưng cái gì quá cũng không hay. Riêng về cái sự khóc lóc này tôi còn hứng nhiều tập tiết theo, cả đến khi vị chủ nhiệm của tôi đã nhiều năm quá vãng. Trong tôi từng nghĩ: Ngồi nghe người đàn bà khóc lóc kể lể là một cái phúc. Cái phúc ấy cũng đáng được lên thiên đàng. May thay, thượng đế luôn công bằng, khi lập gia đình ngài đã cất cái phúc ấy đi cho tôi. Nhưng vẫn công bằng, ngài lại gửi đến cho tôi một cái phúc khác, chồng phải biết kịp thời hối lỗi, dù đúng hay sai. Người phụ nữ trong nhà tôi không khóc lóc, không kể lể, she lặng lẽ leo lên xe và phóng đi. Có trời biết là she đi đâu trong cơn giông gió như vậy. Tôi cầu xin cho các mall các shop còn mở cửa. Tôi cầu xin cho she thấy có xe quay đèn chớp chớp chạy phía sau (police), chứ không she sẽ leo lên free way thì vỗn dĩ không bao giờ chịu chạy lane trong, she sẽ phóng bay trên lane nào không bao giờ có exit. Trời ơi, tôi chỉ còn biết gọi điện lên…thiên đàng xem she đã đến chưa. Nhưng mưa gió giông bão thế này không bao giờ có sóng, 3G hay 4G cùng vô ích. Tôi kiên nhẫn text. Một message rồi 2,3,4…cho đến cái 100 thì tôi đã sẵn ở garage port : I am sorry. Cũng phải qua ít nhất là một tiếng đồng hồ. Đau tim cũng là một cái phúc, phúc này coi bộ còn dễ sớm được hưởng phúc trên thiên đàng hơn.)
Xin lỗi tôi đã miên man vòng vo. Nếu gọi là méo mó nghề nghiệp thì tôi đã mất việc. Vâng, tôi đã mất việc từ lâu rồi. giờ tìm thú vui dậy sớm cà kê dê ngỗng trên FB viết sao cho có người còn muốn đọc, có thì post lên, không cũng chẳng sao. Nhưng nếu làm báo tới giờ tới hạn mà còn kề cà, đến ngày phát hành báo còn nằm trong nhà in thì đồng nghĩa với báo nhập kho bôi mực xanh và bán ký. ( Hay quá, tôi đã tìm ra được exit)
Tuần báo TN phát hành vào ngày thứ Năm, hôm nay là thứ ba. Chủ nhiệm , sau khi thả con tới trường đã có mặt ( DA chỉ có rượu bia thuốc lá chứ không có càphê nên ít khi kề cà buổi sáng). Tôi nhắc: Bữa nay đến trang truyện dài Thư Tình Trên Cát của anh đấy / Không phải ngày nai à ? / Ngáy mai là cahier chót, in moi ruột từ giữa ra ngoài mà . Ngày mai là Nhìn Xuống Cuộc Đời và Trả lời thư./ Xong ngay. Viết chuyên nghiệp cũng có thể xem như thợ, theo yêu cầu và nhất là phải đúng hẹn. Không bàn về văn chương hay nghệ thuật ở đây. Xin mời văn chương nghệ thuật đi vô viện hàn lâm chơi. Xin mời bạn nghe cuộc điện thoại : Sớm mai anh cho một bài nhạc nhé./ Đề tài gì ? / Cách mạng xanh / cái quái gì thế ? / NVHảo muốn có tờ báo . Cách mạng xanh là cách mạng nông nghiệp / Hiểu rồi. OK / Mai là buổi sáng đấy nhé, còn nhờ tay kẻ nhạc nữa / Gấp thế à. Tối gọi lại, có thể xong. Đó là cuộc nói chuyện giữa DA và nhạc sĩ PD. Tôi cũng có phần kỹ thuật và mỹ thuật trong đó. Nhưng tờ báo không bao giờ xong vì đó đã là những ngày gần cuối tháng 4 năm 1975.
TÒA SOẠN TUỔI NGỌC
Hôm nay là thứ ba, tôi phải hoàn tất ma-két, xếp đặt bài vở và đưa vào trang, chỉ trừ những Mục thường xuyên đã chừa sẵn. (Tuyện dài, Bệnh mới lớn, Biết một biết mười, Ngọc thân ái, Chạp phô…) còn đâu đã phải vào đó. Tuần báo 64 trang, tức là 4 cahiers, cũng nhẹ nhõm thôi. Làm báo nhưng đồng thời cũng ăn dầm nằm dề ở nhà in nên tôi đã thuộc lòng các con số mỗi cahier như một xếp typo hay một tay thợ lên khuôn máy in chuyên nghiệp . 1-16; 17-32; 33-48; 49-64… Còn hụt chân 1 phần 4 trang 30. Đặt cái khung giới thiệu sách kỳ trước vào. Em vừa đưa vào cahier đầu rồi. Số trước còn dư một bài thơ… Tôi nhớ, bài thơ bảy chữ ấy dài lắm với lại tôi cũng muốn in riêng nó trên một trang số lẻ có đóng khung cho trang trọng một tí, vì tác giả cũng có tên tuổi. Bài thơ năm chữ này đi, chèn cái cliché bên cạnh, tựa nằm dưới, co chữ 16 vendome. Tôi đang nói chuyện với anh xếp typo, người đứng đầu êkíp thợ, khi đông chừng hơn 10, nhưng thường lẻ tẻ chỉ khoảng dăm bảy. Thời gian này TN đang đang đặt tòa soạn ở trong Tổ hợp Hải Âu của anh chị Nhã Ca- Trần Dạ Từ. Tổ hợp Hải Âu lại ăn đậu ở nhờ trong nhà in Nguyễn Bá Tòng. Mang tiếng là tổ hợp với tòa sọan chứ thực ra toàn bộ khu vực cả văn phòng với khu thợ thuyền không được trăm mét vuông. Chừng dăm ba cái bàn vừa làm việc vừa tiếp khách. Làm việc trống bàn nào thì sà vào bàn đó. Khi đông thì xử dụng cả hai mép bàn, việc ai người đó làm. Khách đông thì đứng hoặc ngồi hay cũng có thể vui vẻ ghệ đâu đó chuỵện trò cũng qua. Chỉ trừ vài tờ nhật báo lớn ( như Chính Luận hay Công Luận…) phần đông các toà soạn báo chỉ là địa chỉ ăn theo các nhà in. Nhà in lớn thì tòa soạn có thể được riêng một tầng lầu, nhà in nhỏ thì được chia một ô nào đó ngăn thành phòng, vậy cũng gọi là "tòa" dù chẳng cao tí nào. Nhưng thật sự có cao, khi TN bộ mới (in khổ nhỏ) tục bản. ( khoảng năm 1971). Tòa soạn báo TN chỉ là góc của một căn gác xép sát mái, kê đúng được một cái bàn tròn cũ kỹ sau khi dạt các chồng sách tồn kho về một bên của nhà in Nguyễn Đình Vượng. Dạo đó hầu như chỉ có tôi, anh DA và Phạm Đình Thống (nhà thơ Phạm Chu Sa) và sau này thêm Nguyễn Mai, là thường xuyên chiếm "đỉnh cao"đó. Còn bạn bè hay độc giả thì chỉ tiếp chuyện dưới chân thang đã là …quý lắm rồi. ( nhưng tôi nhớ, lần đầu tiên nhà thơ học trò NTNhiên đã gặp chúng tôi ở đây, với tập thơ đầu tay anh đi cùng người bạn học). 38 Phạm Ngũ Lão, Saigon là một địa chỉ nhiều ấn tượng trong giới văn nghệ cũng như độc giả thời bấy giờ, vì nơi đây là tòa soạn báo Văn. Nhiều tác giả đã lưu danh từ đây, nhiều cuốn sách đẹp cũng xuất ra từ đây. Nhà in mang tên chủ nhân, điều hành bởi môt người mà ai cũng kính cẩn gọi là cụ. Một máy in typo in ruột, một máy pedal tay đặt giấy chân đạp dập khuôn in bìa ( bìa bao nhiêu màu - thường không quá 3- dập bấy nhiêu lần ). Và một dàn thợ xếp chữ. Tôi đã qua nhiều nhà in nhưng có lẽ chưa đâu "đơn sơ" hơn thế. ( Ấy thế mà trước đó, năm 70, tôi đã từng ao ước mình có được sách in ở đây, nhưng bị từ chối - Cuốn MLCBN sau đó bìa ốp-sét in ở nhà in HXHương , cuốn sách tôi tự xuất vốn in lấy vì muốn tự o bế nó từ đấu đến cuối. in xong 5000 cuốn, nhà phát hành Đời Mới tới thương lượng trọn gói với giá chết đứng: 75 %. May quá, huề vốn. Nhớ lại tôi thấy sao dạo ấy mình liều, đúng là điếc không sợ súng, dù đã qua thời gian quân trường, 23 tuổi, mới là tác giả của cuốn sách thứ 2 thế mà đã bốc tới con số 5 ngàn. Trong khi các tác giả lớn in ở nhà in NĐV chỉ có con số 1. Không hề có ê chề hay đắng cay ở đây, lại không hề có tâm ân oán bao giờ. Vậy mà sau đó không bao lâu tôi đã "trả thù"được nhà in này đấy. Quản lý nhà in nơi mà TN đóng đô bấy giờ đã là cô Nguyễn thị Tuấn, con gái ông chủ. Là độc giả ái mộ nhân vật trong cuốn MLCBN đã ý kiến: Sao ông không viết tiếp về nhân vật đó đi. Thế là có truyện dài Anh Chi Yêu Dấu đăng từng kỳ trên TN. Truyện vừa dứt trên báo là nhà in nhà xuất bản NĐV hứng lấy in thành sách ngay. Cũng như cuốn TNKCQ tiếp theo, chỉ in ruột ở đây, còn bìa ốp-sét phải in nơi khác theo đúng mẫu mã và ý kiến của tác giả). 
Tôi đang viết gì nhỉ ? Đọc lại thấy…thiếu nước cuốn thế này, trên FB chẳng câu được Like. Không có ý định viết hồi ký, tôi chỉ muốn viết sao cho có người còn muốn đọc. Dù sao thì tôi cũng phải nói hết phần khi nhắc tới nơi mà TN bắt đầu lại . Nơi gác xép của kho sách nhà in ấy , chật chội và nóng nực, còn có một vuông cửa sổ nhỏ xíu, mở ra không thấy bầu trời mà chỉ thấy toàn những mái tôn khô khốc và bỏng rát, dù có là đêm. Anh em tôi đã chụm đầu nhau ở đấy (đúng nghĩa chụm đầu, vì quanh mép chiếc bàn tròn) mà thoát mình, thoát những gò bó chật chội vây quanh, thoát thực tại, đề cùng độc giả mang những giòng thơ văn mượt mà trong sáng, vượt được thời gian, mớm thơ mộng cho nhiều tâm hồn bạn trẻ, cho đến nhiều năm sau còn đọng lại những thương mến dành cho một thời, một thời TN của chúng ta. Và bạn đọc có bao giờ tưởng ra hết, trong những khung cảnh bó gọn như thế của các tòa soạn báo mà tiếng sét đã đánh gục khối kẻ từ trong đó bước ra, cả trai trẻ lẫn không còn trai trẻ, phải chấm dứt thời độc thân cầm bút (ông MThảo lừng khừng muôn đời đi bằng chân ngưới khác - xíchlô- , được miễn trừ). Tôi có thể kể được nhiều tên tuổi. Nhưng chỉ xin nhắc đến Thư ký tòa soạn báo Văn, thời cuối. Giáo sư Triết trường Gia Long, nhà văn NXHoàng, sét đã đánh ông văng ra tới tận Phan Thiết, tới dinh tỉnh trưởng họ Trương Gia. Một cây viết trẻ của báo Văn đồng thời cũng là của TN. Bà sau này cũng nổi tiếng như chồng trong làng văn làng báo ở hải ngoại. Sét cũng sém trúng tôi, nhưng văng xa, xa quá xa, như từ Saigon tới tận London, không còn từ trường, mất tình trường. Ta không là biển, để những dòng sông nhỏ bỏ ta đi, đi đâu rồi, sao mà biết.
TN còn phải qua một thời lêu bêu tìm chỗ đậu nữa khi nhà in NĐV đập đi xây mới. Tòa soạn tạm di dời xuống nhà in báo Xây Dựng ít tháng trước khi tìm được tồ hợp Hải Âu là chỗ đậu cuối cùng.

