Quantcast
Channel: What goes around comes around..
Viewing all 110 articles
Browse latest View live

Book wish-list

$
0
0


"“Books make great gifts because they have whole worlds inside of them. And it's much cheaper to buy somebody a book than it is to buy them the whole world!”
Những ấn phẩm liên quan đến chữ nghĩa (khó kiếm hay đã xuất bản lâu...hoặc không có ở Vietnam) , đem vào album này...nhờ kiếm/ mua giúp...!!!













































Ebook tạp chí Diễn Đàn Thế Kỷ - Làng Văn - Văn Học

$
0
0

Diễn Đàn Thế Kỷ đã điện toán hóa toàn bộ tạp chí Thế Kỷ 21 từ Số Ra Mắt vào tháng Năm 1989 đến số 223 tháng Mười Một năm 2007 là số cuối cùng tờ báo này còn thuộc về công ty Người Việt, trước khi nhượng quyền khai thác cho một cá nhân.
Trong thời gian 18 năm, trải qua 223 số báo, Thế Kỷ 21 góp phần đóng vai trò một diễn đàn phong phú cho đời sống tinh thần của người Việt Nam hải ngoại, qua các đời Chủ nhiệm Đỗ Ngọc Yến (1989-1991), Lê Đình Điểu (1991-1996), Phạm Phú Minh (1997-2001), Hoàng Ngọc Tuệ (2001-2004), Đỗ Việt Anh (2005-2007); và với hai đời Chủ bút Vương Hữu Bột (1997-2001), Phạm Phú Minh (2001-2007).
Là một tạp chí mang tính cách bách khoa, Thế Kỷ 21 suốt thời gian hoạt động của mình đã có được sự cộng tác của những cây bút hàng đầu của cộng đồng Việt Nam hải ngoại về các lãnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, lịch sử, khoa học, văn hóa, văn học..., đã phát hành đến khắp nơi trên thế giới có người Việt Nam sinh sống, và dưới mắt nhiều người, tờ báo đã thành một định chế ngôn luận chung của người Việt Nam.


"Sau Văn của Mai Thảo, tạp chí Làng Văn trình làng.http://issuu.com/duongkim Làng Văn thừa hưởng không khí bừng bừng khí thế của một cộng đồng đang độ tăng trưởng chín muồi sung mãn, kèm nỗi nhớ nhà nóng bỏng của lớp người mới vượt biên. Một tạp chí mới, một lớp độc giả mới với một tâm tình mới. Huyền Châu, Tuệ Nga, Hồ Trường An, Ngô Nguyên Dũng, Nguyễn Ngọc Ngạn, Lê Văn Lân, Ngọc Khôi, Nguyễn Tấn Hưng, Thái Vaên Kiểm, Võ Kỳ Ðiền, Nguyễn Văn Ba, Trần Long Hồ, Phan Ni Tấn, Luân Hoán, Lâm Hảo Dũng, Diệu Tần, Hoàng Xuân Sơn, Nguyễn Ðức Bạt Ngàn... đem đến cho Làng Văn những độc giả trung thành trường kỳ. Những năm 84-89 thời kỳ cực thịnh, Làng Văn thành công rực rỡ, số bán vượt xa các tạp chí khác. Người Làng đông như trẩy hội như nhà báo Nguyễn Hữu Nghĩa nhận xét.

Cùng thời gian đó, 1985 Võ Phiến tục bản Văn Học Nghệ Thuật bộ mới,http://issuu.com/kesach rồi từ tháng giêng 86 đổi tên là tạp chí Văn Học do Nguyễn Mộng Giác điều hành có thể xem là tạp chí uy tín nhất của giai đoạn 85-88. Ða số những bài viết xuất sắc đều xuất hiện trên diễn đàn này và bên cạnh những nhà văn cộng tác trụ cột thường xuyên Nhật Tiến, Võ Ðình, Lê Tất Ðiều, Ðịnh Nguyên, Tưởng Năng Tiến, Võ Phiến, Nguyễn Bá Trạc, Hà Thúc Sinh, Nguyễn Tất Nhiên, Thế Uyên, Hoàng Khởi Phong, Trần Hoài Thư, Hoàng Ngọc Tuấn, Nguyễn Xuân Hoàng, xuất hiện vô số người viết mới: Khế Iêm, Ngu Yên, Phạm Việt Cường, Phan Tấn Hải, Kiệt Tấn, Thường Quán, Cao Xuân Huy, Trịnh Y Thư, Nguyễn Ðức Lập, Nguyễn Ý Thuần, Hồ Ðình Nghiêm, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nguyễn Mạnh Trinh, Trần Trúc Giang, Trần Thị Kim Lan, Trần Thị Lai Hồng, Trân Sa, Lê Bi, Vũ Huy Quang, Trương Vũ, Thế Giang, Trần Vũ, Ðỗ Kh., Mai Kim Ngọc, Vũ Quỳnh Hương, Nhược Thủy (Y Chi)... Cũng chính trên diễn đàn này khởi đầu nền phê bình ngoài nước qua các bài viết đầu tiên của Thụy Khuê, Bùi Vĩnh Phúc và Nguyễn Hưng Quốc. Văn Học như thế đã ra đời trong hoàn cảnh vô cùng thuận tiện, với một nguồn nhân lực mới mẽ hùng hậu đang trong giai đoạn khởi viết"





Ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng...( & tạp chí Nghệ Thuật số 51 - năm 1966)

$
0
0




"Đã đi thì đã đi rồi
Thượng phương trùng điệp thấy gì nữa đâu
Hạ phương ngày tháng bể dâu
Sắt son tình cũ phượng cầu túy hương
Đã đi rồi đã đi chưa
Thượng phương lụa trắng đong đưa giữa trời
Đã đi mất hẳn đi rồi
Hạ phương tịch mịch trùng khơi phong kiều..."


(PCT)


rồi em lại ra đi như đã đến
dòng sông kia cứ vẫn chảy xa mù
ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng
nghe giữa hồn cây cỏ mọc hoang vu
(Hoài Khanh)










Trong đĩa này của nhạc sĩ ĐĂNG KHÁNH, có bài MẮT EM VƯƠNG GIỌT SẦU lấy ý từ 2 câu thơ trên của HOÀI KHANH








Những ngày thứ bảy đẹp trời trong năm...
Ngồi đọc lại 2 quyển VĂN (hải ngoại) thời MAI THẢO và thời NGUYỄN XUÂN HOÀNG, 1 cuốn năm 1988 (lúc đó mình chỉ mới..2 tuổi)...Đọc đi đọc lại mục SỔ TAY MAI THẢO - đọc là đọc cái cách ông viết ra - đọc một giọng văn bay bướm ngắt câu lãng mạn kiểu Mai Thảo - những bài này đã đọc rồi nhưng lần nào đọc lại cũng như lần đầu tiên....Và nghĩ đến 1 tuyển tập tên là SỔ TAY MAI THẢO (tại sao là không?!?:)
Số này có bài " LÊN CAO HÔN TRỜI" - Nguyễn Hưng Quốc Nguyễn Hưng Quốc viết về thơ CUNG TRẦM TƯỞNG cũng khá thú vị.
Cuốn bên phải năm 1998 với tranh bìa của hoạ sĩ NGHIÊU ĐỀ - nhìn vào là biết ngay - với những "gam" màu, với những bụi chuối, với những bố cục rất "Nghiêu Đề"...trong số này có bài thơ của MAI THẢO tặng hoạ sĩ ĐINH CƯỜNG năm 1957 - NGÀY MAI VUI









"tôi một bữa ngồi yên như bàn ghế
nắng rọi trong đầu những trắng bao la
còn đôi mắt tôi ở nhà bè Gia Định
ở ngã Tư Bảy Hiền ly nước mía, má, môi

em đạp xe mini trời gió mềm trong áo
thành phố bập bềnh trôi giữa nắng mênh mông
sợi tóc chẻ hai gần đường xích đạo
vạt áo sau lưng khép hở Saigon
...
em ở cư xá Thanh Đa em ở chung cư Minh Mạng
em ở khắp đất trời trong thế giới tôi
em ở với Việt Nam ở với ly cà phê đá
ở với chỗ em ngồi ấm uyên ủy tôi

tôi ngủ mấy ngày đêm vẫn chưa mộng mị
thử tưởng tượng một ngày cho đỡ thê lương
em với nắng với Saigon với tôi tập họp
nắng trên Saigon, Saigon trên nắng lô nhô

em đâu biết, tôi bây giờ, hầu như cây kiểng
bỏ phế trong nhà cũng mấy năm qua
tôi sống, cảm giác, ngọn dáo đâm trước ngực."
(CAO ĐÔNG KHÁNH)









Trả lại em yêu khung trời mùa hạ / Ngọn đèn hiu hiu nỗi lòng cư xá...
‪#‎saigon‬ ‪#‎onthemove‬ ‪#‎wanderlust‬ 
chiều qua rất êm như môi ai...






Last but not least, mỗi tuần/ ...hoặc tháng, tôi sẽ chia sẻ 1 tài liệu văn chương miền Nam trên blog/ issuu...hòng 
CỦA TIN CÒN MỘT CHÚT NÀY LÀM GHI
Rgds!



Visitor Counter


Visitor Counter

Tháng 4 - ru đời phù ảo...(& tạp chí NGHỆ THUẬT số 52 - 1966)

$
0
0



"trót nghe nửa tiếng cười đùa
xóm hoa mưa đổ hương xưa nghẹn ngào
thuở buồn ai đẹp phương nao
cúi đầu trinh khóc xôn xao trêu người
yêu nhau không dám ngó trời
trời xanh mây trắng xuân đời bỏ hoang
hoa mai nở đón mắt nàng
mà trông môi lạnh muôn vàn cách xa
hôm nay muốn gió thành hoa
muốn mây thành tóc lòng ta rũ cười
bao giờ trọn vẹn cuộc đời
ta ôm mây trắng cho trời mãi xanh"
(Xuân Ca - Thanh Tâm Tuyền) 








chỉ với tên các nhà xuất bản đã nói lên cái tầm văn hoá của 20 năm rực rỡ một nền văn chương nghệ thuật phong phú và nhân văn: GÌN VÀNG GIỮ NGỌC, KHAI PHÓNG, AN TIÊM, CA DAO, VÀNG SON...






Tháng 4 với những cơn "phiền nhung gấm"....bảng lảng, và hôn mê

Ngày xưa em lụa đào
Anh nắng vàng xôn xao
Ôi người yêu ngọc ngà
Sợ quên em đêm nhớ
Nụ hôn đêm nào cho
Khi về còn ngẩn ngơ
Dòng sông dưa chuyện tình
Theo sóng đầy lênh đên
Em lụa phai nhạt màu
Nụ hôn xưa rớm máu
Vạt nắng sáng nguồn cơn
Bây giờ… hoàng hôn!

music.hatnang.com/audio/by/album/ru_a_a_i_pha_a_o_-_ta_nh_kha_c_duya_n_anh


"Dường như sau những năm tháng khốc liệt ở trong nước, bây giờ như chim vừa được tháo cũi sổ lồng, Duyên Anh còn muốn nói thêm nỗi lòng của mình qua âm nhạc. Nhưng những ca khúc trong selection Ru Đời Phù Ảo chỉ có thể được soạn ra để nhà văn tự ru mình sau những cơn phiền muộn, mê hoặc, phù ảo và để tự vấn : chỉ còn vậy thôi sao ?"
(Phạm Duy)

------------------------------------


Tròn 4 giáp số kỷ niệm ĐỆ NHẤT CHU NIÊN tuần báo NGHỆ THUẬT  (số 50) (10/1966 -- 10/2014)

tuần báo NGHỆ THUẬT - XUÂN BÍNH NGỌ 1966 - Mùa xuân, tình yêu & đất nước trong THƠ VĂN

Tuần báo NGHỆ THUẬT (1965-1966) - một RỰC RỠ khác của VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM...

{Tuần báo NGHỆ THUẬT 1966-1967} - Loạt 10 bài 10 tác giả viết về 10 tác giả

( VIÊN LINH viết về VÕ PHIẾN
MAI THẢO viết về VŨ KHẮC KHOAN
CUNG TRẦM TƯỞNG viết về THANH TÂM TUYỀN
TẠ TỴ viết về VŨ HOÀNG CHƯƠNG
LÊ HUY OANH viết về SƠN NAM
BÌNH NGUYÊN LỘC viết về THANH NAM
LÝ HOÀNG PHONG viết về KIÊM MINH
PHAN LẠC PHÚC viết về MẶC ĐỖ
TÔ THUỲ YÊN viết về DƯƠNG NGHIỄM MẬU
SƠ DẠ HƯƠNG viết về NGUYỄN ĐÌNH TOÀN  )


NGHỆ THUẬT SỐ 52 với bài tường thuật VIẾT VỀ ĐÊM ĐỌC THƠ CHIẾN TRANH & TÌNH YÊU cùng với 1 bài "TẠI SAO TÔI LÀM THƠ" của THANH TÂM TUYỀN....






3 số nguyệt san NHÀ VĂN đầu tiên và (cũng là) cuối cùng trước "tháng Tư úng thủy"

$
0
0
Những điểm đặc biệt của 3 số tạp chí NHÀ VĂN này (chủ trương: TRẦN DẠ TỪ & NGUYÊN SA) (từ tháng 1 đến tháng 3/1975)

- 3 số đầu và cũng là 3 số cuối của tạp chí văn chương nghệ thuật này , kết thúc ngay trước thềm Avril Noir
- Tập hợp hầu hết những nhà văn/ nhà thơ thời danh lúc bấy giờ , (có lẽ) chưa ai ngờ và không ai (muốn) ngờ đến một cuộc đổi đời thảm khốc ngay sau đó...bằng chứng là vẫn tràn đầy những sáng tác, tươi mới, đa dạng, tự do sáng tạo... và những hứa hẹn, khai phá mới... những quảng bá, giới thiệu v
à mong ngóng các tác phẩm cho một một ngày mai… không bao giờ đến…
- Những khuôn mặt của các nhà văn/ nhà thơ của 20 năm nền VHNT huy hoàng ấy được xuất hiện trang trọng trên các số báo như một bảo chứng cho độc giả về giá trị nhân văn & nghệ thuật, không là những son phấn , những bích chương quảng cáo mà chính là những chân dung của các tác giá như loé sáng một chút bình yên của một miền tự do trong những giờ cuối cùng , những hình ảnh đóng đinh ngay tức khắc vào trí não độc giả như một yêu dấu đã từng...

Khi tôi post những tấm hình của 3 số báo NHÀ VĂN lên facebook, có 1 comment thú vị làm tôi khá xúc động

“Hai ông bà cụ, bố mẹ đứa bạn thân, tháng Tư, 1975, chạy bán sống bán chết, cuối cũng may mắn sang được Pháp. Gia tài mang theo: một bộ mạc chuơc cổ, chai cà cuống và (có vẻ như) toàn bộ Văn”

Và như thế là “chúng ta đi mang theo quê hương” , phải chăng?

(nhắc đến chuyện này tôi nhớ trong 1 bài viết ngắn , nhà văn Viên Linh đã kể lại một câu chuyện - của 1 cá nhân - nhưng cũng là câu chuyện của miền Nam bất hạnh - của sách vở miền Nam bất hạnh vậy:


"Người đàn ông tới tòa soạn tờ báo kiếm tôi muốn bán bộ tạp chí Văn 245 số đã đóng thành 42 tập. Ðương nhiên là tạp chí Văn đối với người viết văn đáng quí hơn là tạp chí Bách Khoa. Người bán không chịu ra giá. Hỏi nhiều lần anh cũng không nói. Người bán không nói giá, người mua không biết đâu mà tính, nhưng cứ khả năng mình, tôi nói sẽ biếu anh nguyên bộ Khởi Hành trị giá lúc ấy khoảng 300 Mỹ kim, cộng thêm 1500 Mỹ kim tiền mặt, anh nhìn tôi lặng lẽ đi ra. Khoảng vài chục thước, anh quay lại nói: “Tôi nợ credit card sát ván rồi, nên mới phải bán bộ báo Văn.” Hỏi anh bộ báo của chính anh mua rồi mang từ Việt Nam qua hay của ai, anh nói khi còn ở Việt Nam, anh chỉ mua tiểu thuyết đọc, chứ không mua tạp chí. 
Nhưng một hôm vào cái ngõ ở khu Tân Ðịnh, thấy một ông mập mạp cởi trần đang ngồi bán mấy thứ lặt vặt trước nhà, anh hỏi mua sách, thì ông nói có bộ báo Văn, có mua thì ông bán. Ông mang ra cho xem mới thấy ở gáy tập báo nào cũng có tên chủ nhân mạ chữ vàng in nổi trên cái bìa simili màu xanh xám: Trần Phong Giao. Tôi im lặng nhưng lòng trĩu nặng, đó là thư ký tòa soạn tạp chí Văn, đó là bạn tôi, đó là người mang hết tinh hoa kiến thức của mình gầy dựng nên tờ báo văn chương có nhiều năm bán chạy nhất ở miền Nam. Năm 1975 từ Virginia tôi gửi thư về địa chỉ ở Tân Ðịnh cho bạn, nhưng thư bị trả về, bên ngoài phong bì có nét bút gạch chéo sỗ sàng, và mấy chữ “không có ở đây.” Người bán sách cũ nói thêm anh không định mua bộ báo, chỉ khi biết người đó là Trần Phong Giao, người làm ra bộ báo, anh mới mua, để giúp ông, vì đoán chừng ông đang cùng quẫn.."


http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=192967&zoneid=257#.VTi3ISGqqko )

Trong một đoạn thơ từ dòng “thơ tháng Tư” được làm từ rất sớm sau “Tháng tư úng thủy đầu mùa máu tuôn” :

“Nếu mai mốt bỗng đổi đời phen nữa
Ông anh hùng ông cứu được quê hương
Ông sẽ mở ra nghìn lò cải tạo
Lùa cả nước vào học tập yêu thương”
(Cao Tần)

Những bài học yêu thương đó, hãy bắt đầu bằng những dặt dìu lục bát Cung Trầm Tưởng (&...lục bát Viên Linh, Hoài Khanh..) , bằng những nghi hoặc (từ) đoản văn Vũ Khắc Khoan, bằng những êm ái thơ-văn-xuôi Mai Thảo, bằng những tuỳ bút Võ Phiến, bằng những “bởi yêu em nên sầu khổ” dịu dàng Nguyễn Tất Nhiên, bằng những thao thiết thơ Thanh Tâm Tuyền, bằng những cháy rát văn Dương Nghiễm Mậu. Dạy những bài học yêu thương “Cho nhau này dãy Trường Sơn / Cho nhau cả bốn trùng dương ..Cho rồi xin lại Tự Do”

"Từ sau 1954 đến nay, những người sống chết với đất nước này, đau niềm đau của đất nước này, vươn lên sức vươn bất tuyệt của đất nước này, như VÕ PHIẾN, NGUYỄN MẠNH CÔN..., chúng ta quên họ sau được. Những hoang mang rã rời, những cựa mình bão tố kết tụ nơi những tác phẩm dài ngắn của THANH TÂM TUYỀN, MAI THẢO, DƯƠNG NGHIỄM MẬU, LÊ TẤT ĐIỀU...vân vân và vân vân, chúng ta quên họ sao được. Làm sao mà quên được những "móc mưa hạt huyền" họ đã khóc cho dân tộc này, và cũng chính những hạt sương mai ấy, họ kết thành muôn ngàn nỗi mừng, mong manh mà trường cửu, nhỏ bé mà muôn vàn tươi mát cho dân tộc này" 
(Doãn Quốc Sỹ)

Làm sao mà quên được?