NHÌN LẠI ĐỊA CHỈ MỘT TÒA SOAN ,
NHỚ ANH NGUYỄN XUÂN HOÀNG
Hôm qua khi nhắc tới địa chỉ báo Văn, cũng là nơi TN có nhiều kỷ niệm ban đầu nơi đó, tôi bỗng nhớ anh Nguyễn Xuân Hoàng nhiều hơn. Tìm lại địa chỉ của Trương Gia Vy trên Net tôi chỉ thấy tin buồn của anh ĐTQuân và những lời thương tiếc về một người bạn Văn. NXH, tôi đi tìm anh tưởng như mơ hồ, tới lui lướt qua mà không nhận ra anh. Tôi chỉ thấy bầu trời vần vũ mây và những con chim biển chao lượn trong tấm hình. Từ lâu tôi chỉ nghe biết người con gái Trương Gia do bạn bè kể lại, nhưng không có dịp gặp, vì khi đó đã là những ngày cuối tháng tư năm 75. Cả hai đứng trên một bến tàu, có lẽ trời sắp có giông vì tôi thấy nhiều gió lắm, gió quấn thân , gió xổ tung những mái tóc. Và tôi nhận ra anh với mái tóc bạc phơ và khuôn mặt dường như đã nhuốm "phong trần" nhiều lắm. Khác hẳn. hình ảnh thời trai trẻ của anh khi chúng tôi hàng ngày chung một địa chỉ. To cao chắc nịch và một khuôn mặt rắn rỏi "chuẩn man". Cũng hơn 40 năm rồi còn gì. Năm 2011 khi làm tờ Xuân Hồng ở Houston anh có gủi cho tôi truyện ngắn " Mưa ở Berkeley ". Quen với phong cách cũ, tôi thấy không gian trong chữ anh giờ đã nghe lạ lắm. Có dạo chúng tôi hay đùa gọi anh là Kẻ Tà Đạo (tựa cuốn sách của anh khi ấy mới in - Sau này nhà thơ NSa khi nhắc đến anh và tác phẩm có ghi : Người còn đi tuốt trên mây / Bỏ quên biển vắng gió đầy thùy Dương / Kẻ tà đạo có lầm đường / Căn nhà ngói đỏ mù sương trở về; Còn nhà văn NNNam: Bạn đã mang nghiệp kẻ tà đạo / Dẫu đi trên mây vẫn chưa cao/ Hãy ngồi trên cỏ nhà ngói đỏ / Vây quanh…/ Bụi/ Rác / Và… nỗi đau ). Sau đó tôi còn đôi ba dịp chuyện trò với anh và Trương Gia Vy và biết được cả hai đã có những sinh hoạt văn nghệ rất phong phú nơi đây suốt nhiều năm qua. Cũng qua đó tôi biết anh đang nằm bệnh, căn bệnh héo mòn dây dưa khó qua khỏi. Chúng tôi ngậm ngùi hẹn gặp lại. Nhưng không còn kịp. Tháng 7, 2014 có dịp qua San Diego tôi rủ một người quen biết đi thăm anh. Ông có biết không, lái xe cả 7 tiếng đồng hồ nữa đó. Cali rộng quá, tôi còn có vài ba thân hữu cũng ở đây nhưng đến chỉ chào nhau qua điện thoai. Có tuổi cả rồi, ly rượu hội ngộ tưởng ra dù có nồng tới đâu chăng nữa cũng chẳng sao đốt được khoảng cách. Thế là chúng tôi mất nhau.
NXHoàng không viết nhiều, nhưng mỗi cuốn của anh có một dấu ấn riêng, chuyên chở từng quãng đời của mình. Sống, đi và viết. Văn anh như phong cách người, thâm trầm và không thích ồn ào. Day dứt nhưng không tuyệt vọng. Đó cũng là cốt cách của một giáo sư Triết.
Cũng xin nói thêm, nếu không nhìn thấy tấm hình của anh chụp thời Saigon, ngồi trên xe Lambetta với một đứa trẻ đứng trước, được lưu trên mạng, tôi cũng không nhận ra là mình đã lầm. Anh không dạy triết ở Gia Long ( anh dạy ở Ngô Quyền, Biên Hòa và TVKý Saigon.) Người vợ trước của anh mới dạy ở Gia Long. Có hai con, họ có căn nhà nếu không lầm thì ở một con hẻm đường Kỳ Đồng, Saigon. Tôi và anh DA đã tới đây chơi bài một lần.
FullSizeRender_4




FullSizeRender_3FullSizeRenderFullSizeRender_1FullSizeRender_2FullSizeRenderFullSizeRender_1FullSizeRender_2IMG_0583FullSizeRender_3

Tôi đi tìm lại một mùa xuân...

$
0
0


VỀ MỘT MÙA XUÂN DỰ TƯỞNG (HOÀI DIỄM TỪ) (Xuân Hồng Tuổi Ngọc 1973)

Tạm thời đưa em về bên đó
Thắp ngày vui rũ sạch áo hoàng hôn
Ta sẽ lấy nhau như những tin đồn
Tiệc thời gian mượn mùa xuân làm chứng
Gió bớt lạnh bởi có tình hâm nóng
Trời có buồn mây trắng sẽ làm quen
Ta sẩy chân vào chốn ưu phiền
Hãy bình tĩnh ướp đời nhau bát ngát
Hãy thong thả mở phơi tình tươi mát
Đợi bướm về ăn cưới những cành hoa
Anh sẽ đưa em đi hỏi từng nhà
Tìm tuổi thơ lầm than trong trí nhớ
Ta dắt dìu nhau trở về quê cũ
Thả thuyền con cùng khai hội dòng sông
Em đừng quên hát mừng tuổi ruộng đồng
Vì mái tóc chở đầy hương lúa mới
Tạm thời gửi mùa xuân về bên đó
Nắng chia vui lộc biếc nở đầy cành
Trong trái tim giáp mặt những đường ranh
Những ngã rẽ đưa người chung một lối
Không còn ai trong tình buồn đứng đợi
Em thẹn thùng tô một chút son tươi
Tựa vai anh trang điểm lại môi cười
Lòng ấm cúng như mặt trời mới mọc
Em xõa tóc đắp hồn nhau thơm ngát
Anh bỏ phố rêu bỏ núi bỏ rừng
Cầm tay em soi bóng xuống dòng sông
Nghe vũ trụ nói tình yêu thành thật.