"Sinh ở đâu mà giạt bốn phương
Trăm con cười nói tiếng trăm giòng
Ngày mai nếu trở về quê cũ
Hy vọng ta còn tiếng khóc chung" 
(Viên Linh)

Và tôi mong, hãy cho tôi khóc lại "tiếng khóc chung" bằng "nỗi mừng"đó, bằng giọt nước mắt của "móc mưa hạt huyền" đó...bằng những suy tư & trầm lắng của một nền văn học bất hạnh ấy!

huyvespa@gmail.com




IMG_0845






IMG_0848






55 năm tạp chí THẾ KỶ HAI MƯƠI - "“Như một lẵng hoa đầu xuân..."

$
0
0

Ra mắt chỉ vọn vẹn có 6 số, ngay sau thời gian tạp chí SÁNG TẠO (bộ cũ) đình bản nhưng THẾ KỶ HAI MƯƠI cũng kịp khẳng định vị thế của mình trong làng báo về văn chương – nghệ thuật của miền Nam, và trong một chừng mực nào đó TK20 tiếp tục đi theo con đường khai mở “còn sáng tạo ta hãy còn sáng tạo”. Với ekip gần như là đầy đủ từ ban SÁNG TẠO (trừ Mai Thảo), những thành viên nòng cốt từ Duy Thanh, Ngọc Dũng, Thanh Tâm Tuyền …cho đến Nguyễn Văn Trung từ Bỉ về nước, Nguyên Sa & Cung Trầm Tưởng từ Pháp hồi hương. Đặc biệt với sự xuất hiện duy nhất của TÔ THÙY YÊN với 5 trang thơ choáng ngợp trong số ra mắt, phần nào cũng làm nên tên tuổi mội thi-sĩ Tô Thùy Yên sau này.

THẾ KỶ HAI MƯƠI được coi sóc bởi Giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch (còn có bút danh khi làm thơ là Trần Hồng Châu – bút danh này có lẽ xuất hiện từ bài thơ Paris Chiều Chia Ly đăng trên tạp chí này – số 2) – cựu khoa trưởng của đại học Văn Khoa Sàigòn (từ 1965 đến 1969)

Nét nổi bật của tờ báo này- được nhìn nhận là một tờ báo đẹp & sang trọng … ngoài việc “đẹp & sang trọng” đến từ những suy tư/ chiêm ngẫm của các cây bút thời danh, các cây bút thuộc giới khoa bảng – mang theo những ý niệm như 1 sự chuyển tiếp và bước tiếp con đường SÁNG TẠO …. “đẹp & sang trọng” ấy còn đến từ hình thức:  khổ báo và việc minh họa màu, theo như nhà văn Viên Linh nhận xét trong 1 bài “SINH KHÍ VĂN NGHỆ MIỀN NAM”

“Làm báo văn nghệ ở Sài Gòn hồi ấy người ta mới thấy cái khó khăn của một tờ báo khi in tranh vẽ, dù là đen trắng. Muốn in tranh vẽ, hay hình ảnh chụp, phải gửi tấm tranh gốc, ảnh gốc đi làm bản kẽm. Một tấm hình bình thường, thì làm bản kẽm gọi là simili (có chấm, nay gọi là dot). Nét vẽ của một tấm hí họa, tranh vẽ bút chì thì bản kẽm vừa có simili vừa có nét (trait, hay ligne), khoảng 50 đồng một cái bản kẽm nhỏ và giản dị nhất. Nếu có cả hai thứ đương nhiên là mắc hơn, khoảng 70 đồng một cái bản kẽm. Một tờ báo văn nghệ thường chỉ có thể in 1 cái tranh ngoài bìa, bên trong họa hoằn có thêm một hai cái nữa, nho nhỏ thôi. Tranh này có khi lại dùng đi dùng lại nhiều lần. Thế mà tờ Thế Kỷ 20 ngay số 1 bên trong có khoảng 10 cái tranh vẽ to nhỏ của Ngọc Dũng, và ghê gớm hơn, in 4 cái phụ bản hai màu, mỗi cái chiếm nguyên trang, của bốn họa sĩ nổi tiếng nhất đương thời: Thái Tuấn, Duy Thanh, Ngọc Dũng, Nguyễn Trung”

Trở lại với thầy Nguyễn Khắc Hoạch - đọc các bài thơ và trang tùy-bút-hồi-tưởng của ông, người đọc liền thấy mình như vừa rơi vào một  dòng suối suy tư long lanh ánh ngọc , bềnh bồng trên dòng tư tưởng và những kỉ niệm về trời Tây, nhưng rốt ráo vẫn là ngược dòng xuôi về tìm lại hình ảnh quê hương, bằng một niềm yêu tha thiết và đậm đà…

Khởi đi từ trí tưởng mặc sức phiêu du qua những sân trường, những giảng đường đại học nơi có những “người em mắt nâu/ tóc vàng sợi nhỏ"  nhưngcuối cùng rồi cũng ngược đường tìm về với Văn Khoa như một yêu dấu cuối cùng… ông đã luyến lưu Paris, say đắm Paris và thương nhớ Sài gòn “xúc động đến thảng thốt, mỗi khi mây Sàigòn bủa vây, tới tấp, hay khi nắng Sàigon nung nấu đến rùng mình cả một bầu khí quyển siêu thực”.

Và cũng từ tư cách một nhà giáo, ông luôn suy tư về vận mệnh của nền văn hóa Việt nói chung và nền văn chương Việt nói riêng, hay nói riêng hơn nữa là thế giới tự do khai phóng của nền văn chương miền Nam, điều này có thể dễ dàng nhận thấy qua bài đầu tiên trong số ra mắt của tạp chí THẾ KỶ HAI MƯƠI – cũng có thể xem là tuyên ngôn / đường hướng của tạp chí vắn-số-nhưng-không-vì-thế-vô-danh này : “Đi vào đoạn đường hôm nay”

“Như một lẵng hoa đầu xuân trong ngọn lửa hạ vô cùng tận của miền Nam đất nước”


Đó là những dòng chữ đầu tiên để giới thiệu về tạp chí này của thầy Nguyễn Khắc Hoạch, hơn một nửa thế kỷ sau, nơi miền Nam nước Việt này, còn có những điều để trân quý, còn có những chiêm nghiệm (trong) thi ca…một phần cũng nhờ vào những tươi mới và trường cửu của những “lẵng hoa đầu xuân” ấy.

huyvespa@gmail.com


.IMG_1145.IMG_1147.IMG_1149.IMG_1151.IMG_1153.

Hình minh họa trong số ra mắt

sach21IMG_1195IMG_1187IMG_1185IMG_1186

IMG_1176IMG_1177IMG_1178IMG_1179IMG_1180IMG_1181IMG_1182IMG_1183IMG_1184IMG_1188


PARIS - CHIỀU CHIA LYIMG_1189IMG_1190IMG_1191IMG_1192IMG_1193IMG_1194

TÌNH KHÚC ĐẠI HỌC (trên tạp chí VẤN ĐỀ)


IMG_1161IMG_1163IMG_1165IMG_1167IMG_1169IMG_1171IMG_1173



Tôi đang muốn mua quyển TUYỂN TẬP TRẦN HỒNG CHÂU, 
http://store.viethoc.com/sach-viet-ngu/tuyentaptranhongchaugiaosunguyenkhachoach
Quý cô/ chú/ anh/ chị nào có thể mang về Saigon giúp có thể mang về giúp tôi không ạ? Nếu được please contact me via huyvespa@gmail.com

Many thanks 


Toàn tập THƠ trên THẾ KỶ HAI MƯƠI (1960 - Saigon)

$
0
0



IMG_1196IMG_1197IMG_1198IMG_1199IMG_1200IMG_1201IMG_1202IMG_1203IMG_1204IMG_1205IMG_1206IMG_1207IMG_1208IMG_1209IMG_1210IMG_1211IMG_1212IMG_1213IMG_1214IMG_1215IMG_1216IMG_1217IMG_1218IMG_1219IMG_1220IMG_1221IMG_1223IMG_1224IMG_1225IMG_1226IMG_1227IMG_1228IMG_1229IMG_1230IMG_1231IMG_1232IMG_1233IMG_1234IMG_1235IMG_1236IMG_1238IMG_1239IMG_1240IMG_1241IMG_1242IMG_1243IMG_1244IMG_1245IMG_1246IMG_1247IMG_1248

IMG_1188

IMG_1188IMG_1189IMG_1190IMG_1191IMG_1192IMG_1193IMG_1194 Bài của VIÊN LINH về THẾ KỶ 20

Không khí sinh hoạt văn chương ở Sài Gòn bùng lên vào những năm giữa của thập niên '50 nhờ biến động của thời thế: sự chia cắt đất nước còn nóng hổi vào năm 1954, chỉ khoảng 12 tháng đầu, tổng kết sơ khởi cho biết miền Nam đã đón nhận 533,868 người vào bằng đường biển; 243,657 người vào bằng máy bay, từ vĩ tuyến 17 trở vào đã có 9 trại tạm cư lập ra ở cao nguyên, 55 trại ở 8 tỉnh miền Trung và 122 trại ở 12 tỉnh Nam phần, trong đó riêng Sài Gòn có hai trại cho sinh viên học sinh, trong có cả giáo chức, và từ thành phần này, các loại báo chí trẻ xuất hiện, nối gót báo chí chuyên nghiệp cũ và mới ở thủ đô miền Nam.

Chỉ nói về các báo do sự di cư mà có mặt ở Sài Gòn, sớm sủa nhất là các tờ nhật báo Tự Do của các anh Mặc Ðỗ, Ðinh Hùng, Mặc Thu, Như Phong và ký giả kỳ cựu Tam Lang sau có nhật báo Ngôn Luận. Phía báo định kỳ có Lửa Việt của nhóm các anh Nguyễn Sỹ Tế, Lữ Hồ, Thái Tuấn, Duy Thanh, Trần Thanh Hiệp, Thanh Tâm Tuyền, “trụ sở” tạm thời đặt tại Trại Gia Long (trên nền khám lớn cũ của Sài Gòn, ngay bên cạnh Tòa Án). Bên ngoài có các tờ Văn Nghệ Học Sinh, Cách Mạng Quốc Gia của Bộ Thông Tin, nhật báo Dân Chủ của ký giả Vũ Ngọc Các, và chậm hơn ít lâu sau là tờ Gió Mới của Hội Giáo Chức trong có Nguyên Sa, Bùi Giáng,... Tới năm 1956, không khí bùng lên khi thời đại quân chủ hoàn toàn kết liễu, Hoàng Ðế Bảo Ðại bị truất phế. Ngày 26 tháng 10, Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa được tuyên bố, miền Nam trở thành một lãnh thổ có đầy đủ các định chế của một quốc gia.

Ðối với những người yêu miền Nam, yêu thể chế cộng hòa dân chủ đầu tiên của đất nước, có Quốc Hội do dân bầu, thì không khí tưng bừng lúc đó được gọi là không khí dựng nước. (Nhưng phần này sẽ được nói sau, nó sẽ chấm dứt khi chính phủ lúc đó ra sắc luật biến các đảng phái quốc gia thành các hiệp hội, không khí bi quan và hoài nghi bàng bạc khắp nơi.) Khi các đảng phái chính trị bị canh chừng, theo dõi, khủng bố, báo chí của các đảng ấy bị kiểm duyệt, thậm chí bị đóng cửa, thì bộ mặt báo chí phản ảnh bộ mặt xã hội, khô khan, hay dửng dưng. Nhiều tờ báo đóng cửa, hay chỉ ra cầm chừng, hay xoay ra làm thương mại. Người Mỹ lúc đầu mạnh mẽ ủng hộ chế độ mới, nhưng khoảng cuối thập niên '50, họ đã ngưng lại, hay rút bớt sự hỗ trợ. Một trong những tạp chí rầm rộ hai năm trước là tờ Sáng Tạo của Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, lẳng lặng ngưng xuất bản. Nó ngưng xuất hiện cả hai năm liền, làm bao người thất vọng.

Nhưng đột ngột có sự thay đổi trong không khí sinh hoạt của văn học miền Nam. Anh em cầm bút trẻ chúng tôi hồi đó người này bảo người kia: có một hay hai tạp chí văn học sắp xuất hiện. Nhuận bút trả khá lắm. Nghe nói họ trả 500 đồng một bài thơ; 3,000 đồng một cái truyện ngắn. Nhiều người trong chúng tôi hoài nghi. Trần Tuấn Kiệt chẳng hạn, cho biết tạp chí Phổ Thông của nhà thơ Nguyễn Vỹ trả thơ cao nhất, 150 đồng một bài, là nhất rồi. Báo Bách Khoa của giám đốc Viện Hối Ðoái Huỳnh Văn Lang giàu như thế, cũng chỉ trả 100 đồng một bài thơ, mà lâu lâu mới đăng một bài.

Tạp chí Văn Nghệ của nhà văn Lý Hoàng Phong vẫn có mặt, song là báo nghèo, không trả nhuận bút cho ai.

Ðúng tháng 7, Thế Kỷ 20 xuất hiện. Rõ là báo giầu. Thứ nhất, khuôn khổ tờ báo không giống bất cứ báo nào đang có mặt, khổ hơi vuông, 7x10 phân Anh, trong khi Sáng Tạo, Bách Khoa, Văn Nghệ, chung một khổ 6x9 hay già hơn 9 phân Anh một chút. Báo đầy minh họa, lại minh họa trên nền màu. Nếu có sống và làm báo văn nghệ ở Sài Gòn hồi ấy người ta mới thấy cái khó khăn của một tờ báo khi in tranh vẽ, dù là đen trắng. Muốn in tranh vẽ, hay hình ảnh chụp, phải gửi tấm tranh gốc, ảnh gốc đi làm bản kẽm. Một tấm hình bình thường, thì làm bản kẽm gọi là simili (có chấm, nay gọi là dot). Nét vẽ của một tấm hí họa, tranh vẽ bút chì thì bản kẽm vừa có simili vừa có nét (trait, hay ligne), khoảng 50 đồng một cái bản kẽm nhỏ và giản dị nhất. Nếu có cả hai thứ đương nhiên là mắc hơn, khoảng 70 đồng một cái bản kẽm. Một tờ báo văn nghệ thường chỉ có thể in 1 cái tranh ngoài bìa, bên trong họa hoằn có thêm một hai cái nữa, nho nhỏ thôi. Tranh này có khi lại dùng đi dùng lại nhiều lần. Thế mà tờ Thế Kỷ 20 ngay số 1 bên trong có khoảng 10 cái tranh vẽ to nhỏ của Ngọc Dũng, và ghê gớm hơn, in 4 cái phụ bản hai màu, mỗi cái chiếm nguyên trang, của bốn họa sĩ nổi tiếng nhất đương thời: Thái Tuấn, Duy Thanh, Ngọc Dũng, Nguyễn Trung.

Về phương diện hình thức, Thế Kỷ 20 ăn đứt các báo đang hiện diện. Về phương diện bài vở: không tờ báo nào uy tín hơn, và đặc biệt hơn, vì phối hợp các cây bút tên tuổi trong giới sáng tác đã đành, lại còn phối hợp luôn giới khoa bảng hồi ấy.

Số 1 (phát hành tháng 7, 1960), có bài vở của các tác giả nổi tiếng như: Nguyễn Khắc Hoạch, Nguyễn Văn Trung, Ðinh Hùng, Lôi Tam, Nguyễn Sỹ Tế, Vĩnh Lộc, Thái Tuấn, Thanh Tâm Tuyền, Sao Trên Rừng, Dương Nghiễm Mậu, Nguyên Sa,Trần Lê Nguyễn, Quách Thoại, Duy Thanh, Tô Thùy Yên, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Lãng, Thao Trường, Ngọc Dũng.

Người chủ trương, Giáo Sư Nguyễn Khắc Hoạch, tức nhà thơ Trần Hồng Châu, là đương kim khoa trưởng Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn. Người ta biết trước 1945 ông học Luật Khoa Hà Nội rồi qua Pháp, khoảng xấp xỉ mười năm sau về Sài Gòn, ông học Luật tại Cao Ðẳng Quốc Tế Học Viện, và có bằng tiến sĩ Văn Chương Ðại Học Sorbonne. Về bằng cấp như thế là tột đỉnh, nhưng điều bất ngờ là khi người ta đọc bài ông, thơ hay tham luận, ông không viết như các nhà khoa bảng khác. Ông viết vô cùng phóng khoáng mà thâm thúy.

Trong bài viết mở đầu cho tờ tạp chí của ông nhan đề “Ði Vào Ðoạn Ðường Hôm Nay,” ông viết:

“...Mỗi con tầu lênh đênh trên đại dương đều có một bến xuất phát, mỗi cánh chim vẫy vùng trong không gian vẫn quen thuộc với một cành cây, một mái nhà hơn những cành cây và mái nhà khác... Cho nên văn nghệ phẩm Việt Nam chân chính vẫn ngào ngạt hương lúa đồng Việt Nam và không thể có cái vị của nhựa cây rừng phong Bắc Hải hay mầu phương thảo Anh Vũ Châu. Cho nên chúng ta sẽ luôn luôn gắn bó với lòng đất mẹ, luôn luôn khắc khoải như những Antée trong thần thoại, xa hơi đất thì khô héo cằn cỗi. Chúng ta không là những đãng-tử-chẳng-hẹn-ngày-về, những quái thai vong bản. Nhưng chúng ta nhất định xua đuổi những bộ mặt vị quốc hẹp hòi... Ðã xa chúng ta rồi thời kỳ bế quan tỏa cảng tình cảm và tri thức, đã xa rồi những con ếch ngồi đáy nước, nhưng vẫn tưởng vũ trụ là thu hẹp trong đường tròn bờ giếng, đã xa rồi thời kỳ, mà cùng một lúc, ở Tây phương người La Mã và ở Ðông phương người Trung Hoa, mỗi bên đều tin rằng ngoài lưu vực sông Tibre hay sông Hoàng Hà tất cả đều là man di mọi rợ!

Một nền văn nghệ hay văn hóa nói chung chỉ có thể phong phú được khi phản ảnh sắc thái quê hương, khi luôn luôn hành hương về nguồn, đồng thời vẫn có quan hệ, cọ xát, trao đổi với những nền văn nghệ chân chính khác.”

Ðoạn văn trên ngắn ngủi chừng ấy, mà mênh mông biết bao!

Cũng trong số ra mắt, còn có những bài chính như sau:

-Tìm hiểu tác phẩm văn nghệ của Nguyễn Văn Trung.

-Ðối tượng của văn học sử của Nguyễn Sỹ Tế.

-Vụ án Kiều của Thanh Lãng.

-Nhận xét về nền hội họa Việt Nam của Thái Tuấn.

-Các truyện ngắn của Thanh Tâm Tuyền (Khuôn Mặt), Dương Nghiễm Mậu (Kinh Cầu Nguyện), Thao Trường (Qua một chiếc cầu lên một cái dốc), và thơ của Ðinh Hùng, Tô Thùy Yên, Quách Thoại,...