Đọc 1 bài kỷ niệm của chị Julie Quang về tác giả DUYÊN ANH http://www.gio-o.com/Chung/JulieHoiUcTGNS8.htm (hoặc) http://hung-viet.org/p22834a23662/duyen-anh-ru-doi-phu-ao- (và nghe version RU ĐỜI PHÙ ẢO, trước đây chỉ nghe bản của Ngọc Hải thu chính thức vào tape sau đó Tú Quỳnh làm lại thành CD) - nhân kỉ niệm 20 năm ngày mất của ông - để thầm nhớ về một gương mặt đã chìm vào mù sương - nhưng những gì ông để lại cho cuộc sống này, những óng ả vàng mười thơ ca và kỷ niệm kết bày trong những tác phẩm của ông, và cả ...những gì ngoài văn chương: những tâm tình, giải bày, nỗi khổ và niềm mừng của ông - để gầy dựng nên một chốn đi về của những tâm hồn đẹp: tờ tuần san TUỔI NGỌC - không những cho một thời mà còn cho một đời - thì còn mãi....

Nhà văn của tuổi hoa niên, của tuổi vừa lớn... nhà văn viết VỀ và giữ DÙM tuổi thơ những cơn mộng đẹp (mộng mà ta đã từng sống qua, đã từng phiêu du trong cõi sống ấy... đến khi thoát khỏi cõi thơ ấy mới biết mình vừa rời khỏi thiên đường) - may mà còn có Duyên Anh - còn kéo theo mãi những chuyến tàu của tuổi vàng cõi mộng đi mải miết trên đường hành hương về vùng-tuổi-nhỏ-xa-mù; còn khơi lên những dạt dào cảm xúc của những năm tháng đẹp nhất đời người, còn là một nhà huyền thuật bí ẩn giải đáp được "nhu cầu tâm linh xao xuyến cần một điểm tựa, một trú ẩn, kẻ đi đường không có một điểm ánh sáng nào dẫn tới chân trời trước mặt, phải nhận đường bằng điểm lửa xa chiếu về từ một phía sau lưng..." (Mai Thảo nói về Duyên Anh trong Trò Chơi Của Trí Nhớ, Lời mở đầu trong Thằng Côn – Duyên Anh, 1968)
Như một bài thơ ngắn....mà miên man hoài hoài của PHẠM CÔNG THIỆN
"lơ lửng bông mồng gà
chiều ba mươi tết ta
tôi ôm gà tre nhỏ
chạy trốn tuổi thơ qua"
Với văn chương DUYÊN ANH, với TUỔI NGỌC - đứa bé trong mỗi chúng ta, cón có một nơi nương náu, còn có 1 bến bờ để bám víu, còn trú ngụ nơi một thiên đường mộng tưởng, còn có một vùng tuổi xanh để trốn nấp "tuổi thơ qua", có phải?!?....
Nhưng cũng chính DUYÊN ANH, trong âm nhạc,"...dường như sau những năm tháng khốc liệt ở trong nước, bây giờ như chim vừa được tháo cũi sổ lồng, Duyên Anh còn muốn nói thêm nỗi lòng của mình qua âm nhạc. Nhưng những ca khúc trong selection Ru Đời Phù Ảo chỉ có thể được soạn ra để nhà văn tự ru mình sau những cơn phiền muộn, mê hoặc, phù ảo và để tự vấn : chỉ còn vậy thôi sao ?" (Phạm Duy nói về Duyên Anh)
Từ hình ảnh của một một nhân vật trong "ÁO TIỂU THƯ" của chính tác giả (và cũng là truyện ...khai trương số 1 TUỔI NGỌC năm 1971)
"...Anh đã thật sự giã từ cuộc đời thơ mộng và đang vất vả leo dốc vật chất. Mọi người đều có một lần biệt ly bùi ngùi đó. Chỉ bất hạnh khi sợi khói tương tư vướng vào mắt, người ta không nhớ nổi kỷ niệm đầu đời...
Anh mơ hồ nghe tiếng gió êm đềm mười sáu năm qua luồn vào tâm tưởng . Anh đứng im lặng giữa chiến khu kỷ niệm..."
Luôn là niềm bâng khuâng của những nhân vật (hay của chính Duyên Anh), khởi đi từ những chiến khu kỷ niệm, khởi đi từ những phút-đứng-yên của tâm hồn mẫn cảm Duyên Anh, khi đọc Duyên Anh, may mắn thay, không ai phải mang chịu bất-hạnh "không nhớ nổi kỷ niệm đầu đời"...ấy) ...cho đến một khu vườn "phiền nhung gấm" trong âm nhạc :
"Một hôm bước chân luân lạc dẫn tôi vào hiu quạnh của đất trời. Tôi thấy từ trong cái khôn cùng nỗi tịch mịch đó; nỗi chết của mây mưa, tiếng hát của bóng tối, nước mắt của hư vô, điệu buồn của cỏ lá. Tôi cảm giác quanh tôi hạnh phúc đã đầy mầm bất hạnh mà chẳng ai biết mà chẳng ai hay; tôi bỗng dậy lòng trắc ẩn, tôi yêu mến người tôi thương xót đời và tôi lên tiếng "ru đời phù ảo"..."(Duyên Anh mở đầu băng RĐPA)
Dẫu từ trạm đầu "chiến khu kỷ niệm" của những mộng mơ đang-dần-thoát-khỏi-tầm-tay-với hay đến trạm cuối của "ru đời phù ảo" có phần chua chát của những bất toại - điểm chung chính là "tâm hồn trắc ẩn" của DUYÊN ANH, ông trắc ẩn cho kỷ niệm, trắc ẩn cho những vùng tuổi xanh, trắc ẩn cuộc đời, trắc ẩn hy vọng lẫn tuyệt vọng, trắc ẩn niềm vui và cả nỗi buồn, niềm "trắc ẩn"ấy đã khơi lên những sợi khói của nhung nhớ, của thương yêu, của một chút tiếc nuối hoài niệm mãi mãi trong bất kỳ thơ, văn, hay nhạc của ông...sợi khói tương tư làm ai cũng cay mắt...
huyvespa@gmail.com