Sự có mặt của Thế Kỷ 20, hay sự có mặt của Nguyễn Khắc Hoạch, đã thổi một luồng gió mạnh vào đám đông còn chưa thức giấc. Thật ra, có người đã thức và choàng dậy kịp thời. Mai Thảo, sau khi lặng ngắt không một lời giải thích vì sao ngưng xuất bản Sáng Tạo - ngưng khoảng hai năm - đột nhiên cho tái bản Sáng Tạo, cũng vào đúng tháng 7, 1960! Thế là không khí văn chương Sài Gòn lại chuyển động. Nhà văn nhà thơ có thêm diễn đàn, và diễn đàn có thêm tiếng nói. Tô Thùy Yên nổi bật trên Thế Kỷ 20 với 5 trang thơ liền, thơ đăng kèm với minh họa của Ngọc Dũng: “Những bài thơ viết trên giường bệnh.”


tri ân

tôi gầy đét như hình thể Việt Nam

có kẻ bảo tôi không ra hồn người

may tôi sống còn như cỏ mùa đông

nên thốt luôn mồm cám ơn thượng đế



kiếp khác

tôi thổ huyết cuồng mê như núi lửa

thiêu hủy hình hài ăm ắp chất cô đơn

rồi trời đất hừng đông như trứng vỡ

tôi đã đầu thai thức dậy đỏ sơ sinh.



Liên tiếp các tháng sau, nội dung của Thế Kỷ 20 như sau:

Số 2, phát hành tháng 8, 1960, với các tác giả tên tuổi: Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế, Quách Thoại, Trần Hồng Châu, Kiêm Minh, Nguyện, Thanh Tâm Tuyền, Thanh Lãng, Duy Thanh, Viên Linh, Trần Dạ Từ, Hà Thúc Cần, phụ bản Phạm Duy-Nguyễn Trung.

Số 3, phát hành tháng 9, 1960, với Nguyễn Văn Trung, Vĩnh Lộc, Dương Nghiễm Mậu, Ngọc Dũng, Trần Lê Nguyễn, Thao Trường, Nguyễn Ðăng Thục, Doãn Quốc Sỹ, Cung Trầm Tưởng, Viên Linh, Hà Thúc Cần.

Số 4, phát hành tháng 10, 1960, gồm các sáng tác của các tác giả: Lý Hoàng Phong, Viên Linh, Trần Lê Nguyễn, Cung Trầm Tưởng, Nguyễn Văn Trung, Thao Trường, Trường Duy, Dương Nghiễm Mậu, Hoàng Châu Thanh, Ngọc Dũng, Nguyễn Trung, Doãn Quốc Sỹ, Phạm Duy, Anh Oanh, Hoài Văn.

Số 5, phát hành tháng 11, 1960, với sự góp mặt của các tác giả: Lý Chánh Trung, Viên Linh, Nguyễn Sỹ Tế, Thanh Lãng, Võ Phiến, Hoàng Châu Thanh, Doãn Quốc Sỹ, Quách Thoại, Lý Hoàng Phong, Dương Nghiễm Mậu, Phạm Duy.

Số 6, phát hành tháng 12, 1960, nội dung gồm sáng tác của các tác giả: Võ Phiến, Doãn Quốc Sỹ, Trường Duy, Thái Tuấn, Ngọc Dũng, Viên Linh, Nguyễn Ðăng Thục, Bản vẽ Ngọc Dũng.

Ðúng 50 năm qua, đúng từng tháng từng ngày, khi bài này được viết, để nhớ tới một tạp chí văn học sáng giá của miền Nam, cả về lượng lẫn về chất. Người chủ trương biên tập, Giáo Sư Nguyễn Khắc Hoạch, đã ra đi vào năm 2003, (ông sinh năm 1921), song gia tài văn hóa của ông vẫn còn đó. Chúng tôi sẽ có dịp trở lại kỹ hơn, về các tác phẩm của ông, về tinh hoa ông truyền lại cho môn sinh ở các đại học Việt Nam, qua Viện Việt Học ở Hoa Kỳ mà ông là viện trưởng một thời gian, và về đôi chút tưởng niệm riêng tư, và về bài phỏng vấn ông dành cho người viết. Bài này không viết riêng về ông, mà về đứa con tinh thần của ông, tờ báo có vị thế vững chắc trong Nền Văn Học Miền Nam Việt Nam trước 1975.

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Trần Lê Nguyễn, thơ kịch và phim 

(Viên Linh)


Trần Lê Nguyễn là một kịch tác gia nổi tiếng không thua gì Vũ Khắc Khoan, Vi Huyền Ðắc, ngay thập niên '50 những vở kịch của ông như Bão Thời Ðại, Quán Nửa Khuya hay Ðêm Ba Mươi đã được nhắc nhở, được trao Giải Văn Chương Toàn Quốc bộ môn kịch, tuy rằng những vở này chỉ mới đăng trên các tạp chí, hay trình diễn trên làn sóng điện các đài phát thanh, mà chưa từng được dựng trên sân khấu. 

Thính giả nghe thoại kịch dù nghe ngang ở khúc giữa cũng có thể đoán đó là kịch Trần Lê Nguyễn bởi đối thoạt rất chọn lọc, lúc nào cũng đầy xung đột, mâu thuẫn, giọng nữ phải là gái Hà Nội, giọng nam phải là một trí thức nghệ sĩ, vai chính thường là đạo diễn hay họa sĩ, và âm thanh bố trí tới hai ba tầng, tiếng ly tách lanh canh va chạm cùng tiếng cười, hay hơi thở, và một điệu nhạc hòa âm xen vào đúng lúc, chúng tôi nghe và biết đó là kịch của “anh ba họ.” [Trần Lê Nguyễn]. Ngoài đời đạo diễn không là ai khác, chính tác giả Trần Lê Nguyễn, và họa sĩ không là ai khác, chính là Ngọc Dũng người bạn thân của anh, mặc dù trong chỗ bạn bè, chúng tôi gọi Ngọc Dũng là “công tử Chí Hòa.”

Từ trái sang: Duy Thanh, Trần Lê Nguyễn, Thanh Tâm Tuyền, Ngọc Dũng, hình chụp năm 1960.
Song song với kịch ông còn có thơ, thơ mới hay thơ tự do, đặc biệt thơ ông có địa vị trên các tạp chí văn học lớn như Sáng Tạo, Thế Kỷ Hai Mươi, Văn Nghệ.
Saigon Mưa
Ðế giày tôi lủng hai bên
Những chiều Saigon mùa mưa như chiều nay
tôi đi bằng gót qua nhiều lề đường đọng nước
Ðĩa nhạc quay tròn quay tròn
âm thanh nổi
Tờ báo buổi chiều loan tin chiến sự xứ Lào
Mưa lại rơi
như tháng bảy mưa rơi ngoài Bắc
Hà Nội không còn
Sáng qua tôi gặp cô gái phố Hàng Ngang
Ngoài kia đâu còn Hà Nội
Có những người chết đi mất xác bên Cầu Kiệu
Con đường hành quân thủa trước vắt qua Dốc Mơ gặp mộ người nữ cứu thương Thái
- mortier Tây bắn ở Tuy Hòa chết không hay đâu còn Hà Nội
Tôi trú mưa đầu phố
Giày tôi vào nước từ lâu
Gió tạt quán rượu góc đường Charner thủa trước
Ly rượu anh thủy thủ trên đất liền
Người đàn bà Pháp chờ taxi cô độc
Ðây không là Paris
Sao tin chiến sự Vientiane làm nhớ thương Hà Nội
Sao Hà Nội nhắc những người chết đi
Tôi đi nhận lá thư không đến chiều nay
Sao lại gặp Sài gòn mưa như trời mưa xứ Bắc.
(Trần Lê Nguyễn, Thế Kỷ Hai Mươi, 1960) (1)
Khoảng 1955 người viết bài này đã được đọc tạp chí Mùa Lúa Mới xuất bản tại miền Trung, tờ báo dầy dặn, bài vở chọn lọc đậm màu sắc kháng chiến, bởi các tác giả góp mặt phần lớn là những người cựu kháng chiến: Nguyễn Văn Xuân, Trần Lê Nguyễn, Võ Thu Tịnh,... sau này cũng đã được gặp hay nói chuyện với họ, và đọc họ nhiều hơn. (2) Hôm 18 tháng 4, 2015, tình cờ tôi lại nhìn thấy tên một trong những tay cựu kháng chiến này - Trần Lê Nguyễn - trong phim Ðất Khổ do Hà Thúc Cần đạo diễn dựa trên phân cảnh truyện phim cùng nhan đề của Hà Thúc Như Hỷ, trình chiếu lúc 3 giờ tại rạp Ultraluxe thuộc thành phố Garden Grove, trong khuôn khổ Viet Film Fest. Thấy lại mấy khuôn mặt bạn bè khác trong phim: nhà thơ Kiên Giang Hà Huy Hà, nhà văn Sơn Nam và chiếc xích lô máy. Trần Lê Nguyễn chỉ góp phần trong sở trường của nhà viết kịch. Người viết bài này có kể cho tác giả Như Hỷ nghe, tháng 10, 1975, tôi có gặp người phi công Mỹ mua cuốn phim Ðất Khổ của Hà Thúc Cần, và làm việc ba ngày tại căn nhà của người phi công trên đường Lee Hiway gần khu Rosslyn, Virginia. Ông là thành viên của nhà thờ Mount Vernon tại thủ đô Washington, D.C., là nhà thờ đã bảo trợ gia đình tôi ra khỏi trại tạm cư Indiantown Gap ở Pennsylvania. Họ nhờ tôi chuyển ngữ những câu đối thoại tiếng Việt ra ngoại ngữ, trả 10 Mỹ kim một giờ, cốt giúp tôi qua thời gian buồn chán, khủng hoảng những ngày đầu lưu vong, hơn là nhằm mục đích gì khác. Làm ba ngày thì xong việc, nhờ đó tôi có tiền ngay mấy ngày sau đi New Jersey thăm Thanh Nam, và mua cho bạn chai whiskey. [Tháng 11.75 mới có việc làm thường xuyên, vào học nghề ấn loát $3.75 Mỹ kim một giờ]. Một chi tiết chuyên môn mà người phi công Mỹ thắc mắc là vụ chiếc xe Jeep bị phục kích, sao giữa trận tiền một vài giây trước khi bị phục kích mà các quân nhân trên xe nói nhiều thế, lại còn biết mà chỉ trỏ vào bụi cây có Việt Cộng nằm phục kích!
Những kẻ vô tâm hay có tâm địa riêng viết ra rằng Trần Lê Nguyễn ham sống, ham ăn chơi... bằng nghề cờ bạc (3); đành rằng thơ anh có nói đến Ðại Thế Giới, và thế giới ban đêm của Hòn Ngọc Viễn Ðông trước 1954 (anh vào Nam khoảng 1953); đành rằng thơ anh ra vào những tay anh chị thuở Bình Xuyên, tay búa tay rìu, đành rằng bạn hữu tìm anh khắp nơi không thấy, mà tới sòng bài Kim Chung có nhiều hy vọng gặp anh hơn cả, song rêu rao một đạo diễn không thành công bao nhiêu vì cây thẻ cỗ bài là đem chuyện đời tư viết thành chuyện văn sử.

Vở kịch cuối cùng của Trần Lê Nguyễn trên bìa báo Thời Tập số 14, tháng 11, 1974.
Trần Lê Nguyễn sống trong một ngõ hẻm ngoằn ngoèo ở Bến Chương Dương. Có cố nhớ cũng không nhớ nổi căn nhà ấy. Cầu thang nhỏ hẹp, ọp ẹp, nhưng vào lọt bên trong rồi thì thật thích: một căn phòng dài nhiều cửa, cửa nào nhìn ra cũng thấy những mái nhà. Cả chục mái nhà phía trước. Trên tường treo một hai tấm tranh thật đẹp, của Ngọc Dũng, kể cả tranh lõa thể của Modigliani.
Giao Duyên
Từng kiếp sống bồng bềnh
Bước chân lầy lối ngõ
Tiếng gọi đò hối hả
Giữa khuya
Ngọn đèn ai còn đỏ lửa
Mười năm trời không làm thơ
Ðêm nay bút cầy luống chữ.
...
Ngoại ô trời đen khói bụi
Mái nghèo
Ðồng ruộng mông mênh
Lạc lõng vào đây vài ổ đĩ
Ðèn khuya cửa ngỏ
- Ðêm qua Sáu Nhỏ không về!
Trôi dạt vào đây vài anh chị
Búa rìu bằm nát tay trai
Có tiếng la trời ơi ới.

(Trần Lê Nguyễn, Sáng Tạo, 1958)
Khung cảnh của bài thơ là khung cảnh con ngõ của anh. Sau này tôi được biết, đó là khu nhà của ông tỷ phú Nguyễn Ðình Quát cho anh ở nhờ, hay thuê với giá rẻ. (Ông Quát này sau có ra tranh cử tổng thống Việt Nam Cộng Hòa). Ðám cưới của anh, tôi vô tình trở thành người “mừng cúng” nhiều nhất. Anh báo tin lấy vợ tuần tới, người khác giúp thế nào cũng được, riêng tôi chỉ cần cho anh mượn vài vở kịch. Nguyên là những năm làm trong bộ biên tập Ðài Tự Do, một đài đen do người Mỹ tài trợ, anh Phan Tùng Mai (con trai nhà cách mạng Phan Văn Hùm) và tôi thay nhau cung cấp cho đài những vở kịch 30 phút, khoảng 5 nhân vật, cứ hai tuần đến lượt phải cung cấp một vở mới. Trước sau trong mấy năm tôi viết được 27 vở. (4) Anh nói tôi có mừng đám cưới anh thì viết cái giấy cho anh quyền bán lại vài vở kịch tôi đã bán cho VOF để anh lấy bán lại cho một đài nào đó, không còn nhớ đài nào. Nhuận bút tùy theo đài, riêng Ðài Tự Do (thời Ðại Úy Vũ Quang Ninh làm trưởng ban chương trình) trả 5 nghìn một vở. Sau tôi nghe nói làm sao không biết, anh bán được tới 7 vở của tôi cho một đài khác. Tôi có hỏi anh, anh chỉ cười hề hề, nói rằng quà cưới của tôi lớn nhất, nhưng chỉ anh bán lại được thôi, chính tôi có bán cũng không chắc được, đừng tiếc.
Tôi có nhiều dịp đăng bài của Trần Lê Nguyễn. Anh tên thật Nguyễn Huy Tạo, người Sơn Tây, sinh năm 1923 (có nơi viết 1924). Các nhà văn miền Nam có năm bảy người viết kịch, như Nghiêm Xuân Hồng, Nhật Tiến, Dương Kiền, Phan Tùng Mai, Thanh Tâm Tuyền, Viên Linh, song sống kịch chỉ nên kể Vũ Khắc Khoan và Trần Lê Nguyễn.
Tháng 10, 1974, Trần Lê Nguyễn ghé tạp chí Thời Tập do tôi làm chủ nhiệm, trao cho tôi vở kịch mới nhất của anh: “Ngôi Nhà Trên Ðồi Thông.” Vở kịch ghi rõ: Thời gian: một năm gần hết cuộc chiến này.
Hãy thưởng thức đoạn kết của vở kịch, xảy ra tại một đô thị trên vùng cao nguyên [nên hiểu là Ðà Lạt, địa danh thường thấy trong thơ Trần Lê Nguyễn].
Ngôi Nhà Trên Ðồi Thông
-Bường (người con gái ngoài 30 tuổi): Sao lại nhà hoang? Nhà này là nhà riêng của ba tôi để lại cho tôi mà?
-Liên (người nữ diễn viên độ 25, 26 tuổi): Nhưng cô không chịu nhận lấy mà bỏ đi hoang nên mọi người coi đấy là nhà chung. Cô phải đuổi hết những người chiếm ngụ vô quyền đi về đây mà ở thì nó mới hết là nhà hoang được.
-Bường: Cô này nói nghe cũng được đấy. Mà cô là ai mà biết rõ về ngôi nhà này quá vậy? Là nữ diễn viên phải không?
-Liên (giận dỗi): Không là nữ diễn viên gì hết. Tôi là vợ của anh Ðiềm.
-Ðiềm (hơn 40 tuổi, viết kịch - bàng hoàng): Sao Liên lại nói vậy?
-Liên (xúc động): Anh quên là đã có lần anh hỏi Liên làm vợ rồi ư? (xa, chậm). Ðấy là buổi sáng mùa Thu đúng ngày anh vào Nam. Anh đến thăm lần cuối cùng ngôi nhà đường Quan Thánh ở chỗ tầu điện tránh nhau. (5) (Vui sướng): Em đưa anh đi chơi ngoài vườn hoa, và nhớ rõ buổi sáng ấy em đẹp tuyệt vời. Không hiểu vì đâu ở tuổi 11 em bỗng nói với anh ý nghĩ ngộ nghĩnh muốn lấy chồng. Nghe thế, anh cười nhấc bổng em lên cao: Thật không? Vậy anh hỏi em làm vợ. Anh sắp đi xa. Ngày về anh sẽ cưới em. (Dịu nhẹ): Có phải đúng như thế không anh?
-Ðiềm (thấp): Anh không ngờ là Liên còn nhớ.
-Liên (hân hoan): Làm sao mà em quên được... Khi được sang du học Ðông Ðức, em đã trốn sang Tây Ðức tìm về miền Nam (buồn). Em hỏi tên những người về hồi chánh không thấy tên anh Hạo em... Cho nên lúc này, ở đây, em không có ai là thân thích.
...Màn hạ....
(Trần Lê Nguyễn, Thời Tập số 14, tháng 11.1974) (6)

Chú thích:
1. Thế Kỷ Hai Mươi, “Tập san sáng tác khảo luận phê bình văn nghệ,” số 1 ra vào tháng 7, 1960, do Nguyễn Cao Hách làm giám đốc, Nguyễn Khắc Hoạch (nhà thơ Trần Hồng Châu) chủ trương biên tập, họa sĩ Ngọc Dũng thư ký tòa soạn, in tại Tín Ðức Thu Xã, đường Tạ Thu Thâu, Saigon. Báo khổ 7”x10”, giá bán 15 đồng một số.
2. Khoảng 2005, tác giả Võ Thu Tịnh qua thăm Quận Cam, song tiếc thay ông phải trở về Paris gấp, cơn bệnh đột phát mà bảo hiểm sức khỏe của ông vô dụng ở Hoa Kỳ.
3. Xem chương Trần Lê Nguyễn trong Văn Học Miền Nam, kịch-tùy bút, Võ Phiến, Văn Nghệ xuất bản, Calif., 1999, trang 2633-34: “Giá ông Trần [Lê Nguyễn] không vướng vào các thú vui, ông tha hồ viết khỏe.”
4. Vở “Con Ðường Ngựa Chạy” được Giải Văn Chương Toàn Quốc, bộ môn kịch nói, 1972.
5. “Ngôi nhà đường Quan Thánh” như một biểu tượng của trụ sở Quốc Dân Ðảng, và cả đảng Ðại Việt. Tại đường này có tòa soạn vài tờ báo, có báo Ngày Nay, nơi nhà văn Khái Hưng làm việc trước khi bị CS giết.
6. Thời Tập, Viên Linh và Nguyễn Hữu Hiệu, Lê Tài Ðiển, chủ trương, số 1 xuất bản năm 1973, số chót ra ngày 15 tháng 4, 1975.

Những ngày mưa ở Saigon & Dalat - "Tôi chờ đợi lớn lên cùng giông bão..."(& 9 số chót tuần báo NGHỆ THUẬT 1966)

$
0
0

 photo Slide1_zpsktd8kf27.png



Hai Hàng Me Trên Đường Gia Long
(Nguyễn Tất Nhiên , ‪#‎saigon‬ 1970)
1.
hôn rách mặt mà sao còn nghi ngại?
nhớ điên đầu sao cứ sợ chia tan?
mỗi lòng người, một lý lẽ bất an
mỗi cuộc chết, có một hình thức, khác
mỗi đắm đuối, có một mầm, gian ác
mỗi đời-tình, có một thú, chia ly!
2.
chiều, nắng âm thầm chào biệt lũ lá me
lá me nhỏ, như nụ cười hai đứa, nhỏ
tình cũng khó theo thời cơm áo, khó
ta dìu nhau đi dưới bóng nợ nần!
em bắt đầu thấy ân hận, chưa em?
vì lỡ nói thương anh – cái thằng quanh năm túng thiếu!
ân hận, có, thì hãy nên, rán chịu!
hãy xem như cảnh ngộ đã an bày
như địa cầu không thể ngược vòng quay
như Chúa, Phật phải gay go trước giờ lên ngôi Phật, Chúa!
tình cũng khó theo thời cơm áo, khó
nên mới yêu, mà, cư xử rất vợ chồng!
rất thiệt tình khi lựa quán bình dân
khi nói thẳng: “Anh gọi cà phê đen bởi hụt tiền uống cà phê đá!” .
3.
mỗi cuộc sống, phải mua bằng nhục nhã
mỗi mặt trời, phải trả giá một hoàng hôn
đêm, chẳng còn cách khác tối tăm hơn
nên mặt mũi ta đây, bùn cứ tạt!
môi thâm tím bận nào tươi tắn, hát
em nhớ vờ hoan hỉ vỗ tay khen
để anh còn cao hứng, cười duyên
còn tin tưởng nụ hôn mình, vẫn ngọt!
khăn-tăm-tối hãy ngang đầu quấn nốt
quấn cho nhau, quấn bạo, quấn cuồng điên
vòng sau cùng sẽ gặp quỷ Sa tăng
bởi hạnh phúc mơ hồ như, Thượng Đế!
4.
đời, vốn không nương người thất thế
thì thôi, ô nhục cũng là danh!
5.
mình nếu chọn đời nhau làm dấu chấm
mỗi câu văn đâu được chấm hai lần!

ENTRY CŨ



 “buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua”, ngắm hàng me trên đường Gia Long để rồi nhớ đến Nguyễn Tất Nhiên - gã thi sĩ bạc mệnh si tình lãng mạn và cuồng điên …của thời đại…
Nhà thơ đã từng có một ước mơ khá nhẫn tâm khi muốn ban phát cho người yêu của mình một niềm “vì ta phải khổ” (“Để người tên Duyên, đau khổ muôn niên”)…đã từng có rất nhiều bài thơ trác tuyệt mang đầy không khí và hơi hướm của/ về Saigon, mặc dù ông chẳng mảy may gì nhắc về địa danh thân thương này, dù là nửa chữ…trong những bài thơ mà hàng hàng lớp lớp thanh niên trước 1975..không ít thì nhiều….để ở đầu giường! Thơ của ông tình đến nỗi…mà chỉ có thơ mới chuyên chở được hết..cái tình ..thơ ấy! Nó là một sự tổng hòa của mãnh liệt (từ những) ngây ngô, của đằm thắm (khởi nguồn từ) ao ước, của những rung cảm (đến từ) tinh khôi…khi bắt đầu chạm ngưỡng …đời sống, chạm những rung động đầu đời của cái thời mà văn thơ vô cùng diễm tuyệt, những mối tình chỉ là e ấp của “Bước khẽ tới người thương”(Nhã Ca), của giả định"Ví dụ ta yêu nhau"(Nguyễn Thanh Trịnh / Đoàn Thạch Biền), của lời ngỏ “Cám ơn em đã yêu anh”; của mơ màng “Hôn em, kỷ niệm” (Duyên Anh)…
Nhìn lại những hình chụp Saigon cách đây vài năm...và đọc lại comment của nhà văn VIÊN LINH:

"Nhìn những góc giáo đường nhà thờ Đức Bà, một khung cổng sắt thâm nghiêm, nhìn bồn nước và mấy bậc thang cũ kỹ, hoen rỉ, những lưới sắt bao kín một ngôi nhà (khiến mình hình dung có dáng người thanh thoát nào đó bên trong); nhìn cây cột xi măng ở con đường Duy Tân bóng mát, nhớ con rùa trong hồ nước, chỗ ấy gần Trường Luật, gần khu Cư xá các giáo sư Đại học, bác nhớ những lời ca của Phạm Duy “Con đường Duy Tân, Cây dài bóng mát, … Uống ly chanh đường, Uống môi em ngọt…” . 37 năm rồi từ ngày bỏ Sài gòn, bác chưa về lại, và ngạc nhiên tìm thấy Sài gòn cũ qua cái nhìn của Huy, một chàng trai trẻ măng mà nhìn thấy vẻ đẹp của thành xưa cổ kính. Bác nhớ những buổi trưa ngồi Lambretta xẹt vào Bưu Điện mua một bao thuốc lá Pall Mall điếu dài, một cái bánh mì, hôm nào không ăn bánh mì thì thay bằng một cái bánh “Papa au rhum” (bánh ngọt có pha rươu rhum, hình thể tròn, để trong cái chén bằng giấy, nổi tiếng của tiệm bánh ở ngoài cửa Bưu Điện). Huy chụp được cả mấy chùm hoa phượng đỏ tươi . Không nói ra mà bác thấy Huy vừa đi vừa ngước nhìn lên trời xanh, nhìn hoa lá cành, những mái nhà, bờ tường, cột sắt, tượng đá. Saigon, Paris của Viễn Đông như ngưởi Pháp nói. Đó là khu Phố Tây của Sài gòn đấy. …” Huy là một thi sĩ đấy, thi sĩ làm thơ về sự thanh vắng của lá cành, vỉa hè, hoa viên, làm thơ bằng ống kính máy hình, chụp được sự im lặng dữ dội - [! chữ này hay đấy, của cô gì đấy bác mới đọc! ] – cái nghịch lý của một chữ như thế mới diễn tả được nét đẹp làm ta đau thương. 
Gửi Huy một bài thơ về Sài gòn đăng báo khoảng năm 1970.

     SINH NHẬT


Hôm nay năm tận, Sài Gòn
Tôi nghe khiếp hãi tâm hồn già nua
Giật mình con quỉ ban trưa
Tiếc mùa hoan lạc hái chưa đủ hời.

Hôm nay trời đất có tôi
Trên ba mươi tuổi làm người lãng quên
Xuân hồng, một góc thiếu niên
Năm năm mê mải những miền hoài nghi.

Trên ba mươi tuổi ù lỳ
Đêm về kéo cửa ngày đi kiếm mình
Cảnh đời, một cõi u minh
Cảnh tôi thấp thoáng bóng hình những ai.

U mê hết tháng năm dài
Chân trong lối kiệt hồn ngoài bến không
Hôm nay năm tận, bàng hoàng
Giục thêm tiệc rượu ngồm ngoàm đĩa vơi.

Nhìn ra cảnh cỗi, riêng tôi
Trong hiên viễn phố thấy đời buồn lây.










----------------------------------------------------


‪#‎dalat‬ ‪#‎đichohết1đêmhoangvutrênmặtđất‬ 
“…một cuốn sách không phải lúc nào cũng để đọc. trên những chuyến đi có khi tôi mang theo sách chỉ để thấy yên tâm: một thứ gì đó mơ hồ nhưng rất quan trọng tôi còn phải nghĩ; hồn của một thứ gì đó vẫn từ lâu chờ tôi biết về sự hiện diện cùng sự mong manh của nó; nỗi buồn mà một người hay một dân tộc nào đó còn phải đi qua… tất cả đang nằm trong quyển sách này. tôi chỉ cần mở nó ra.
tôi mang theo sách và biết rằng nếu tôi đọc và lặn lội một chút, cuộc đời dù trôi bên ngoài, nó cũng trôi bên trong tôi… chúng ta vừa gây ra mọi khổ luỵ trên đời này, vừa gánh chịu chúng với bao nhiêu ngơ ngác, như thể chúng ta không hề là tác nhân.
chúng ta cũng vừa là chứng nhân, nếu chúng ta có một cuốn sách…
nếu chúng ta mở nó ra. nhưng thường thì không.”
...nhưng với quyển này thì ít ra tôi đã mở nó ra và trôi trong / cùng / trên ... nó ít nhất là 10 lần với những chuyến đi...












“Chợt rùng mình níu đêm trần trụi
Em đưa ai vào gai ân tình?”
(Hoàng Cầm)
#saigonbynight



“Chúng ta không mất bất cứ gì trong một vũ trụ nơi ngay cả một giọt nước cũng không thể mất đi. Cuộc đời, và tình yêu, không bao giờ thay đổi, chỉ có trí nhớ của chúng ta về nó là suy tàn. Cảm giác mất mát là một ảo giác, nhưng nỗi buồn nó gây ra thì thật. Và điều này cũng thật: không có gì buồn hơn khi chúng ta không làm gì được để ngăn chận một trí nhớ tàn phai. Người ta không thể tự hứa sẽ không bao giờ quên, vì điều này cũng khó như xin trời cho tôi đừng bao giờ chết” (ĐMP)

Bởi trí nhớ sẽ suy tàn, ảnh hình thì sẽ còn lại mãi, nên tôi ghi dấu lại đây, những chớp lóe của 1 sát na rồi sẽ (có cơ may) trở thành vĩnh cửu, để sau này sẽ  như một dấu chân dẫn đi từ đầu đường kỷ niệm đến cuối đường hồi ức…?!?

Đó là những ngày trôi qua ở Dalat (ngày trôi qua hay ta trôi qua?!?), những ngày buồn buồn, những ngày đèm đẹp, những ngày mà mỗi nhịp phách mưa là một khúc requiem mơn trớn / xoa dịu vùng - bất - an  của bất kỳ lữ khách nào…(mưa từ đỉnh cao hay  mưa từ vực sâu?!?)

Những ngày ở Dalat là những ngày người ta nghe Nguyễn Đình Toàn thấm hơn cả , người ta nghe “nhưng chậm thế nào mình cũng phải xa nhau…”

Những ngày ở Dalat là những ngày bâng quơ ghé vào Tùng để nhìn những du khách (vâng, hầu hết là du khách) ngồi im lìm , chiêm ngẫm -  thảy đều toát ra vẻ hay hay của một thứ phù phiếm phấn son nào đấy

Những ngày ở Dalat là những ngày đọc Đoàn Minh Phượng, đọc và biến mất vào cái đám tro bụi mù sương ấy, đọc về những đám mây của Dalat (để rồi thẫn thờ Dalat có thật hay Dalat không có thật?!?)

Níu xuống 1 vạt rừng đẫm sương chiều cô quạnh, rót nghiêng một mặt dốc có hoa xanh và lá vàng (hay ngược lại?!?), thả cho bát ngát bay những gió chiều hoang vu tha thiết trôi ngược về những mặt hồ xanh thẫm… là ta có một Dalat… Hát một cơn mưa xao xuyến tràn về, để rồi có một Dalat chìm trong ảo ảnh - hãy đến với Dalat mưa như  đến với một bóng hình (đã kịp) chìm khuất, như đến với một huyền thoại mất và cũng như vậy, đã đến với một hồn hiu quạnh còn.

huyvespa@gmail.com


Đi cho hết một đêm HOANG VU trên mặt đất (Phạm Công Thiện) (Trần Thi xuất bản, USA, 1988)

$
0
0


“Lao đầu phóng mình xuống trang giấy trắng, tờ giấy trắng hoang vu như tình đầu”

Hoang vu khởi đi từ những tờ giấy trắng, trắng hoang vu như đời người, như tiền kiếp, như hiện kiếp và như kiếp khác...Trắng của bôi xóa hay trắng của vô nhiễm? Trắng của đời thực hay trắng của cơn mộng ảo? Trắng của quên kỷ niệm hay trắng của nhớ ký ức? Hay trắng của sự “giải ảo” về một thứ “văn chương” tối tăm mà người đời hay nghĩ/ gán ghép khi đọc ông?

Bằng cách “lao đầu phóng mình xuống trang giấy”, PCT trong quyển sách khác lạ với tất cả những gì ông đã viết ra trước, đã tỏ bày – trước hết – về chính bản thân ông – về những quãng đường đã qua và về những gì “hoang vu” nhất trong suốt ngần ấy năm viễn du trong kiếp này, những năm tháng hoang dại đi khắp cõi ta bà từ một lần rời xa vĩnh viễn Mỹ Tho năm 16 tuổi cho đến những tháng năm lãng du trong những kinh kỳ của thế giới.  “Từ năm 1970 cho đến 1983, tôi đã sống ở Do Thái, rồi ở Đức quốc và ở lâu dài tại Pháp quốc; đến năm 1983, qua một cơn chuyển động toàn diện của tâm thức viễn ly, tôi đã trở lại Hoa Kỳ, trở lại thành phố Los Angeles sau một thời gian xa vắng gần 20 năm; từ năm 1983 cho đến năm 1994, trên 11 năm nay, lại qua nhiều cơn chuyển động toàn diện liên tục của tâm thức viễn ly, tôi vẫn tiếp tục sống ở thành phố Los Angeles; sau vài chuyến lui về vùng đồi núi im lặng ở Úc châu, tôi vẫn trở lại thành phố Los Angeles như trở về tập sống hồn nhiên tự tại với những cơn động đất thường xuyên của đời mình…"

Sự tỏ bày về chính mình trong quyển sách này, đơn giản có thể hiểu là sự mở lối để đi cho hết bước đường hoang vu?(Đi như một định mệnh đã an bày hay chính đó là sự an bày ra một định mệnh?). Rồi sau đó? Đi đến một đêm hoang vu khác (hay một đêm không-hoang-vu khác?), hay nhập thể vào chính sự hoang vu? Đi tìm hay đi gặp sự hoang vu? Hay Hố Thẳm? Mà có gì là…quan trọng nữa đâu?

“Tất cả đều trôi đi
Chuyện xưa không còn gì
Mây chiều bay lũ lượt
Nói năng nữa mà chi”

Những câu chuyện (nếu ta gọi đó là “chuyện”) trong quyển sách này như những thiết tha nhất của con người PCT trong lúc ông tỉnh táo nhất/ điên dại nhất/ thơ mộng nhất/ tĩnh tại nhất…

 “Trên tất cả đỉnh cao là im lặng”, sau 17 năm im lặng, sau ngần ấy năm bước đi như gió như mây, “sự im lặng” cuối cùng cũng lên tiếng – sự căm bặt của những dồn nén khủng khiếp rung lên những đợt sóng – và âm ba – và những vòng trôn ốc của vạn triệu đời lan tỏa - những vòng trôn ốc xoắn vào nhau, lan mãi đến vô lượng kiếp sống… “và nghe thấy kiếp xưa bước nhẹ về…”. PCT – tính đồ mộ đạo của chủ thuyết hư vô là thế, ông là con người của những cực đoan,  ông chỉ chuyển từ cực đoan này sang một khía cạnh cực đoan khác, không trung gian, không lửng lơ....Ông là sự im lặng đời đồng thời là cơn địa chấn kiếp.

Những lớp sóng của lần địa chấn này ùa ập vào bãi bờ của trí nhớ. Đi – bước tới trước bằng những bước chân của hối hả  lên đường/ lao vào trận cuồng phong để tìm chút tĩnh tại ngay tâm bão…hoặc cũng có thể là thong dong của những “bước chân nhẹ nhàng trở về sự im lặng”…

Người đọc sẽ cuốn theo những bước chân ấy, (cố) giải mã những cơn mộng - thực của PCT và cũng là một lần kinh qua những gì (tưởng chừng) xa lạ của trải nghiệm mỗi người… rồi muôn nghìn những câu hỏi…

Tại sao đến và tại sao đi? Tại sao Mỹ Tho tại sao Sàigòn? Tại sao Phạm Công Thiện tại sao không-Phạm-Công-Thiện? Tại sao mặt trăng và tại sao mặt trời (nếu và chỉ nếu mặt trời là có thực) ? Tại sao ngày và tại sao đêm? Tại sao viết và tại sao không viết? Tại sao Việt Nam tại sao Tây Tạng? Tại sao lúc này tại sao lúc khác? Tại sao gặp gỡ tại sao phân kỳ? “Tại sao ta sống chốn này, quay cuồng mãi hoài có gì vui?”...

Bước đi từ vô lượng kiếp đến vô biên kiếp cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp…Bước đi...Đếm lần bước và bước lần đếm - Nhạc tính vang lên cũng là lúc đếm từng nhịp phách, đếm những ngày những tháng, những lần buổi sáng thơm buổi sáng, buổi chiều thơm buổi chiều…Khoảng cách từ  “còn” cho đến “hết-đêm-hoang-vu”  tính bằng số bước như thế, mặc dù, tác giả của Ý Thức Bùng Vỡ đã (dường như) đếm cho tận cùng đến được đáp số của bước cuối cùng...Một cuối đường nơi ...

“Hôm qua vẫn trở lại
Dĩ vãng là hôm nay
Ngày mai là hiện tại
Hiện tại chết mỗi giây”

ĐCHMĐHVTMĐ là 1 dòng tâm tư trôi trên những vòng khói thuốc, có đó mà tan biến đó, sợi mỏng manh của “trí nhớ nhỏ nhoi” tìm đường bay về nửa vòng trái đất neo lại với quê hương. Nơi đó có những bộc bạch:
“Nơi đây chỉ là tiếng nói Việt Nam đang nói với chính tiếng nói Việt Nam trong từng nhịp bước đảo ngược giữa nổi trống không rung rợn nhất của một cái gì vẫn chưa bao giờ có tên trên mặt đất…”

Ngày trước đêm-hoang-vu là những ngày mà đầy ấp sự trở đi trở lại của hình ảnh những cây cam, hình ảnh của đàn quạ, hình ảnh của một người nữ sông Hương, những hình ảnh như một tấu khúc về cuộc sống hay có khi chỉ là những hình ảnh một lần xuất hiện, bừng lên trong trí nhớ, một lần – rồi thôi…Cả hai khía cạnh đời sống ấy, qua trí nhớ hiện hữu và trí nhớ quá vãng của PCT đều đẹp…Một vẻ đẹp hoang liêu. Chính nhờ hai – trí – nhớ ấy mà độc giả lại được cùng với ông đi một chuyến đi của trí tưởng, không biên giới, vượt không gian thời gian. Như huyễn như mộng, như sương rơi, như chớp lóe. Hú dài một tiếng – lạnh về hư không!