Thư Xuân của nhà văn Duyên Anh trên số Tết Tuổi Ngọc Xuân Hồng tháng 1/1975

"Bạn ngọc,
Viết thư xuân vào một ngày cuối mùa đông nên trong thư còn phảng phất đôi chút gió lạnh hiếm hoi của tháng chạp miền nam. Đã trở thành thông lệ cho những giai phẩm xuân là gửi lời chúc Tết bạn đọc từ hôm ông Táo chưa lên chầu tời. Tôi thấy có cái gì rất gượng ép, gượng ép đến thành giả tạo mà chính mình cũng vấp váp nhiều lần. Vậy lần này không vấp váp nữa, lần này để dành lời chúc tết nồng nàn cho tháng giêng, cho số Tuổi Ngọc Tân Niên rất đông đầy khởi sắc, mới lạ. Thư-xuân-viết-vào-mùa-đông sẽ chỉ là một vài tâm sự vụn cuối năm thay vì "kết toán niên để" nghe nó đao to búa lớn quá đi thôi. Phải thế không, bạn ngọc ? Phải rằng mỗi số Tuổi Ngọc thường đã là một Xuân Hồng. Phải rằng mỗi số Tuổi Ngọc thường đã đẹp hơn, tươi non hơn bất cứ một số báo xuân nào của thiên hạ ba trăm sáu mươi nhăm ngày mới một lần cố gắng đượm đà hương tết. Thế thì bắt chước thi sĩ Đông Hồ đã sảng khoái ngâm nga : Làm chi xuân một lần khai bút, Bút đã khai từ thiên địa khai, ta cũng vi vút ngâm nga : Làm chi xuân một lần thư tết, Thư đã đưa từ Tuổi Ngọc khai ! Thư đã viết từ Tuổi Ngọc số 1. Thư vẫn còn viết. Đó là những thư buồn bã được xếp vào loại thư tả oán não nề nhất thế giới mà, có nó, bạn ngọc trách móc, thiếu nó, bạn ngọc nhớ nhung. Đôi khi, tôi tự hỏi Tuổi Ngọc hay ở chỗ nào. Và cuộc hội thảo quán cóc bèn xẩy ra giữa chúng tôi và một vài bạn ngọc. Cuộc hội thảo tốn một chai Top xanh cho Từ Kế Tường, một ly sữa nước đá cho Đinh Tiến Luyện, nửa chia bia 33 cho Nguyễn Thanh Trịnh, và chai xá xị con cọp, con nai cho bạn ngọc và mười chai bia 33 cho tôi. Tôi uống nhiều ghê. Ai uống bia nhiều, người ấy buồn nhiều. Vậy bạn ngịc đừng dại dột uống bia hay uống rượu. Lâu, rất lâu, ta làm một ly nhỏ gọi là Một ly cho đỏ mặt, Cho lên hương cuộc đời. Có câu trả lời cho Tuổi Ngọc hay ở chỗ nào rồi. Đây này : Tuổi Ngọc hay nhất ở chỗ thư tòa soạn, hay nhì ở chỗ nói thật nhiều thực hiện chẳng bao nhiêu, hay ba ở chỗ không dứt khoát trả lời bài nhận được đăng hay loại, (cứ lấp lửng đáng ghét và đáng yêu) hay tư ở chỗ truyện dài dài ngắn thất thường, hay năm ở chỗ đủ tiền thì lên tuần báo, hết tiền thì xuống bán nguyệt san, hay sáu ở chỗ bìa do Đinh Tiến Luyện vẽ với một "xì tin" nhàm chán (vậy mà tôi lại khoái mới kỳ), hay bảy ở chỗ dù tuần hay nửa tháng, tòa soạn chỉ có ba mống (còn lại là lính ma đứng tên trong bộ biên tập, lính ma không ăn lương, lâu lâu bắn xẻ một cái truyện ngắn, vài bài thơ) hay tám ở chỗ chủ nhiệm kiêm tùy phái nạp bản kiểm thâu ngân viên đi thu tiền ở nhà phát hành kiêm chuyên viên mua chịu giấy kiêm tài xế chở bia từ nhà in Nguyễn Văn Viết bên Thị Nghè về trốn thuế nhập thị hai bò, hay chín ở chỗ lười đăng quảng cáo uốn tóc sửa sắc đẹp và hay mười ở chỗ không bao giờ treo biển Tuổi Ngọc trước cửa tòa soạn. Có thể kể thêm những cái hay, nếu cậu Kiến Vàng mở cuộc thi ăn giải thật ở mục Chạp Phô. Tuy nhiên, CÁI HAY viết hoa lại ở chỗ bạn ngọc còn chịu khó chiếu cố Tuổi Ngọc. Và, cái hay này, nên mở cuộc phỏng vấn bỏ túi : Với một tờ báo mười cái hay hỗn láo, tại sao bạn mua nó làm gì ? Có nên mở cuộc phỏng vấn chăng, bạn ngọc ?
Bạn ngọc,
Nói rằng Tuổi Ngọc lỗ vốn là nói dối. Tuổi Ngọc, với mười cái hay cộng thêm một CÁI HAY sức mấy mà lỗ vốn. Bán báo cũ cân ký lô thanh toán tiền thù lao này nọ, Tuổi Ngọc lời chút đỉnh, đủ tiền thuốc lá, cà phê, xăng nhớt. Tôi đã kể lể với nhà văn Bình Nguyên Lộc thế, ở một quán cà phê Ba Tàu, và tác giả truyện ngắn Rừng Mắm bất hủ chi một câu khích lệ : Tốt rồi, không lỗ là cự phách rồi, là lãi nặng vì chưa có thuở nào báo văn nghệ lãi ở cái xứ sở có bốn ngàn năm văn hiến này. Thỉnh thoảng, Tuổi Ngọc lại có thêm bạn ngọc mới. Tưởng cũng nên ôn cố sự để bạn mới hiểu rõ về tờ báo nhỏ bé yêu dấu của mình. Tôi bỏ ra 600 ngàn đồng in 4 cái bìa một lúc và hoàn thành 1 số báo. Nhà phát hành ứng trước 250 ngàn đồng. Bèn mua chịu giấy in số tiếp, chờ thanh toán mua bìa. Cứ thế, số vốn còm cõi, số vốn làm báo ít nhất của làng báo thế giới loay hoay mỗi tháng xuất bản 2 số Tuổi Ngọc. Nếu anh em chúng tôi có một cái nhà in một máy thôi (máy cổ điển chạy cà rịch cà tàng là dư ăn), chúng tôi có thể làm hay thêm chút nữa. Hoặc nếu chúng tôi có cái máy in ốp xét và được Bộ Văn Hóa Giáo Dục mua ủng hộ mỗi kỳ vài trăm số báo, Tuổi Ngọc sẽ đẹp và hay như bạn ngọc mong muốn. A, hãy nói về Bộ Giáo Dục năm sáu năm trước, thời ông Lê Minh Liên làm tổng trưởng, thời