“Mười lăm tỷ năm qua
Từ vạn triệu thiên hà
Bây giờ ta mới tới
Gặp lại em hôm qua”

Nơi ngăn kéo của trí nhớ ấy có: Nguyễn Thị Hoàng – nông trại đồn điền hoang trống PCT gửi lại ở Phi Nôm / Nghiêm Xuân Hồng “Anh (PCT) mà không dịch Nagarjuna thì sẽ có tội đối với cả chư thiên” / Nh.Tay Ngàn – người bạn ở Paris với câu thần chú PCT đọc riêng cho anh ấy “Tất cả thi sĩ sớm muộn gì cũng phải tự tử. Bước đi vào trong cái hoang vu nguy hiểm của ngôn ngữ thì rất dễ điên và rất dễ tự tử/ Nhất Linh – một thế giới thơ mộng, bi đát và cô độc – nơi bàn làm việc chỉ có duy nhất 1 tác phẩm dày cộm và nhàu nát : Chiến Tranh Và Hòa Bình / Có Vũ Khắc Khoan, có Mai Thảo, có Henry Miller…

Những đường tơ mối chỉ chằng chịt kéo người đọc vào một mê cung của vùng – lãng – quên, nơi vùng – lãng - quên ấy chúng ta bắt đầu học lại cách nhớ.  Nhớ gì? Nhớ về tất cả gì thuộc về kiếp người, nhớ về tất cả những va chạm/ những xuyến xao của đời sống đã mang lại:

“Nó đi cái đi, nó đứng cái đứng…nó im lặng cái im lặng, nó đau khổ cái đau khổ, nó vui cái vui,…nó phá hoại cái phá hoại, nó xây dựng cái xây dựng,..nó có cái có, nó không cái không”

Cứ thế đọc ĐCHMĐHVTMĐ vừa là một sự trải nghiệm cái trải nghiệm vừa là một sự phá hủy cái phá hủy…và ĐÓ/ NÓ chính là con người Phạm Công Thiện, một sự rốt ráo cuối cùng từ chính bên trong ông, ông hủy diệt sự hủy diệt và cũng chính ĐÓ/ NÓ, tái tạo cái hủy diệt…Với một sự “bản ngã nhị trùng” như thế, mới thấy tiếng nói nội tâm của ông - ở đây được nói ra bằng chính những điều giản đơn cuồng nộ ấy – khiến đọc PCT cũng chính là lúc người ta đang đọc lại cái sự đọc, trải qua sự trải qua của chính bản thân mình.

“Hiểu được cái hiểu được này thì hiểu được tất cả cảm giác trí óc của loài người”

Đi đến những bãi bờ hoang sơ và tịch liêu / đi về những ghềnh đá của một thời tuổi trẻ hoang dại /đi về những Việt Nam ngàn trùng và Hoa Kỳ tưởng ngay sát mà xa xôi/ đi cho đến Tây Tạng để thốt lên 1 chữ A duy nhất/ đi ngược cố hương 30 năm chưa lần ghé để làm-cho-xong-hết-cuộc-tiễn-đưa, tiễn đưa hình ảnh thơ mộng của tuổi thơ – của những chiếc tàu chìm nơi bờ sông Mỹ Tho…

“Những cây dừa ở cầu tàu Mỹ Tho cũng từng chứng kiến cảnh chàng trai thất tình ngồi ngó bâng quơ ra đám lục bình trôi chả ngồi ngó bâng quơ ra đám lục bình trôi chảy lắc lư trên con nước buổi chiều. Lúc đó nó vừa đúng 16 tuổi và mang danh hiệu “thần đồng”…

Ôi Mỹ Tho, sinh quán bặt mù bóng chim tăm cá, nơi sinh ra một người-thơ-rất-mực để từ đó sinh ra những câu văn đẹp hoang liêu như chính đời ông
"Nó thường đùa với mấy đứa bạn Tây rằng nó sinh ra đời ở Mytho, nghĩa là Mythologie, nghĩa là nó sinh ra đời trong "thần thoại"...
Nó sẽ tìm ra nơi phát nguyên sông Cửu Long ở núi cao Tây Tạng và nó sẽ đứng nơi đỉnh cao đó mà đái những giọt nước đái cô liêu cho chảy dài từ Tây Tạng đến thành phố Mỹ Tho…”

Bỏ qua những đoạn ông Thiện va chạm với “tám nghìn thế giới thơm” sách vở/ lý thuyết/ triết lý/ mệnh đề/ luận đề…mà ông đã đọc trong suốt 46 năm trên cõi sống – va chạm dẫn đến phản kháng, dẫn đến suy luận, dẫn đến..va chạm khác…, và điều đó dễ khiến người ta gọi ông bằng những danh xưng như triết gia, học giả.  Bỏ qua hết những va-chạm ấy. Với quyển sách này, tôi muốn gọi ông bằng một danh từ duy nhất: người thơ của Việt Nam.

Bởi lẽ, chỉ có một con-người-thơ  (và đồng thời cũng là 1 con người tạo-ra-thần-bí), mới có thể làm cho ý nghĩ, cảm xúc của mình như vượt thoát khỏi kiếp này, rong ruổi qua những kiếp khác, qua một cõi-ta-bà-khác, nơi đó, chính mộng và thực là một vậy.

ĐCHMĐHVTMĐ của một người-thơ-rất-mực ấy chính là một trường thi bất tận (ông đã vẽ cuộc đời ông bằng một bài thơ, đời ông - đã sống - như thể là một bài thơ … bởi đến cuối cùng, như một “nhà thơ” khác đã nói:  thơ cần thiết cho ai nếu như không phải là CHO những người KHÔNG đọc nó?)

PCT tìm lối về với tịch mịch của một đền đài/ chùa chiền/ bảo tháp…trong lòng mình , ông đi theo những tiếng gọi, từ hiện kiếp mà ngỡ như tiền kiếp – những tiếng nói vang lên từ tâm thức “chỉ còn một âm thanh lơ lửng như tơ trời, tiếng nó nhẹ nhàng như hai cánh con phù du, đôi lúc tiếng nó cũng thình lình trở nên vang dội, như ngày xưa còn bé trốn học tắm sông nghe tiếng Mẹ kêu inh ỏi: Thằng đó, NÓ đi đâu mất rồi?”

“Thoắt đi một đời người
Buồn hoài cũng thế thôi
Triệu năm là giây phút
Chưa đi đã tới rồi”

ĐCHMĐHVTMĐ cũng chính là “một chuyến lộn ngược quay đầu trở về quê hương” – quê hương như một thánh tích như tên một tập thơ của Hoàng Bảo Việt, thánh tích ấy được tìm về/ được khai quật từ chính con chữ Việt Nam, trên những bước chân trải qua hơn 300 trang giấy hoang vu của nghìn nghịt những ký tự (và còn nữa giữa ba ngàn thế giới của những khoảng trống giữa hai dòng.

Giữa những khoảng trống ấy, người ta có thể nói ông là một kẻ điên, những câu văn hoang đường và bất thường, thì ngay trong quyển sách này ông cũng đã có sẵn câu trả lời -  tất cả chỉ là “tiếng chửi HƯ VÔ gửi về với HƯ VÔ, trong tiếng cười của một thằng điên giữa cơn bão tố tàn khốc của ĐỊNH MỆNH”Tiếng của một-con-người đẩy sự ly hương đến cùng độ để biết thế nào là nỗi nhớ quê hương

Hãy đọc quyển sách này với tâm thế đọc một PCT “sau 17 năm bỏ viết tiếng Việt, bây giờ bắt đầu khiêm tốn học viết lại từng nét chữ linh hiện của tổ tiên”

Chính “Chuyến lộn ngược quay đầu trở về quê hương” ấy còn là để BẮT ĐẦU kham-nhẫn học lại từ đầu tiếng Việt, học lại để đi cho hết MỘT ĐÊM HOANG VU – đi cho hết TIẾNG NÓI VIỆT NAM:

“Con kiến không phải con bò mà tại sao lại bò trong trí nhớ cô liêu của nó?/ Tại sao lại ăn nói mà không phải uống nói?/ Tại sao mũi lại viết bằng dấu ngã?/  Nó đang mủi lòng về việc xỏ mũi trâu?/ Chân lý rờ cái đầu nó mà nó không thể nào rờ cái đầu chân lý, Decscartes tưởng chân lý có cái đầu và định chụp đầu chân lý, BĂT ĐẦU mọi sự…/ Đồng xoang đồng điệu, đồng ưu cộng lạc, đồng vợ đồng chồng, nhưng thường đồng sang dị mộng… / Không có dân tộc nào gọi sao một cách đầy thành kính như dân tộc Việt: ngôi sao/ vì sao.  Tại sao lại vì sao/  Đi cũng có nghĩa là té tới trước…cho đến lúc nào hết đêm hoang vu thì té xuống mồ…vân vân & vân vân…” (hoặc 8 đoản khúc nhỏ http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=8042)

Trong ngào ngạt những trí nhớ ấy, PCT để dành riêng một chương.  Chỉ 1 chương toàn những câu bốn chữ nhưng đã đủ làm bùng vỡ lên hết được 1 đoạn đời/ cuộc đời kỳ dị và kỳ tài của PCT nơi có cả những tịch mịch hồng và huyên náo xám. 

Kịch tính, và bình thản…Biến động, và im lìm…Vun vút, và khoan thai…Gàn rỡvà tỉnh táo. Bình thường, và lạ thường.  Như thế, và không-như-thế. 

“Xin thầy mở cửa.  Có người muốn gặp.  Nó lìa khỏi phòng.  Bước ra phòng khách.  Ngôi chùa Việt Nam.  Thành phố thiên thần.  Đọc Los thành Lost.  Chỉ thêm chữ t.  Như tên của nó.  Người lạ ngồi đó.  Cô gái người Huế.  Con ngưỡng mộ thầy.  Đọc sách thầy nhiều.  Con gối đầu giường.  Cô đừng gọi thầy.  Cô đừng xưng con.  Tôi không có tu.  Tôi chỉ ở chùa.  Không biết ở đâu. Từ Pháp mới qua.  Từ năm tám ba.  Bây giờ tám bốn.  Gần được một năm.  Hôm nay mười bảy.  Bây giờ tháng Tư.  Cô gái ngồi ghế.  Dạ thưa lễ phép.  Ngồi một hồi lâu.  Nó được mời ăn. Cùng nhau đi tiệm.  Ngồi quán Doanh Doanh. Nó ăn bì bún.  Nàng ăn nem nướng.  Dăm ba câu chuyện.  Rồi lại im lặng.  Nó ngó khoảng trống.  Hai người chia tay.  Nó trở về chùa.  Nằm im trong phòng.  Ngó ra cửa sổ.  Không nhớ gì hết.  Quên phứt gái Huế.  Nằm đọc Lăng Già. Tụng chú Tây Tạng.  Ngó lên bầu trời.  Mây trắng vẫn bay.  Ở yên trên chùa.  Suốt tháng suốt năm.  Rồi một thời gian.  Nó đi diễn thuyết.  Ở Garden Grove. Thính giả có người.  Cô gái đã gặp.  Quê từ sông Hương.  Tên là Lô An.  Cô làm nước cam.  Đem lên diễn giả.  Nó ngó lãnh đạm.  Diễn thuyết xong rồi.  Nó trở lại chùa.  Nằm im ngó mây. Rồi một thời gian.  Bỏ chùa đi chơi.  Ngủ nhà học trò.  Rồi trở lại chùa.  Nằm im nghe chim.  Suôt năm suốt tháng.  Tu hành lai rai.  Rồi một thời gian.  Trốn chùa đi chơi.  Say rượu suốt ngày.  Say mèm suốt đêm.  Làm báo Động Đất.  Tạo cớ đi chơi.  Chơi hoài ngày tháng.  Nằm ngủ say mèm.  Một hôm muốn gặp.  Cô gái sông Hương.  Hai người gặp lại.  Nó thấy dễ thương. Nhưng nó chưa thương.  Nó trở lại chùa.  Nhập thất mười tháng.  Nằm im ngó mây.  Rồi một thời gian. Bỏ chùa đi chơi.  Say sưa suốt tháng.  Gặp lại gái Huế. Đi bãi biển chơi.  Laguna Beach.  Hai người ôm nhau.  Sau một thời gian.  Ngựa quen đường cũ.  Nó trở về chùa.  Nằm ngó mây bay.  Ngựa quen đường cũ.  Bỏ chùa đi chơi.  Bay qua Úc Châu.  Nghe mưa phố lạ.  Bỗng nhớ sông Hương.  Bay về nước Mỹ.   Nàng đón phi trường.  Ngựa quen đường cũ.  Bãi biển buổi chiều.  Bãi biển trăng rằm.  Hai người ôm nhau.  Nó trở về chùa.  Nằm ngó trăng khuya.  Bồ câu bay lượn.  Được một thời gian.  Ngựa quen đường cũ.  Sa mạc Tân Cương.  Tam Tạng thỉnh kinh.  Nó tụng tâm kinh.  Thấy Tâm là Huế. Bỏ chùa lần cuối.  Bây giờ ở đây.  Cây cam sai trái.  Cây chanh trổ bông.  Qụa đen che chở.  Thạch thảo đỏ hồng.  Buổi chiều bốn giờ.  Sông Hương lờ đờ.  Cửu Long lặng sống.  Sóng không phải sống.  Con sông sóng lặng.  Nó lặn xuống sông.  Vớt lên hồng diệp.  Mỗi ngày thức sớm.  Chuông reo sáo giờ.  Mỗi chiều chờ đợi.  Chiều tới bốn giờ.  Cây cam sai trái.  Nó nằm ngủ mớ.  Mỗi đêm động đất. Sao xẹt đầu ghềnh.  Gió thổi quạnh hiu.  Bãi biển buổi chiều.  Không người lui tới.  Nó ngồi trên ghế.   Đít nóng bất động.  Tham thiền nhập định.  Thở ra thở vô.  Quán chỉ thanh tịnh.  Mấy giấc chiêm bao.  Nhất thế pháp không.  Huế tức thị không.  Không tức thị Huế.  Huế bất dị không.  Không bất dị Huế.  Ngồi yên suốt ngày.  Ngồi ngó quạ bay.  Ngó cam sai trái.  Ngó đường vắng tanh.  Ngồi viết bốn chữ.  Bán tự vi tử.  Anh có thương em.  Em có thương anh.  Nó thương cái thương.  Nó ghét cái ghét.   Như hư không nhẫn.  Học mãi cái quên.  Ngồi yên bất động.  Tậm nhảy lung tung.  Cứ cho nó nhảy.  Ngựa quen đường cũ.  Sa mạc Tân Cương.  Ngồi nhớ cái quên.  Rồi quên cái nhớ.  Văn chương bốn chữ.  Số bốn linh thiêng.  Nhất cá nhì tôm.  Vèo đi nửa kiếp.  Giựt mình thức dậy.  Vô nhân vô ngã.  Vô hết tất cả.  Không còn chúng sinh.  Không còn thọ giả.  Ngồi đọc Kim Cang.  Mất hết bốn hàng…”

Người đọc có hiểu? Hay không hiểu? Có thấy gần hơn với điều “hết một đêm hoang vu”?
“Thôi thì cứ tha hồ thơ mộng thoải mái sống với cái “không hiểu gì ra gì cả”. Cứ coi mình như hư không và thế gian nhân loại như hư không. Hư không đang ngồi viết. Hư không xuống dưới bếp uống nước chanh đường…”

Hư vô không thuộc về ai cả.  Mà tất cả đều thuộc về hư vô!
Cám ơn ông đã mơ về những giấc mơ đẹp như đời thật & đã sống một cuộc đời thật như một giấc mơ…ĐCHMĐHVTMĐ rốt cuôc rồi cũng sẽ đến một …buổi chiều...

“Mưa chiều thứ bảy tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông…”

Cuối đêm hoang vu ấy - Tất cả bông khế đều rợp trời, bừng lên như những cơn mơ, như những cụm mây tha thiết trôi nghìn đời, hay tất cả là KHÔNG, vắng lặng, tịch mịch, không một bông khế nào nữa… Không còn gì cho không-còn-ai nữa…

ĐI cho hết…TÉ ra là…


huyvespa@gmail.com

Tôi đang tìm quyển này và 1 số quyển list ở đây 
http://huyvespa.blogspot.com/2015/03/book-wish-list.html



NHỮNG NGÀY #ĐICHOHẾT1ĐÊMHOANGVUTRÊNMẶTĐẤT Ở #SAIGON









Điều tuyệt vời nhất của một ngày thứ Hai là thoát ra khỏi những vòng quay thường nhật để ngồi trong một vùng-lãng-quên/ vùng-ẩn-mật/ vùng-xanh-tương-lai…mà cảm nhận được buổi sáng thơm mùi buổi sáng/ cơn mưa thơm mùi cơn mưa/ bản nhạc thơm mùi bản nhạc …Nhìn lên những tán lá xanh chấp chới nghe chừng thấp thoáng một vẫy gọi tuyệt vọng cùng buông mình thành những phiến-cô-độc let’s-be-alone-together… Những con sóng lá trong tuổi sống mang theo từ vô số đến vô lượng & vô lượng đến vô biên…những diệp lục tố - thảm thẳm xanh ấy - dễ dàng du người ta vào trường không gian/ thời gian nơi chúng ta thỏa mãn với một cảm giác bị/ được đánh lừa; nơi ngăn kéo của trí nhớ (đã mắc kẹt trong một căn nhà cháy) bỗng bùng vỡ những ngày xanh cũ, từng mặt người – từng câu chuyện - chậm tha thiết như mây trời mà cũng nhanh phi mã như thời gian. Làm sao đuổi bắt được ký ức của chính mình? Ta không thể chậm bằng mây mà cũng không thể nhanh hơn ánh sáng … Biết bao những tịch-mịch-hồng và huyên-náo-xám đã trôi qua trong/ trên đời mình? Ngồi đây…và ngày mai đã trở lại mất rồi…
“Tất cả đều trôi đi
Chuyện xưa không còn gì
Mây chiều bay lũ lượt
Nói năng nữa mà chi”










Tám Phố ‪#‎Saigon‬ (Nguyên Sa)
Sài Gòn đi rất chậm buổi chiều
Cánh tay tà áo sát vòng eo
Có nghe đôi mắt vòng quanh áo
Năm ngón thơ buồn đứng ngó theo
Sài Gòn phóng solex rất nhanh
Đôi tay hoàng yến ngủ trong gants
Có nghe hơi thở cài vương miện
Lên tóc đen mềm nhung rất nhung
Sài Gòn ngồi thư viện rất nghiêm
Tờ hoa trong sách cũng nằm im
Đầu thư và cuối cùng trang giấy
Những chữ y dài trông rất ngoan
Sài Gòn tối đi học một mình
Cột đèn theo gót bóng lung linh
Mặt trăng theo ánh đèn: trăng sáng
Đôi mắt trông vời theo ánh trăng
Sài Gòn cười đôi môi rất tròn
Vòng cung mầu đỏ, nét thu cong
Cầu vồng bắc giữa mưa và nắng
Hay đã đưa dần sang nhớ mong
Sài Gòn gối đầu trên cánh tay
Những năm mười sáu mắt nhìn mây
Chiếc tay tròn ánh trăng mười bốn
Tiếng nhạc đang về dang cánh bay
Sài Gòn nắng hay Sài Gòn mưa
Thứ Bảy Sài Gòn đi Bonard
Guốc cao gót nhỏ mây vào gót
Áo lụa trăng mềm bay xuống thơ
Sài Gòn mai gọi nhau bằng cưng
Vành môi nghiêng cánh xuống phân vân
Lưng trời không có bày chim én
Thành phố đi về cũng đã xuân





Ngày tháng Hạ, mênh mông buồn
Lòng vắng vẻ như sân trường
Ngày tháng Hạ, lê thê dài
Lòng nín lặng, như khung trời
Ngày tháng Hạ, trưa ngủ lỡ
Theo tiếng nhạc ve sầu ru...
‪#‎saigon‬ ‪#‎somewhereinsaigon‬









Giăng mộ cổ 
mưa chiều hoen ngấn lệ 
Bóng điêu tàn 
huyền sử đứng trơ vơ 
Sương thấm lạnh 
làn vai hờn nguyệt quế
Ôm tượng đài
yêu suốt cõi hoang sơ.
(Tuệ Sỹ)
‪#‎saigon‬ ‪#‎somewhereinsaigon‬ ‪#‎hiddengem‬ ‪#‎wanderlust‬

MAI THẢO - tùy bút trên KHỞI HÀNH

$
0
0
<SAMSUNG DIGITAL CAMERA>

MAI THẢO trên VẤN ĐỀ "Trà đựng trong bình trí nhớ câm"

MAI THẢO viết về Chân dung 15 nhà văn nhà thơ VIỆT NAM (1985-USA)

MAI THẢO và một thời SÁNG TẠO

MAI THẢO - "Văn nghệ & cuộc sống" trên NGHỆ THUẬT

MAI THẢO - "SỔ TAY MAI THẢO" trên VĂN hải ngoại

MAI THẢO - Mười đêm ngà ngọc

MAI THẢO - "một im lặng lớn nằm giữa một lắng đọng đầy..."