Tuổi Ngọc bộ cũ khổ lớn. Bấy giờ, ông Châu Kim Nhân chưa làm tổng trưởng tài chánh. Bây giờ, ông Nhân làm tổng giám đốc trung ương tiếp vận. Tôi quen với ông Nhân. Ông đã đi lấy quảng cáo giùm Tuổi Ngọc nhưng người ta chê báo Tuổi Ngọc không có hiệu quả thương mại ! Ông Nhân bèn dẫn tôi lên "yết kiến"ông Lê Minh Liên với ma két Tuổi Ngọc và tôn chỉ, đường lối. Ông tổng trưởng Liên "lấy làm một sự" hứa hẹn tưng bừng. Ông bấm chuông. Tùy viên của ông hối hả trình diện. Ông bắt tùy viên ghi "vấn đề Tuổi Ngọc" vào sổ. Rồi ông mời tôi xuống tiếp xúc với ông giáo Lưu Trung Khảo. Tôi ra về thơ thới hân hoan. Hôm báo ra mắt, ông tùy viên của Bộ tô lô phôn nhắn : Thưa ngài chủ nhiệm, mỗi tuần, ngài cho người namg lên Bộ 2 số Tuổi Ngọc ! Tôi bảo ông tùy viên đợi tôi một tí. Bèn làm con tính. 1 số báo 20 đồng. 2 số báo 40 đồng. Mỗi tháng Bộ ủng hộ 160 đồng bạc Việt Nam. Mỗi năm Bộ "tài trợ" những... 1930 đồng. Nhiều quá. Nhưng thuê một chuyên viên đưa báo và thu tiền Bộ "tài trợ" mất 6000 đồng một tháng. Vậy nên trả lời : Thưa ngài tùy viên, chúng tôi cảm động muốn ngất xỉu về sự ưu ái của Bộ ta, để đền đáp tấm lòng "tài trợ" quý hóa đó, xin ông tùy viên làm tờ trình với ông tổng trưởng rằng, nếu không có gì trở ngại, hãy cử ông tùy viên mỗi tuần xuống tòa soạn, chúng tôi kính biếu 6 số báo nóng hổi.Dĩ nhiên, chuyện chấm dứt ở đó. Nay, một vài người khoái Tuổi Ngọc, cứ đòi dẫn tôi lên "yết kiến"ông Tổng Trưởng Văn Hóa Giáo Dục, tôi đành giả vờ đối lập hạng nặng mà biểu lộ lập trường : Không thể lấy tiền nhà nước làm báo được. Nhà nước tài trợ những 6000 đồng (giá báo hiện thời) một năm, mình xây bin đinh sợ dân chúng khiển trách ! Nhân tiện nhắc tuần báo Búp Bê tám chín năm qua. Hồi đó tôi quen ông Mark Crooker, một chức sắc ở Juspao. Ông Crooker đã tự ý xoay sở cho tôi làm chuyến thăm Mỹ quốc 3 tháng. Ông khảo sát khả năng Ăng lê tự học của tôi, đến tận nhà tôi mỗi ngày "Anh văn thực hành"để tôi nghe quen dễ hiểu. Rồi ông mang hồ sơ cho tôi điền tiên ký... và đóng dấu ! Chuyến Mỹ du hỏng. Ông Crooker tiết lộ có mấy ông Mít cùng sở báo cáo với xếp của ông rằng tôi ghét Mỹ, từng viết những phóng sự chế giễu Mỹ kịch liệt. Tuy nhiên, hay tin tôi xuất bản báo nhi đồng, ông vẫn giúp đỡ. Ông đề nghị Juspao cung cấp bìa "de luxe" in giùm luôn, chỉ yêu cầu bìa sau Búp Bê là truyện tranh lịch sử Hiệp chủng quốc. Tôi không bằng lòng. Và bìa Búp Bê in bằng giấy báo và xuất bản được 6 số là kềnh. Tôi có thể trả lời những anh ái quốc nửa mùa, những anh thiên tả chột ngớ ngẩn rồi đấy. Tôi đợi hôm nay mới trả lời các anh ấy. À, các anh ấy cứ quả quyết Tuổi Ngọc nhận tiền của Mỹ và Nhà Nước để ru ngủ tuổi trẻ.
Bạn ngọc,
Bộ Giáo Dục không thèm biết đến báo Tuổi Ngọc. Điều này dễ hiểu. Vì Tuổi Ngọc chỉ nạp cho Văn Khố Quốc Gia có hai bản. Luật bắt nộp thì phải nộp. Nộp ở Thông tin, Nội vụ, Tòa án là đúng. Nộp ở Văn Khố thuộc Bộ Văn Hóa Giáo Dục là sai. Đáng lẽ, muốn có sách báo cho thư viện, Bộ phải mua. Chúng tôi cong người chạy mua chịu từng tờ giấy, Bộ không có bổn phận điểm báo, điểm sách trước khi cho phép chúng tôi phát hành, Bộ lấy sách báo của chúng tôi là điều vô lý. Nhưng chúng tôi đang sống với khá nhiều sự vô lý. Tôi đã vác 8 cuốn Cây leo hạnh phúc dầy cộm (giá 1400 đồng 1 cuốn) cống Văn Khố, đau buốt ruột gan. Người lãnh đạo văn hóa là ngài phụ tá Đỗ Văn Rỡ, chuyên viên khuyến lệ cổ ca, không hề đọc sách của tôi, bắt nọp chi tới 8 cuốn, trong khi, ở Thông tin chúng tôi chỉ nộp có 2 cuốn ! Tôi nói ngài Đỗ Văn Rỡ không hề đọc tôi là có dẫn chứng đàng hoàng. Hôm nhà văn Nhã Ca tổ chức cuộc tiếp tân tại Trung Tâm Văn Bút, có ngài Đỗ Văn Rỡ chủ tọa chi đó. Tôi cũng đến dự. Chủ tịch Thanh Lãng giới thiệu ngài với tôi. Chúng tôi thảo luận văn chương rất xôm tụ. Nhân ngài bàn về vấn đề thiếu nhi, tôi mới hỏi ngài đã đọc cuốn Bò sữa gặm cỏ cháy của tôi chưa, ngài thật thà đáp chưa từng đọc cuốn sách nào của tôi, dù tôi đã viết 50 cuốn và dù ngài lãnh đạo văn hóa miền Nam. Tôi bèn chán quá. Đó, ngài Đỗ văn Rỡ (chắc hôm nay vẫn chưa đọc tôi) không đọc tôi, bắt tôi nạp bản ở Văn Khố những 8 cuốn làm gì ? Thành ra, đừng bao giờ kỳ vọng ở Bộ Văn Hóa Giáo Dục đã đành, mà còn phải vừa chạy gạo nấu cơm ăn để sống vừa viết văn vừa mua chịu giấy, in chịu sách vừa lạy các nhà phát hành vừa... ủng hộ Văn Khố. Và lâu lâu nghe quý vị lãnh đạo văn học nghệ thuật dạy dỗ cái sứ mạng cầm bút, cái trách nhiệm văn chương và cái ảnh hưởng vô cùng của văn hóa. "Làm văn hóa mà lầm là giết