Tùy bút MAI THẢO - Cũng đủ lãng quên đời...

"Trong thập niên '70, tuần báo văn học duy nhất của miền Nam là tuần báo Khởi Hành của Hội Văn Nghệ Sĩ Quân Ðội. (Những tờ văn chương khác thảy đều xuất bản hàng tháng, trừ Bách Khoa là bán nguyệt san, tuy nhiên phần văn chương không nhiều). Tạp chí Nghệ Thuật cũng xuất bản hàng tuần, ra được 56 số, song đã đình bản vài tháng trước khi có Khởi Hành. Là cơ quan ngôn luận chính thức của Hội Văn Nghệ Sĩ Quân Ðội, với trên 700 hội viên trong mọi binh chủng, in trên 5000 ấn bản, phát hành rộng rãi trên khắp bốn vùng chiến thuật trong nhiều năm, nên người viết cho Khởi Hành đa số là quân nhân, người đọc cũng đa số là quân nhân.

Dư luận đã ngạc nhiên tại sao một tạp chí văn chương của quân đội lại quá tự do như đã thấy, để các nhà văn nhà thơ trẻ viết như phóng bút, và mặt khác, mời được hầu hết những trí thức văn nghệ sĩ tên tuổi của miền Nam. Báo của quân nhân, nhưng dù là quân nhân cũng phải mua mới có báo mà đọc (giá 20 đồng một số), nên vận mệnh của nó thực sự nằm trong tay bạn đọc. Không ai mua báo dở mà đọc bao giờ, cho nên tinh thần Khởi Hành ngay từ hồi chiến tranh vẫn là tinh thần tự do. Viết tự do, dù là quân nhân. Bởi thế, bài vở trên tờ báo này trước 1975 là sáng tác của Một Nền Văn Học Tự Do, sản phẩm của tâm thức và trí tuệ tuổi trẻ miền Nam lúc bấy giờ, quan trọng nhất là từ tháng 5, 1969 tới đầu 1973. Phần lớn các tác giả trẻ tuổi nổi tiếng nhất của miền Nam sau này đã xuất hiện từ Khởi Hành, lần đầu có bài được biết đến là từ Khởi Hành: Nguyễn Tôn Nhan, Nguyễn Ðạt, Nguyễn Bắc Sơn, Võ Chân Cửu, các nhà phê bình Cao Huy Khanh, Nguyễn Nhật Duật; họa sĩ Chóe; nhà văn Cung Tích Biền..."


VIÊN LINH - LÀM BÁO VĂN NGHỆ Ở MIỀN NAM 

MỘT VÀI TRANG BÌA KHỞI HÀNH:
<SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA>





THƯ QUÁN BẢN THẢO của nhà văn TRẦN HOÀI THƯ đã sưu tầm và phổ biến những bài TÙY BÚT của MAI THẢO trên tuần báo KHỞI HÀNH

12 TÙY BÚT MAI THẢO trên KHỞI HÀNH (phổ biến trên web Trần Hoài Thư - Thư Quán Bản Thảo)


Huyvespa blog xin mời đọc thêm những bài chưa được post trên blog của THƯ QUÁN BẢN THẢO:





<SAMSUNG DIGITAL CAMERA>




<SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA>





VIẾT VỀ/ VIẾT CHO MAI THẢO 
TRÊN KHỞI HÀNH
<SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA>

Sơ thảo 15 năm văn xuôi miền Nam (1955-1970) (Cao Huy Khanh viết trên KHỞI HÀNH)

$
0
0

<SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA>

<SAMSUNG DIGITAL CAMERA>NHÓM QUAN ĐIỂM : VŨ KHẮC KHOAN & MẶC ĐỖ

<SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA>


NHÓM VĂN HÓA NGÀY NAY: NGUYỄN THỊ VINH/ LINH BẢO/ TƯỜNG HÙNG/ DUY LAM<SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA>




NHÓM BÁCH KHOA: VÕ PHIẾN/ VŨ HẠNH/ VÕ HỒNG<SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA>

Khởi Hành: Nơi Gìn Giữ Nền Văn Học Tự Do (Vũ Ánh)

Tôi gọi nền văn học tại vùng đất từ vĩ tuyến 17 xuống tới mũi Cà Mâu thời gian trước 30 tháng 4 năn 1975 là nền văn học Miền Nam. Còn Viên Linh, nhà văn - chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ Khởi Hành - gọi đó là nền văn học Tự Do. Tôi không biết có phải do những ấn tượng mạnh về một nền văn học, nơi tôi lớn lên và tắm gội nó hay do những kỷ niệm đau đớn khi phải vĩnh viễn cắt lìa vùng đất đã cho tôi những điều kiện sống, làm việc, chiến đấu và hiểu thế nào là một nền văn học nhân bản mà cách tôi gọi đầy địa phương tính như vậy hay không. Tuy nhiên, phải nhận rằng Viên Lỉnh đã chắp cánh một cách hợp lý khi vinh danh nền văn học đó là nền Văn Học Tự Do.
Trải nghiệm đời mình trong văn chương, văn học với giải thưởng toàn quốc từ mấy thập niên của thế kỷ trước vào lúc còn rất trẻ, Viên Linh vẫn được coi là người nhiệt tình bảo vệ nền văn học tự do ấy và cho đến nay ông tiếp tục làm công việc này với tờ Khởi Hành, một tạp chí văn nghệ đã bước vào năm thứ 15 ở hải ngoại. Mớ kiến thức lõm bõm của tôi về văn chương, văn học Việt Nam không đủ đưa ra một cách nhìn mới về tầm ảnh hưởng của nền văn học Miền Nam dối với tầng lớp thanh niên chúng tôi vào những năm chiến tranh bắt đầu lan rộng, thế nhưng tôi hiểu bằng trái tim của mình rằng nền văn học này đã ảnh hưởng đóng góp vào lý tưởng tự do của chúng tôi giữa thập niên 1960.

Khi vừa rời ghế nhà trường để mặc áo lính, đầu óc thanh niên Miền Nam vào thời ấy đầy ắp những hình ảnh lãng mạn của những tác phẩm cổ điển hay bán cổ điển viết về chiến tranh. Cho nên, câu hỏi lớn nhất của thế hệ chúng tôi khi phải cầm lấy khẩu súng là "Vì đâu, vì lý gì mà chúng tôi chiến đấu." Vì Đệ Nhất Cộng Hòa? Vì Đệ Nhị Cộng Hòa? Vì ông Ngô Đình Dlệm? Ông Nguyễn Văn Thiệu? Vì tiền đồn thế giới tự do? Hoàn toàn không. Trong sâu xa, cái ý thức thúc đẩy thanh niên Miền Nam chiến đấu chính là cái ý thức tự vệ, chiến đấu chỉ vì muốn bảo vệ tự do cho chỉnh mình và gia đình.
Không điều gì nói lên trọn vẹn ý thức ấy ngoại trừ nền văn học và cũng không có điều gì có thể ngăn cản được các mũi tên tẩm thuốc độc của ý thức muốn tiêu diệt tự do của con người Một trong những bằng chứng rõ ràng nhất, trong một thời gian dài các gọi là văn học đỏ tuy đã làm mưa làm gió trong thế giới của khối cộng sản nhưng chúng vẫn không thể ngăn được những ngọn đuốc của nền văn học tự do. Những cảm nhận sâu xa về tự do của con ngườl và nhân bản không để đến từ những câu chuyện về đấu tố ruộng đất, hay từ những tác phẩm văn học hình thành những giới hạn suy nghĩ cho con người, đặt ra những cái khung chính trị nhất định, những món ăn tinh thần cho con người đã được chọn sẵn, được chế biến theo những công thức bất di bất dịch.

Người ta có thể phân tích, nhận thức theo nhiều cách nhìn khác nhau đối với vụ ánNhân Văn và Giai Phẩm, nhưng có một điểm chung là một nền văn học bị quyền lực chính trị lèo lái cách xa văn hóa dân tộc không có khả năng giết chết được ý thức tự do đến từ một nền văn học tự do. Từ Bách Khoa, Sáng Tạo cho đến những tờ văn học nghệ thuật Văn, Văn Học, Nghệ Thuật, Khởi Hành cùng những tác phẩm làm nền tảng cho nền văn chương văn học Miền Nam của Mai Thảo, Thần Thanh Hiệp, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Nam, Viên Linh, Nguyễn Đình Toàn, Vũ Khắc Khoan, Thanh Tâm Tuyền, Sơn Nam, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Sỹ Tế, Trần Hồng Châu, Nguyễn Mạnh Côn, Bình Nguyên Lộc, Thảo Trường, Văn Quang, Nguyễn Xuân Hoàng ... Thế hệ chúng tôi vào thời điểm của những năm giữa thập niên '60 đã ngụp lặn trong nền văn học tự do ấy. Đóng góp cho nền văn học tự do ở Miền Nam Việt Nam, các tạp chí văn học nghệ thuật như tờ Nghệ Thuật, Khởi Hành gởi một phần không nhỏ vào công trình ấy.

Tôi là nhà báo, không phải nhà văn, nên cách nhìn của tôi đối với tờ Khởi Hành là những trải nghiệm với nội dung tờ báo từ tháng 5 năm 1969 cho tới 1973, nghĩa là Khởi Hành ra đến số 156 thì đình bản. Tôi thích tờ báo vì cách trình bày đầy chất văn nghệ và mỹ thuật cũng như nhiều tác giả của tờ Khởi Hành đã can đảm chạm tới những vấn đề mà chúng tôi coi là phản cảm đối với giới thanh niên vào thuở đó: chống Cộng là phải gào thét chiến tranh, tránh nói tới hòa bình. Khi Khởi Hành tục bản tại California Hoa Kỳ vào tháng 11 năm 1996 trở thành nguyệt san Văn Hóa Văn Học Lịch Sử chú trọng trước hết đến những "giá trị khai phá và tạo dưng được của Miền Nam Việt Nam từ 1954 đến 1975, đánh giá lại và bảo tồn di sản của nền văn học ấy, khôi phục và bảo vệ danh dự, tác phẩm cho các nhà văn trong ngục tù, trong các trại tập trung, chiêu niệm những án mệnh thống khổ của những người cầm bút từng phản kháng cường lực ngoại xâm Cộng Sản, giữa những nông trường khổ sai hay trên đường lưu vong siêu tán, những người, những tác phẩm mà một nửa Đất Nước đã tạo thành, đã nuôi dưỡng, đã mang vóc dáng và tâm thức Việt Nam truyền thống" (Khởi Hành số 168 tháng 10-2010, tr. 39)

Theo nhà văn Viên Linh, Khởi Hành thực hiện trên mỗi số một chủ đề và "trong 13 năm đầu với 158 số báo, khoảng hơn 100 chủ đề đã được thực hiện từ văn chương tới nghệ thuật, từ sử cận đại tới các vấn đề nhân văn, thời thế, những bí mật chính trị và cuộc chiến Việt Nam."
Mới đây số 168 của Khởi Hành mang chủ đề dịch thuật: Tâm Hồn và Đất Nước Người, Tác Gỉả. Và qua số báo này, độc giả có thể hiểu thêm tác giả chuyển ngữ từ nguyên bản sang Việt ngữ như Lê Huy Oanh, Nguyễn Xuân Hoàng, Huỳnh Hữu Ủy, Triệu Phong, Trần Kim Vũ, Đinh Thành Lam, Phạm Xuân Hy, Nguyễn Quan Hà, Ngô Tất Tố, Nguyễn Đăng (Mai Thảo). Dịch thuật cũng là một nghệ thuật. Nó không giống như một bức sao chép nguyên bản. Người dịch cũng cần có một cảm xúc giống như người nghệ sĩ nhập vai một cách xuất sắc nhân vật kịch của mình. Không có như thế, bản dịch sẽ chỉ là bức vẽ truyền thần khô khốc và lãnh cảm.
Ngoài ra, Khởi Hành cũng đã tạo dựng được Giải Văn Chương Khởi Hành, một giải thưởng mà nhà văn Viên Linh từng tâm sự và ví nó như một mơ ước đã thành sự thật trong đời ông. Giải thưởng đầu tiên được trao cho nhà văn Nguyễn Thụy Long năm 2005, và năm 2007 giải này được trao cho nhà thơ Hữu Loan ở Thanh Hóa. Giảl thưởng 2009 được trao cho nhà văn Văn Quang vào trưa Thứ Bẩy 30 tháng 10 năm 2010.

Viên Linh vào nghề rất sớm và cũng thành công rất sớm. Ông là nhà văn trẻ duy nhất với hai lần được giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc (VNCH) vào năm 1972 và 1974 cùng một số lượng tác phẩm đáng kể xuất bản trước năm 1975 và nổi tiếng nhất vẫn là "Con Đường Ngựa Chạy" (kịch) và "Gió Thấp" (tân truyện, giải nhất). Tuy thế, ông vẫn là người mê làm báo, làm báo trong những điều kiện khó khăn. Viên Linh lao vào nghề này với một tài năng đầy thuyết phục và sống trong những khó khăn của nghề nghiệp với thái độ ung dung, bản lãnh. Nhưng điều đáng nói nhất là trong lúc phải chìm đắm trong cơn khó khăn và nợ cơm áo, Viên Linh vẫn cương quyết để cho tờ Khởi Hànhlà một chiến lũy gìn giữ cẩn trọng nền Văn Hóa Tự Do của một nửa đất nước cách đây ba muơi nhăm năm. Bởi ông tin rằng nền văn hóa này sẽ trở thành những di sản quí giá và đồng thời là những đốm lửa soi rọi cho một nền văn học phản kháng đang hình thành tại Việt Nam với những cố gắng trở về truyền thống dân tộc.

Có thể có nhiều ngươi không đồng ý với tôi hoặc với nhà văn Viên Linh cùng với những bạn văn của ông. Tôi không hề giấu diếm cảm tình của một người viết báo đối với một nhà hoạt động không biết mệt mỏi để giữ gìn nền văn hóa tự do của Miền Nam Việt Nam như Viên Linh. Do đó mà suy nghĩ của tôi về tờ Khởi Hành có thể bị cho là thiên vị. Cho nên, cách tốt nhất là mọi người có thể đến tham dự cuộc họp mặt 15 năm Khởi Hành sẽ diễn ra vào lúc 1 giờ 30 trưa ngày Thứ Bẩy 30 tháng 10 tại phòng sinh hoạt của nhật báo Ngườl Vlệt, nơi mọi người có thể chia sẻ quan đlểm của mình với những đề tài, chẳng hạn như "Cùng nhìn lại 15 năm báo chí văn học hảl ngoại", "Hội tác giả và đề nghị Giải Sách Hay Hàng Năm", "Xem xét diện mạo báo chí văn nghệ quốc doanh" và"Vai trờ internet đối với phẩm chất báo giấy in tiếp hậu".
Tôi tin rằng sự chia sẻ các quan điểm trái ngược nhau bao giờ cũng là điểm tựa cho những phán đoán gần với sự thật nhất.



Mỗi tuần một khuôn mặt văn chương - series trên tuần báo KHỞI HÀNH

PHẠM CÔNG THIỆN (& LÊ UYÊN PHƯƠNG) trên KHỞI HÀNH

$
0
0

"Và nếu thuộc về nhau, "em" sẽ trở lại..."
Quyển sách này đã vượt thời gian, để có mặt ở đây/ đó.
... & nó sẽ vượt không gian - sẽ đi nửa vòng trên trái đất hoang vu này nữa - mới đến nơi...
"Ở chỗ nhân gian không thể hiểu / tôi có người hồ như hạt sương / có bông hoa đỏ chiều tâm khúc / tôi thấy từ em một quê hương ..."






Cám ơn nhà thơ NGUYỄN THANH CHÂU đã gửi tặng, vẫn còn đang kiếm những quyển dưới đây...

& Ở ĐÂY Book wishlist


PHẠM CÔNG THIỆN trên KHỞI HÀNH
<SAMSUNG DIGITAL CAMERA>

Kính gởi thi sĩ Nguyên Sa Trần Bích Lan (tức Lê Hải Vân).

Phải chăng thi nhân không còn nói với nhau bằng tiếng nói của thi sĩ trong cơn lửa dậy? Tiếng chim đã bị những khẩu hiệu bóp nghẹn rồi sao và chỉ còn lại một thứ ngôn ngữ tối đen đọa đày trong sự rạn vỡ càng lúc càng rạn vỡ ở đất nước này? Tôi mong Ông có can đảm nhận thật tên của mình và nếu bút hiệu Lê hải Vân bị Ông chối bỏ thì tôi xin chịu lỗi và coi bức thư này gửi riêng cho Lê hải Vân để cho hình ảnh thi sĩ Nguyên Sa hãy còn là thi sĩ.

Bài Ông xuất phát từ sự xếp đặt lâu dài mang đầy “ẩn ý chính trị pha màu mật vụ” quá sôi nổi và cần phải được nghe lại cho đúng tiết nhịp của thời gian vượt ra ngoài mọi tư thế chính trị, bè nhóm, tập đoàn mà tôi thừa hiểu. Ông chỉ là kẻ thi hành hãnh tiến:

1) Tôi đã có bằng cấp tốt nghiệp trường đại học Yale ở Hoa kỳ, chứ không phải học hành “ngu dốt” và “bị thi rớt” ở Hoa kỳ như Ông đã công bố trên mặt báo Độc Lập; Ông có thể chịu khó tọc mạch đến tìm thăm tôi để nhìn bằng cấp ấy hay là Ông gửi thư hỏi thẳng Y.F.S.I ở đại học đường Yale tại New Haven (U.S.A) (nhưng tôi khó chịu: một người mang tâm hồn như tôi mà lại có bằng cấp thì đó quả là sự sỉ nhục quá lớn đối với tôi: chỉ có những kẻ không tự tin mới cần bằng cấp để chứng minh và “làm ăn”!)

2) Con người “nghệ sĩ điên gàn” trong tôi đã nổi loạn và khiến tôi tự ý bỏ học bổng ở tại Mỹ chứ không bị ai “cúp” học bổng vì “học dốt” như Ông đã công bố trên mặt báo Độc Lập; Ông có thể viết thư hỏi thẳng người trong cuộc, cô Cynthia Fish, địa chỉ: I.I.E. (Institute of International Education) ở United Nations Plazza tại New York City: chính cô Cynthia Fish là nhân viên phụ trách cấp học bổng cho tôi trong thời gian du học ở Hoa kỳ và cô Cynthia Fish đã ân cần mời tôi ăn cơm riêng với cô tại Broadway để tha thiết van xin năn nỉ tôi đừng bỏ học bổng, nhưng tôi trả lời: “Tôi không sống nổi ở nước Mỹ, vì nước Mỹ chỉ toàn là Coca Cola” và cô dịu dàng chăn sóc [sic] khuyên nhủ tôi nên nghỉ ngơi tĩnh dưỡng ở một y viện phân tâm học tại New York, nhưng tôi từ chối và nhất quyết bỏ học bổng.

3) Lúc tôi học ở trường Đại học Columbia thì những bài vở của tôi thường vẫn được điểm A (tức là điểm cao nhất theo lối Mỹ), chứ không phải “học dốt”, “học không nổi” như Ông công bố trên mặt báo Độc Lập; Ông có thể biên thư hỏi lại giáo sư Faust tại trường đại học Columbia ở New York. Sở dĩ tôi bỏ học Columbia là vì tôi chịu không nổi cái thành phố New York và quá nhớ Paris và thích “làm thằng Clochard ở Paris hơn là triệu phú ở New York” (Tại sao lại phải cần nêu ra cái chuyện “học giỏi” của mình, khi tôi khinh bỉ hết tất cả học đường!)

4) Khi tôi nhất quyết bỏ Columbia và bỏ học bổng để đi qua Paris thì chính ông Donald Taylor, nhân viên cao cấp của đại học đường Columbia, đã tận tình giúp đỡ và trực tiếp điện thoại đến Washington để can thiệp cho tôi qua Paris; trường Columbia thì bênh vực tôi (mà đại diện trường là ông Donald Taylor), còn Washington thì phản đối và cho rằng tôi “lợi dụng học bổng ở Mỹ” để đi Paris vì “những ẩn sự chính trị” (nguyên văn: Political implications) mà tôi thì có bao giờ thèm để ý đến chuyện chính trị. Chính ông Donald Taylor đã buồn rầu hỏi tôi: “Tại sao biết bao nhiêu sinh viên Mỹ muốn có được học bổng như anh mà còn anh thì lại bỏ học bổng?” Rồi ông hỏi tiếp: “Anh sẽ làm gì cho đời anh trong tương lai?” Tôi trả lời: “Thành Phật!” Câu chuyện xẩy ra một ngày trước lễ Thanksgiving tháng 11 năm 1965. Ông có thể viết thư hỏi thẳng ông Donald Taylor, assistant director F.S.C., Columbia University, New York City. Tôi muốn Ông hỏi thẳng một nhân viên cao cấp của Columbia để Ông đừng quá tin cậy qua tin tức theo lối “mật vụ” vu vơ.

5) Về câu “Tôi khinh bỉ tất cả các Thiền sư” chỉ là cách nói theo điệu Thiền sư “Phùng Phật sát Phật” (Gặp Phật thì giết Phật), chắc ông không hề biết rằng mấy Thiền sư gọi tổ sư Bồ Đề Đạt Ma là “tên rợ mắt xanh” (bích nhãn hồ), cái lối nói “ngạo mạn”, và “du côn” ấy nằm trong truyền thống ngôn ngữ Thiền tông, giống như cách nói “vô lễ” khác mà mấy Thiền sư nói với đức Phật; tôi không phải là một thiền sư, cho nên tôi không dám bắt chước Thiền sư Vân Môn gọi Phật là “đồ chùi cứt khô” (càn thỉ khuyết). Muốn hiểu được nghĩa sâu thẳm của những lời nói “thô tục” trên thì phải có tâm hồn bốc cháy với Lửa Tam Muội và mới đi vào được tinh thần “Thập Bát Không” của Bát Nhã (ô hay, ông Trần Bích Lan vốn là cựu sinh viên Phật học của Đại học Vạn Hạnh, không lẽ nào ông hiểu đạo Phật hơn tôi, giáo sư dạy về Phật giáo ở Viện Đại học Vạn Hạnh!)

6) Bây giờ tôi muốn đặt lên vài nhận xét về Ông:

a) Khi phê bình tôi, Ông nên có thái độ liêm sỉ tối thiểu; đừng xén từng câu riêng lẻ và bỏ mất ý nghĩa toàn thể, không có gì khôi hài cho bằng rút tỉa một vài câu lạc lỏng [sic] rồi tha hồ giải thích theo cái nhìn ngu xuẩn của mình;

b) Giá trị của tác phẩm tôi và của đời tôi có đứng vững hay không là do sức mạnh nội tại của chính tâm hồn tôi và do ngọn lửa trong tinh thần tôi điều động, chứ không phải chịu lệ thuộc vào những ý kiến của bất cứ ai;

c) Ông viết về tôi theo giọng điệu “trịch thượng” khôi hài và vô lễ một cách lố bịch, tất nhiên người nào có đọc sách Ông và đọc sách tôi đều thấy rằng Ông chưa đủ sức để nói chuyện đàng hoàng với tôi: sự trả thù của kẻ yếu tất nhiên là phải giống đàn bà (“xoi mói”, “tọc mạch”, “ba hoa nhảm nhí”, “ngồi lê đôi mách”), xin Ông hãy là kẻ trượng phu!

d) Tất nhiên hạng người tinh tế đều thấy rằng Ông ganh tài đố kỵ tôi đủ cách vì thua sút tôi ở quá nhiều lãnh vực (học thức, văn nghệ, tư tưởng, sáng tác) mai này thanh niên Việt nam sẽ nhớ đến tên Phạm Công Thiện, chứ khó có người còn nhớ đến tên Ông! Tôi mong Ông sống dai để nhìn thấy sự việc. (Tôi có “kiêu ngạo” lắm không? Thực ra, hãy còn rất khiêm tốn!)

7) Sau cùng tôi xin kêu gọi một chút “thơ mộng” trong tận đáy hồn ông: xin ông đừng đem chuyện riêng tư của đời một người cô độc để làm trò hề đám đông rẻ tiền, nếu ông đã đủ tư cách và đủ tâm hồn nhạy cảm thì chúng ta hãy nói chuyện nhau trong thế giới phiêu lãng của Tư tưởng. Chỉ khi nào chúng ta chịu đối mặt nhau trong nỗi cô độc của tư tưởng thì tiếng nói của thi nhân mới sống dậy được, chứ không còn những lời ba hoa “đôi co” nhảm nhí nhỏ mọn, hãy để yên cho mây trời muôn thuở vẫn còn lại tiếng vọng của thi nhân.

Đây là lời trả lời đầu tiên, duy nhất, cuối cùng. Còn lại chỉ là im lặng, im lặng, im lặng.

Phải chăng thi ca đã chết? Không còn gì thơ mộng nữa sao?

Kính chào,
Phạm Công Thiện

T.B. Xin Ông đừng nhắc đến tên Thích Nguyên Tánh, Ông hãy để cho tên ấy sống với khoảng trống câm lặng nào đó của đời hắn. Mong chờ sự lễ độ tối thiểu của Ông đối với thế giới riêng tư của người khác, nhất là của một kẻ chưa từng bao giờ chạm đến đời sống riêng tư của Ông. Và câu hỏi cuối cùng tôi muốn hỏi Ông: Tại sao Ông thù hằn tôi đến độ quá mức tưởng tượng như thế, đang khi đó tôi chưa từng bao giờ có ác cảm với Ông? Ông đang thực hiện một kế hoạch cho một thế lực chính trị nào đây? Người tinh ý sẽ hiểu ngay Ông thuộc khối nào, phái nào, nhóm nào, tập đoàn nào!

<SAMSUNG DIGITAL CAMERA>




<SAMSUNG DIGITAL CAMERA>


THẾ UYÊN viết về LÊ UYÊN PHƯƠNG

<SAMSUNG DIGITAL CAMERA>

THẾ UYÊN viết về LÊ UYÊN PHƯƠNG



<SAMSUNG DIGITAL CAMERA>
<SAMSUNG DIGITAL CAMERA>


6 TÁC GIẢ VIẾT VỀ 1 THÀNH PHỐ
<SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA><SAMSUNG DIGITAL CAMERA>


Hội An - "xin úa hoa cho sầu..."

$
0
0


"Đi trong chuyện cũ ngày xưa
Trong lòng thương nhớ cơn mơ lạ kỳ..." 
the obsessed yellow of 
‪#‎hoian ‪#‎faifo brings me back year after year...
each corner 's a gallery ...
‪#‎đichohết1đêmhoangvutrênmặtđất



Những bụi phấn vàng, những bóng nắng vàng, những mảnh tường vàng, những bài hát vàng ... gieo trong không khí một ‪#‎hoian ‪#‎faifo êm đềm trong cái vàng vọt hun đốt của nắng hè...
Vàng lên cõi nhớ, dư vị êm êm võ vàng của một giấc mơ,một sát-na của mùi hương thoảng qua- mang tên là kỷ-niệm-"vàng trước ngõ/ trong ngần áo lụa" có thể chạm vào được, ở đây: Hội An!
"Xin úa hoa cho sầu/ và xin bướm đưa em vào / ngày mưa sẽ gây cho lòng em nhớ..."


































































































Tài liệu trên tuần báo KHỞI HÀNH

$
0
0

PHẠM CÔNG THIỆN (& LÊ UYÊN PHƯƠNG) trên KHỞI HÀNH

Mỗi tuần một khuôn mặt văn chương - series trên tuần báo KHỞI HÀNH

Sơ thảo 15 năm văn xuôi miền Nam (1955-1970) (Cao Huy Khanh viết trên KHỞI HÀNH)

MAI THẢO - tùy bút trên KHỞI HÀNH









































#đichohết1đêmhoangvutrênmặtđất

$
0
0
















‪#‎mìnhphảisốngnhưmùahènămấy‬ 
Nhớ da diết những chuyến đi mình chưa từng bao giờ khởi hành... 
Missing deeply-truly-madly all the journey we never did ...
‪#‎cafeteria‬ ‪#‎cafe‬ ‪#‎bangkok‬ ‪#‎bkk‬ ‪#‎onthemove‬ ‪#‎wanderlust‬ ‪#‎summer‬
















"Mùa hè năm nay anh sẽ đưa em vòng khắp cả hý trường..."
‪#‎mìnhphảisốngnhưmùahènămấy‬
‪#‎theneverendingsummer‬
‪#‎bkk‬ ‪#‎cafeteria‬ ‪#‎onthemove‬ ‪#‎wanderlust‬



























Some addresses of BKK coffee-shops this trip:
Everyday by Karmakamet
1/F Yada Building
Silom Road
Nearest Station: Sala Daeng BTS/ Silom MRT
Roast
SeenSpace Thong Lor Soi 13
Mon to Thu: 10am – 11pm
Fri & Sat: 9am – 12.30am
Sun: 9am – 11pm
Nearest Station: Thonglor
The Jam Factory
41/5 Charoen Nakorn Rd.
Nearest Train: MRT Hua Lamphong
Dean and Deluca
84 Naratiwasrachanakarin Road, Silom
ONE OUNCE FOR ONION
Venue: 9am-8pm. One Ounce for Onion, 19/12 Ekamai Soi 12, Sukhumvit Soi 63.
(UN)FASHION CAFE
Venue: Noon-9pm. (Un)Fashion Cafe, Ekamai Shopping Mall, Ekamai Soi 10.
ROCKET COFFEE BAR
42/12 Sukhumvit 49
VANILLA GARDEN
53 Ekkamai Soi 12 Bangkok, Thailand
CASA LAPIN X26
Sukhumvit Soi 26 Bangkok, Thailand
PORCUPINE CAFÉ
Tue-Sun 11am-10pm
111/1 Soi Ari, Paholyothin Rd. Bangkok, Thailand
HANDS AND HEART
33 Sukhumvit Soi 38
BTS Thong Lo
Peace Oriental Teahouse
70/5 Ekamai (sukhumvit 63) , bts Ekamai.
FabCafe
77/1 Ari soi 1, bts Ari
Tokyobike Thailand x Laliart Café
20 Ari soi 2, bts Ari


































































"Saigon - Chợ Lớn mưa như chớp/ nát cả trùng dương một khắc thôi" (Cao Đông Khánh)

$
0
0

Một dân tộc đã mất ký ức, một giống nòi đã mất tiếng nói...Dejà vu?




Đẹp Như Cách Mạng của Joseph Huỳnh Văn :

"Em đẹp như cách mạng


vành khăn tang thắm đỏ giữa chiều vàng


Em đẹp như nát tan


Thuở bình minh


rạng rỡ xa nhau


Ôi vừng dương Vừng sầu


Em đẹp như hoàng hôn đổ máu


thầm dấu tên chúng ta


Như một chuyến đi xa


Người về dưới chân sao lặng lẽ / đẹp nghẹn ngào


Tên của người trong trắng xiết bao


Ôi vì sao ở cuối trời ly cách


Em đắm đuối


như chuỗi đời không gặp gỡ / Đẹp bơ vơ


Đâu giấc mơ vội vàng tảng sáng


đẹp muộn màng


Ôi! những người kiêu hãnh chẳng ngày mai


đẹp tàn phai


… vì lòng hoài cách mạng"







Cho thành phố mất tên...




Một trong những bài thơ viết về #Saigon thích nhất:
Sàigòn Chợ Lớn mưa như chớp
nát cả trùng dương một khắc thôi
chim én bay ngang về Xóm Chiếu
nước ròng ngọt át giọng hàng rong
hỡi ơi con bạn hàng xuôi ngược
trái cây quốc cấm dấu trong lòng
hỏi thăm cho biết đường ra biển
nước lớn khi nào tới cửa sông
Sàigòn Khánh Hội gió trai lơ
khi ấy còn tơ gái núi về
đào kép cải lương say tứ chiến
Ngã Tư Quốc Tế đứng xàng xê
gánh nước nặng hơn vác thánh giá
má đỏ hình như rượu mới nồng
em nhớ giăng mùng khi xế bóng
kéo đời đưa võng suốt hôn mê
Chương Dương sánh ánh trăng vàng võ
rọi thấu vào trong dạ não nùng
con cá lội qua Cầu Ông Lãnh
như chiếc ghe bầu khẩm héo hon
nước chia mấy ngả sao không thấy
mấy ngả phong trào thuở thiếu niên
Sài Gòn Gia Định em vô trước
qua ngõ Cầu Bông mới tủi thân
chiếc xe đò cũ hơn chùa miễu
chở hết vàng son tới ủ ê
đêm đêm rực tiếng côn trùng dậy
trống trải hồn ta đến thấu trời
xa lộ phía bên gà gáy tối
về lối Hàng Sanh có tiếng cười
anh lén ghé qua nhà kẽo kẹt
thấy tiếng cười trong một giâ'c mê
Sài Gòn Phú Nhuận nhớ không nổi
có ngã nào qua Khám Chí Hoà
hỏi thăm quên mất tên thằng bạn
như lá trên rừng đang chuyển mưa
trận mây đồng phục nặng như thép
ửng chút đời xưa rạng chỗ ngồi
những người cách mặt gần như nhớ
những mặt trời xây xẩm trở về
Sài Gòn Chợ Lớn nhớ không tới
con gái Bàn Cờ qua Thủ Thiêm
chiếc phà chở hết tên thành phố
mỗi ngã tư trời đất mỗi nơi
nhớ thương cũng mỏi cánh cao vút
đáp xuống Cầu Ba Cẳng xả hơi
mọc thêm một cánh chân thời thế
con thú về Lục Tỉnh mất tiêu
nửa đêm em đổ mồ hôi trộm
như nụ cười che chở thịt da
Sài Gòn bước cho rõ tiếng guốc
nắng vàng vàng trên đá nứt mê tơi
như một mùa hoa nở cấp tốc
đưa đường tại hạ ghé qua chơi
hỏi thăm con bạn thời sinh tử
đã lánh mình qua miệt Chánh Hưng
cầu Chữ Y yêu kiều ba ngã
có ngã lui về đế dưỡng quân
nồi lẩu lươn chua đêm nuốt khói
ta với mình nhứt dạ đế vương

Sài Gòn Chợ Lớn dưới mặt đất
ngõ hẽm đời sau rối địa hình
tiếng nói cất lên, ngoài tiếng nói
của đàn ông nói chuyện với rồng
tiếng hát cất lên, ngoài tiếng hát
để về khuya phượng múa chung quanh



Từ một chỗ ngồi quen, trên lũng nắng vàng / xen lẫn những thảm mưa hồng thoáng chốc-đột ngột lướt thướt qua thành 

phố của "cái"được gọi #Saigon-thứ-bảy, đọc lại những vần Sáu Tám của người Thơ Nữ họ Trần, để ôm gọn vào lòng 

những ảnh tượng day dứt và những âm động không tắt từ một hồn sầu "thiên-đường-lạnh" và một lòng úa "nhánh-sầu-

câm". Lạnh và câm như con số Không. Số Không vô nghĩa (hoặc là tất cả ý nghĩa trong ý nghĩa ... "khoanh tròn")

Tôi thơ mãi cho thơ tôi góp 


thành số không ở cõi chon von 


khi xếp cánh nghỉ dài vô hạn 


tôi yêu tôi con số khoanh tròn...


Ray rứt và ẩn nhẫn, lặng lẽ và vượt thoát, hồn thơ uá sầu (như chính cuộc đời riêng) của Trần (thị) Tuệ Mai đã là một 


phần cùng tôi trong những ngày #Saigon cuối tuần, những ngày nắng-mưa-bụi-khói khóc hư vô...

"Như thân chịu đựng nhiều bề 


để xin nhân-ái đừng lìa nhân-gian 


như tay kim chỉ nhẹ nhàng 


thêu đường tơ đẹp áo choàng cho nhau. 


Một đời...như cánh chiêm bao 


bay qua vòng mộng - bay vào hư vô"





























Tạp chí VĂN NGHỆ (Lý Hoàng Phong) - Vì sao rơi trong đêm ... (?)

$
0
0
Déjà vu! Với một chút mốc bụi dĩ vãng cuốn lên, theo những bước chân đi tìm và kể lại những câu chuyện của một dân tộc , một thể chế, một ngôn ngữ, một nền văn học (tưởng chừng) đã mất & ... mơ tưởng đến một ngày rồi sẽ phục dựng lại lộng lẫy văn chương miền Nam Việt Nam - đã bị cố tình hư-vô-hoá. Những tiếng nói (tưởng như) im lìm và cố tình bị bôi xóa ấy có khác gì với sự câm lặng và nỗi niềm đau đáu tận đáy hồn của những người Hời?!?
Một thực thể không thể tách rời của không khí “nắng thi ca mưa tiểu thuyết” chói chang của miền Nam đó chính là sinh khí của những tờ tạp chí văn chương, trước đó và có lẽ cả về sau này, sẽ không bao giờ còn một không khí sôi nổi, rộn ràng đến như thế, có thể nó đến từ những khát khao của những người mới từ di cư một triệu, họ đến và hòa làm một với bát ngát “nắng vàng xoài, mưa xanh vú sữa”đã tạo ra một vòm trời nhân văn mới, một  sự hứng khởi của làm lại cuộc đời mới ở một nơi mới trên một vùng đất tự do.
2 năm sau một “Lên đường lớn” với những tiền phong: Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp, Tô Thùy Yên, Qúach Thoại, Nguyễn Sĩ Tế, Doãn Quốc Sỹ, Cung Trầm Tưởng, Hoàng Anh Tuấn, Nguyên Sa… Và cũng từ đó, dẫn đến một họp mặt chung trên tờ SÁNG TẠO – MAI THẢO chủ trương – với những thao thức mới của con người thời “hiện sinh”… và SÁNG TẠO – là diễn đàn của hôm nay, hôm nay chứ không phải là ngày mai, hay là sắp tới – vì đó, hôm nay – mới chính là “điểm đầu” của SÁNG TẠO.
SÁNG TẠO xuất phát & mở ra chân trời khác của cái gọi là nghệ-thuật-mới, với tuyên ngôn chuyển dịch thủ - đô – văn -hóa từ Hanoi chuyển vào Saigon của MAI THẢO.