muôn đời". Nhưng viết văn mà đói thì chỉ môt mình tên văn sĩ chết kéo thêm sự đói rách của vợ con hắn ta. Hi hi, vui ghê nơi. Vui hơn, khi tháng trước, một ông Ấn Độ, sứ giả của Unesco, sang Việt Nam ghé thăm Tuổi Ngọc điều tra và hứa hẹn giúp đỡ. Vị này yêu cầu Tuổi Ngọc gia nhập Tổ chức Báo Định kỳ Á Châu. Đồng ý liền. Lại phán : Hai năm nữa sẽ được giúp đỡ thiết thực. Thưa ông mỗi tháng được cấp mấy nghìn đô la ạ ? Ồ, không có đô la, tiền đâu làm nền... văn hóa quốc tế. Tổ chức sẽ cung cấp bài vở cho quý báo tùy nghi xử dụng, khỏi trả nhuận bút. Cám ơn ông, bài vở thì bạn ngọc của chúng tôi viết hay hơn quý ông ngàn lần. Với lại, hai năm lâu thí mồ, chúng tôi sợ sẽ kềnh trước ngày nhận được bài vở của Unesco. Chúng tôi được cả sự trợ giúp của cả quốc tế nữa, bạn ngọc ạ !
Bạn ngọc,
Bạn đã chán đọc thư xuân chưa ? Nếu chưa thì nên đọc tiếp. Những giòng sau đây lạc quan, yêu đời chứ không mỉa mai, cay đắng nữa. Chúng ta trở lại cái máy ốp xét nhé ! Giá có một cái máy ốp xét nhỏ, Tuổi Ngọc sẽ xuất bản tuần báo và cam đoan in 5000 bán 4000. Hễ bán nổi 4000 là sống muôn năm. Dĩ nhiên, sống bình thường để chơi báo đẹp chứ không phải làm giàu nhờ báo.Nhưng hãy quên cái máy ốp xét đi. Tuổi Ngọc chẳng nuôi nổi máy đó. Nhiều công việc mới nuôi nổi nó và thợ phụ trách nó. Ta bắt đầu lạc quan. Trước hết, tôi lạc quan. Tôi lạc quan bằng cách làm thơ. Xuân Hồng Tuổi Ngọc in thơ của tôi đấy. In khuyến khích mầm non thi sĩ. Ra giêng tôi xuất bản một thi phẩm đua tài với hai thi sĩ Elvis Đậu và Đoàn Dự. Tôi còn yêu đời với 5 truyện dài vui nhộn, cười bằng thích, 5 truyện vui nhộn và cả truyện lãng mạn. Ăn tết xong, tôi cho phát hành truyện Tháng giêng ngon như một cặp môi gần. Kế đó là truyện Em Yêu mở đầu tủ sách Tuổi Ngọc Phổ Thông. Tôi cũng định đưa Tuổi Ngọc trở về đời sống tuần báo. Khó khăn là giữ số trang như bán nguyệt san hay rút số trang xuống. Giữ nguyên, với giá 250 đồng tôi sợ Tuổi Ngọc quỵ vì bạn ngọc nghèo như Tuổi Ngọc, một tháng phải chịu cả ngàn bạc, tiền đâu. Rút xuống, Tuổi Ngọc sẽ mỏng dính, trông thảm lắm. Vậy cách hay (lại hay) là Tuổi Ngọc xuất bản 10 ngày 1 số. Nhưng chúng ta nên chờ xem tháng giêng có ngon, mùa xuân có êm đềm không cái đã. Cuộc cách mạng kinh tế mùa đông 1974 của tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo hứa hẹn nhiều no ấm, chúng ta cần hy vọng để Tuổi Ngọc vùng lên. Tạm thời, chúng ta cứ bán nguyệt san xem sao. Tuổi Ngọc Tân Niên số 154 khởi đăng hai truyện dài của Đinh Tiến Luyện, Từ Kế Tường. Mục Nhìn xuống đời thêm nhiều trang, chú ý tới những sinh hoạt văn nghệ tỉnh nhỏ và tìm kiếm những cây bút trẻ có triển vọng để giới thiệu tác phẩm của họ một cách rộng rãi, nghĩa là xuất bản tác phẩm của họ và phổ biến văn tài của họ trên các tạp chí văn chương, trên đài phát thanh. Vân vân... Tuổi Ngọc sẽ bỏ mục Chạp phô, chừng xuất bản dưới hình thức tuần báo sẽ cho nó... tái ngộ. Đại khái, từ số 154, Tuổi Ngọc sẽ khoác chiếc áo mới. Tôi cố gắng suốt năm 1975 với Tuổi Ngọc, qua năm 1976, xin nhường lại Tuổi Ngọc cho Đinh Tiến Luyện và tôi nghỉ dưỡng sức vài năm. Có thể, trên đường dưỡng sức, sẽ nghỉ luôn nghề viết. Đã đến cái thời của những Nguyễn Thanh Trịnh, Đinh Tiến Luyện, Từ Kế Tường và của một số bạn ngọc mà tôi chưa tiện nêu tên tuổi họ, ngợi ca tuổi trẻ và tình yêu của chính tên tuổi họ. Tiếng nói của tôi không còn êm ái nữa. Đã nhiều gai góc. Tôi không thể đi tiếp con đường tôi đã đi ròng rã mười lăm năm. Phải bỏ nó hoặc, còn muốn đi, phải kiếm con đường khác, con đường mới có một mình ta đi. Hãy buồn giùm tôi một tí, bạn ngọc, tôi đã bốn mươi mốt tuổi. Bốn mươi mốt tuổi mà những hai mươi năm luân lạc, và mưu sinh và lắp sừng nhọn húc đua với cuộc đời trong cuộc chiến khốn khó để vượt lên, tôi thấy tôi già gấp hai lần tuổi thật.
Bạn ngọc,
Chiều nay, tình cờ gặp trên bàn viết ở tòa soạn một mẩu bài của thi sĩ Nguyên Sa (tập san Nhà Văn chung tòa soạn với Tuổi Ngọc) xé rời cho thợ sắp chữ và còn sót trước mặt tôi. Tôi cầm đọc. Gặp giòng này : "...Tuổi Ngọc là báo làm đẹp chữ nghĩa". Chỉ có vài tờ báo làm đẹp chữ nghĩa (hình như hai) từ mấy năm gần đây, theo Nguyên Sa (Nhà Văn, số Tết). Tôi cảm động chút chút thôi. Nhưng tôi dám chắc bạn ngọc cảm động nhiều. Bởi vì, bạn ngọc đã viết cho Tuổi Ngọc, đã đọc Tuổi Ngọc tức là đã đóng góp tích cực vào việc làm đẹp chữ nghĩa. Thư-xuân-viết-vào-mùa-đông dừng ở đây. Với nhiều bâng khuâng như thuở đầu đời còn muốn ghi thêm vài câu nồng nàn cuối bức thư tình thứ nhất"

Thân ái,

Vũ Mộng Long
(15-01-75)










Người Việt Đinh Dậu - “Miền Nam yêu dấu”

“Miền Nam ! Niềm vui chan chứa đêm mơ hồ
Miền Nam ! Tình xuân sưởi ấm thêm đôi bờ
Giờ đây, mùa xuân đang xóa tan mây mờ
Quên đi đau thương sầu nhớ
vui ca tung gieo nguồn sống
đắp xây tự do”









BÀI ĐẦU NĂM TÌNH YÊU (Nguyễn Tất Nhiên)
nắng xuân nào long lanh trong mắt bé
đầu tháng giêng tây anh đã tết ngày tình
đầu tháng giêng tây anh đã xênh xang mới mẻ
óng ả linh hồn, ríu rít nhịp tim

nắng xuân nào long lanh trong mắt bé
linh hồn anh từ đó ướp trầm hương
linh hồn anh, từ đó, ngạt ngào thơm
máu, như nước hoa chan đời lễ lạc
máu, như gió lành chảy qua ruộng đồng bát ngát
chở chuyên mùi lúa chín quanh năm
như sông hiền chia chín ngả: cửu long giang
ôm ấp phù sa, lẫy lừng sức sống
tình, đã mở ra một bầu trời nạm ngọc
linh hồn anh, từ đó, khảm muôn sao

nắng xuân nào long lanh trong mắt bé
thơ học trò anh thách thức thời gian
có luật đào thải khắt khe, có kẻ cùng thời ghen tị
hãy duyên dáng nở nụ cười âu yếm nhẹ
hạt răng đều chới với đứa ngồi trông
thơ học trò anh gieo vần tuyệt kỹ
thơ học trò, anh thổi ấm gió tàn đông
cho ai mang vào trường khoe với bạn: của anh Nhiên …

nắng xuân nào long lanh trong mắt bé
mười ngón tay gầy anh có cách chi không
nhặt cả bóng cả hình chàng thi sĩ
lẫn cái tài hoa, trao gọn giữa tròng đen

Nắng xuân nào long lanh trong mắt bé
linh hồn anh, từ đó, bỗng ham vui
linh hồn anh, từ đó, mãi mê chơi
thượng đế nếu hỏi tại sao, anh sẽ trả lời mạnh dạn:
thiên đàng của ngài là an bình, thanh thản
ngài nên đem phủ dụ những bà cả ông già


nắng xuân nào long lanh trong mắt bé
đầu tháng giêng tây anh đã tết ngày tình
đầu tháng giêng tây anh đã xênh xang mới mẻ
quên hết phận người, hiện tại, việt nam … (1975)


Image may contain: 2 people, text





"Em ơi hoa thắm rơi ngập đường trời nắng xế vương vương..."

"đường trần em đi/ hoa vàng mấy độ..."
"vàng phai sẽ cuốn đi mịt mù..."












Image may contain: 1 person, plant, tree and outdoor


Viewing all 110 articles
Browse latest View live