Những tác giả cộng tác và xuất hiện trong SÁNG TẠO, sau này đã làm một lên đường khác để đứng ra chủ trương hay coi sóc các tạp chí văn chương đình đám không kém:
Ra mắt chỉ vỏn vẹn có 6 số, ngay sau thời gian tạp chí SÁNG TẠO (bộ cũ) đình bản nhưng THẾ KỶ HAI MƯƠI cũng kịp khẳng định vị thế của mình trong làng báo văn chương – nghệ thuật của miền Nam, và trong một chừng mực nào đó TK20 tiếp tục đi theo con đường khai mở “còn sáng tạo ta hãy còn sáng tạo”. Với ekip gần như là đầy đủ từ SÁNG TẠO (trừ Mai Thảo), những thành viên nòng cốt từ Duy Thanh, Ngọc Dũng, Thanh Tâm Tuyền…cho đến Nguyễn Văn Trung từ Bỉ về nước, Nguyên Sa & Cung Trầm Tưởng từ Pháp hồi hương. Ðặc biệt với sự xuất hiện (duy nhất) của TÔ THÙY YÊN với 5 trang thơ choáng ngợp trong số ra mắt, phần nào cũng làm nên tên tuổi một thi sĩ Tô Thùy Yên sau này.
Tiếp theo có thể nhắc đến HIỆN ĐẠI xuất hiện khi SÁNG TẠO (bộ cũ)  tạm dừng, tuy chỉ xuất hiện vỏn vẹn 9 số nhưng cũng kịp để lại cho dấu ấn khó phai đến từ 9 số là 9 chủ đề sắc sảo, trong đó có những xuất sắc đã vượt cả không thời gian điển hình như những bài thơ NGUYÊN SA, những bài “Yêu em, Hà Nội” của HOÀNG ANH TUẤN, những bài “nghe giá băng mòn hết tuổi thơ” của TRẦN THY NHÃ CA, những bài thơ điên của THI SĨ NGUYỄN ĐỨC SƠN, bài HOANG VU - thi khúc đầu tiên của NGUYỄN XUÂN HOÀNG, những bài lục bát tìm CÚC HOA của một PHẠM CÔNG ngày nay – Phạm Công VIÊN LINH.
Tiếp đến, phải kể, Tuần báo Nghệ Thuật xuất hiện rất tưng bừng (theo nghĩa đen và cả nghĩa bóng) trong thập niên 60, đó là tờ tạp chí văn học nghệ thuật duy nhất của miền Nam ra hàng tuần, bìa in offset nhiều màu. Cho tới lúc đó miền Nam chỉ có các bán nguyệt san, hai tuần mới ra một lần: Bách Khoa, Văn, Tân Văn…
NGHỆ THUẬT nổi bật nhờ những series giá trị của tuần báo này, như loạt bài MƯỜI TÁC GIẢ VIẾT VỀ MƯỜI TÁC GIẢ / THẢO LUẬN VỀ THỰC TRẠNG VĂN NGHỆ VIỆT NAM / NGƯỜI ĐỌC VIẾT VỀ CÁC NHÂN VẬT TIỂU THUYẾT…
Nổi bật khác của tuần báo này cũng đến ngay từ những trang đầu - GHI NHẬN CỦA MAI THẢO, hàng tuần, với phong cách khó lẫn của ông tường thuật lại các hoạt động văn nghệ trong tuần của thủ đô Saigon, bằng những nhịp chân theo bước các mặc khách Saigon ấy mà chúng ta được dịp thở lại một lần nữa, nhìn lại một lần nữa…cái không khí “tưng bừng phố xá” mà cũng rất đằm thắm của Saigon…
Và trong suốt 57 số báo, tuyên ngôn chỉ có một
“… những người nhận trách nhiệm xây dựng và hình thành diễn đàn này đều cùng một dự tưởng, chung một nhận thức: Nghệ Thuật phải là một nơi chốn họp mặt thân ái và đông vui chưa từng thấy giữa tất cả những tác giả, nhà văn nhà thơ hiện đang làm nên linh hồn, tiếng nói, đời sống và sức mạnh của văn học nghệ thuật miền Nam. Họp mặt trước đã. Bởi chúng tôi nghĩ rằng đã đến lúc những khả năng sáng tạo chói lọi nhất, những cá nhân ý thức tiến bộ nhất, những đại diện cho từng thế hệ tiêu biểu nhất của đất nước này phải liên kết lại, trước đòi hỏi của xã hội và lịch sử ta về vai trò văn học nghệ thuật chúng ta.” 

tuần báo NGHỆ THUẬT - XUÂN BÍNH NGỌ 1966 - Mùa xuân, tình yêu & đất nước trong THƠ VĂN

Tuần báo NGHỆ THUẬT (1965-1966) - một RỰC RỠ khác của VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM...

{Tuần báo NGHỆ THUẬT 1966-1967} - Loạt 10 bài 10 tác giả viết về 10 tác giả

9 số cuối tạp chí NGHỆ THUẬT


Tuần báo NGHỆ THUẬT hay bất cư những tạp chí nào đã nêu ra ở trên – nếu đứng riêng ra, cũng có thể là một biểu trưng cho 20 năm văn học miền Nam với đầy đủ những vỗ về đằm thắm cũ, nồng nhiệt khai phóng mới, rộng tay hào sảng và tưng bừng đón nhận những trào lưu …Nơi đó, văn học đã gắn liền với vận mạng dân tộc, hay cũng có thể nói…những gương mặt ấy, những tiếng nói ấy…cũng chính là một mảnh hồn của dân tộc – một dân tộc thơ, một dân tộc yêu cái đẹp, một dân tộc coi trọng chữ nghĩa…nhưng… gánh chịu nhiều hệ lụy … (cũng từ/ bằng chữ nghĩa)
Những tạp chí văn chương như thế xuất hiện tựa những cơn gió mát xoa dịu bỏng rát trên gượng mặt nát tan của chiến tranh miền Nam, đã nuôi nấng biết bao tâm hồn dân Nam và đến bây giờ, cái “thác là thể phách , còn là tinh anh” hiện hữu lại nơi dân tộc này, để có cái cho chúng ta tìm về , tìm về để nâng niu, trân quý, chắc mót để kiếm chút (thánh) thiện đến từ chữ nghĩa, hay như trong một lần tôi đã nói, đó là kiếm tìm một quê hương khác trong tâm tưởng, một quê hương mà sự mất mát đã sắp!
Trong số các tạp chí đình đám ấy, có một tờ quy tụ cũng chừng ấy các tác giả nổi bật và thời gian góp mặt cũng nổi trội hơn một vài tạp chí kể trên, nhưng hầu như trong các bài tiểu luận hay nhìn nhận lại nền văn học tự do miền Nam, ít ai đề cập đến tạp chí này. Thời may, cũng là một điều ngẫu nhiên thú vị, khi tôi đang sắp sửa số hóa tạp chí này, thì bác Viên Linh đã viết 1 bài ngắn cũng là một góc nhìn giải đáp cho việc vì sao 24 số báo (trong đó có 1 số gộp 9+10) đã bị chìm vào lãng quên…

huyvespa@gmail.com

http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=214451&zoneid=16
Trong các tạp chí văn chương ở miền Nam trước 1975, có một tờ hiện diện khá lâu, qui tụ một số tên tuổi, nhưng hầu như không ai nhắc đến, mặc dù có lúc nó được bày bán trên các sạp báo, trong các nhà sách cùng lúc với những Sáng Tạo, Hiện Ðại, Thế Kỷ Hai Mươi, là ba tờ tạp chí ăn khách hồi đó.

Một số bìa báo tạp chí Văn Nghệ những năm 1961, 62, ngay cả tên tờ báo cũng không được dùng một kiểu chữ đồng nhất. (Hình: Viên Linh cung cấp)
Các tác giả cộng tác với ba tờ tạp chí trên đồng thời cộng tác với nó, mà ít ai biết đến nó, đó là tờ Văn Nghệ của Lý Hoàng Phong. Sự hiện diện của nó, cũng như đời sống của nhà văn chủ nhiệm, tên khai sinh là Ðoàn Tường, anh ruột của thi sĩ mệnh yểu Quách Thoại, rất là chật vật, mặc dù ông được các đồng nghiệp có cảm tình. Cho dù thế nào, nhắc đến hai mươi năm văn học miền Nam mà không nhắc đến tờ Văn Nghệ là một thiếu sót, tờ báo ít nhất đã sống lâu ba bốn lần hơn tờ Hiện Ðại của Nguyên Sa (chỉ có 9 số), tờ Thế Kỷ Hai Mươi của Nguyễn Khắc Hoạch (chỉ có 6 số), như người viết bài này được biết, tờ Văn Nghệ sống ít nhất 22 số, khoảng hơn 2 năm, trong khi hai tờ trên tờ được 9 tháng, tờ được có 6 tháng, sống không đầy một tuổi. Những tờ kia được nhắc tới luôn, tờ sau này bị quên lãng, hầu như hoàn toàn.

Văn Nghệ có cùng khuôn khổ với Sáng Tạo, Hiện Ðại, nhưng ra sau hai tờ trên, số đầu của Văn Nghệ ra vào tháng 1 tháng 2, 1961, ra sau cả Thế Kỷ Hai Mươi; tờ ra sớm nhất là Sáng Tạo tháng 10, 1956 còn hai tờ kia đều ra trong năm 1960: Hiện Ðại tháng 4, Thế Kỷ Hai Mươi tháng 7, cùng tháng 7 tờ Sáng Tạo bộ mới tục bản số 1, sau hơn một năm đóng cửa. Ra chậm sau cả 4 tờ, đương nhiên là Văn Nghệ ở thế yếu, nhất là ông chủ nhiệm không phải là một nhà văn có tên tuổi.

Tuy sinh sau đẻ muộn, Văn Nghệ vẫn mời được các nhà văn tương đối có tiếng cộng tác, như Lê Huy Oanh, Trần Lê Nguyễn, Doãn Quốc Sỹ, Kiêm Minh, riêng các nhà văn trẻ có đủ mặt, như ở trong cả ba tờ trên: Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Ðức Sơn (Sao Trên Rừng), Nhã Ca, Ðỗ Quí Toàn, Trần Dạ Từ, Nguyễn Nghiệp Nhượng,và người viết bài này... Những bài hay trên Văn Nghệ không thiếu, nhiều phần là tỷ lệ tân kỳ còn lớn hơn cả Hiện Ðại, với sự có mặt của Nguyễn Ðức Sơn, Nguyễn Nghiệp Nhượng, và hai họa sĩ Ngọc Dũng, Nguyễn Trung.

Nhà văn Lê Huy Oanh rất sung sức, sáng láng với loạt nghiên cứu về thơ Pháp, nhất là loạt bài “Lược khảo về phong trào thi ca siêu thực Pháp.” Trong ba bốn số báo liền ông đã giới thiệu và dịch ra thơ Việt những thi sĩ tiên phong của khuynh hướng này và những bài thơ mang tên chủ soái André Breton, Louis Aragon, Paul Eluard,... hay viết rất kỹ, kèm với thơ và thơ dịch của Jacques Prevert, là thi sĩ đang được hâm mộ ở Việt Nam lúc ấy. Truyện dài của ông, Màu Hoa Dã Thú cũng đăng trên Văn Nghệ. Hai truyện dài-tân truyện hay truyện vừa thì đúng hơn, sau này nổi tiếng, đều đăng lần đầu trên Văn Nghệ trước hết: Gia Tài Của Người Mẹ của Dương Nghiễm Mậu và Thị Trấn Miền Ðông của Viên Linh.

Hãy xem những bài thơ trên Văn Nghệ, trích từ số 6 trở đi, vì chúng tôi chỉ có từ số 6 và vài số sau đó: điều nổi bật là thơ Ngọc Dũng, thơ Vương Tân luôn luôn được đăng ở những trang đầu của mỗi số báo, và đăng rất nhiều. Ở số 6 thơ Ngọc Dũng đăng ở trang 11 (nhan đề Tiếng Hát Của Mặt Trời), thơ Vương Tân đăng ở trang 12 (nhan đề 1954-1961), và dài suốt 3 trang báo:
Hãy gỡ đều cho sợi tóc dầy
Cùng một lần với tiếng hát nhìn thấp xuống
Với dòng sông nước cuốn chảy mòn
Nước chảy cuốn mòn xô tới chân em
Bài thơ khoảng 20 câu, không có vần. Và thơ Vương Tân đăng kế tiếp:

“Lịch sử bốn nghìn / Tôi cầm trên tay / Trang sách lật qua / Không lời huyền bí / Chúng nó cầm dao / Ðâm vào trái tim / Và nhìn máu chảy / Sự sống dân lên / Trong nghìn huyết quản / Trên vạn cánh tay” Cũng không có vần, dù là tứ tự (tức là thơ 4 chữ). [Thơ 5 chữ gọi là ngũ ngôn, thơ bảy chữ gọi là thất ngôn, nhưng thơ 4 chữ lại gọi là tứ tự. Khi tên gọi khác nhau như thế, các cụ thời xưa hẳn có hàm ý nghĩa gì đó, hai thể thơ chỉ chênh lệch mỗi dòng một tiếng, mà thơ 4 tiếng gọi là tứ tự, thơ 5 tiếng gọi là ngũ ngôn, vậy cái khác nhau là ở ý nghĩa của chữ tự và chữ ngôn. Ngôn là lời, tự là chữ. Lời là lời nói, chữ là chữ viết, hai thứ khác nhau xa lắm. Ðã là chữ viết thì phải hàm xúc sâu xa, không thể là nôm na phổi bò được.]

Ở Văn Nghệ số Xuân 1961, thơ Ngọc Dũng cũng in ở đầu số báo như số trên (ba bài ở trang 10), thơ Vương Tân kế tiếp ở trang 16, thơ ông này chỉ chấm hết ở trang 29, nghĩa là dài tới 14 trang thơ của ông thôi, trên đầu lại có tranh minh họa riêng của Ngọc Dũng. Có vẻ hai nhà thơ này là thi sĩ nòng cốt của tờ báo, tất phải hay. Ta hãy đọc nguyên một bài của Ngọc Dũng: Bài “Vết Chém:

Như đợt thủy triều rớt xuống / Bỏ lại cồn cát không / Như nước biển đầy dâng vĩnh viễn / Mà cánh tay vòng ôm suốt thân.” (trang 10). Và thơ của thi sĩ nòng cốt thứ hai, dài tới 14 trang trong số Xuân chỉ dày 103 trang như đã nói: “Giáo Ðầu: lịch sử những hoang mang / với mối sầu chia cắt / loài chim di trốn rét / vỗ đôi cánh mùa xuân / thành phố ngọn đèn vàng / và mắt người ngái ngủ / hàng rào dây kẽm gai / với con tầu phạm xá” 

Bài thơ chỉ có thế, không lên hoa chữ nào và không dấu chấm dấu phảy. Vài chục năm sau thơ hai vị đó không thấy ai truyền tụng, và người ta biết đến Ngọc Dũng nhờ ông là họa sĩ, chứ không phải vì ông là nhà thơ. Ðiều nòng cốt để tìm hiểu: họa sĩ Ngọc Dũng chính là thư ký tòa soạn của tờ Văn Nghệ.

Nghề làm tạp chí văn học khác với nghề làm báo, nhất là nhật báo hay tuần báo, hoàn toàn khác. Báo sống bằng bài vở, bằng bộ mặt của nó khác với báo sống bằng tin tức, nhanh và chính xác và nóng hổi. Ðã sống bằng bài vở thì bài vở phải hay, phải có giá trị, và tạp chí 15 ngày hay một tháng mới ra một lần, thì bài vở phải được (hay bị) đọc lại là thường. Tờ nhật báo sau một ngày thì thường bị vất đi, hay được dùng làm giấy gói đồ. Ðời sống của nó là 24 tiếng đồng hồ, tới giờ thứ 25, có tờ khác thay thế. Tuần báo sống 7 ngày, báo ra Thứ Năm tuần này thì Thứ Năm tuần sau nó bị tờ khác thay thế. Nhưng tạp chí hàng tháng, tất cả 4 tờ nói trên đều ra hàng tháng, tờ tạp chí hàng tháng không những suốt tháng còn mới, người ta còn để trên bàn, mà khi nó lên tủ sách, người ta còn nắm gáy nó kéo xuống, đọc lại. Một bài thơ chỉ 4 câu thôi đăng trên một tạp chí, người ta đọc nó cả tháng, cả năm, mãi mãi, cho nên thơ hay là thơ phải chịu sự đọc lại, truyện hay là truyện phải chịu sự đọc lại, báo đã hay còn phải đẹp, vì người ta khó tính, không ai thấy cái gì xấu mà muốn nhìn lại. Một tờ tạp chí văn chương phải là một giai phẩm: giai là đẹp, phẩm là có tính chất gì đó có ích hay hữu dụng hay mỹ thuật. Vì thế, người ta thường nghe nói, phải hay phải đẹp, phải bền.

Người trình bày tờ tạp chí Văn Nghệ đã không nắm vững tính cách một tạp chí: bìa một tờ báo không phải bìa một cuốn sách, vậy mà bìa báo Văn Nghệ hầu hết số này cái tên in một kiểu chữ, số sau cái tên Văn Nghệ lại dùng kiểu chữ khác. Cứ xem cái ảnh chụp người đọc cũng sẽ thấy ngay. Không phải một lần mà nhiều lần cái bìa báo Văn Nghệ chỉ in cái tranh vẽ của ông họa sĩ thư ký tòa soạn, không có chữ gì - tên bài hay tên các tác giả - khác nữa. Nội dung ở trong là thừa, chỉ cần cái tranh vẽ ngoài bìa thôi, chắc thế. Nhưng dĩ nhiên đã là thư ký tòa soạn, người ta có quyền đó, vấn đề là ông chủ nhiệm hay ông thường trực nào đó có trách nhiệm chọn bài vở phải biết trách nhiệm của mình quan trọng thế nào trong việc chọn lọc và sắp xếp bài vở. Tờ Văn Nghệ thiếu hẳn cái khâu này. Ðôi điều viết ở trên là những điều tôi nghe biết từ khi tờ tạp chí còn sống, ngày nay nhắc lại để đưa ra một giải thích vì sao tờ Văn Nghệ không gây được tiếng vang của một tạp chí văn chương. Có các tác giả tên tuổi là một chuyện, có làm cho tờ báo sống không là một chuyện khác. Cần mẫn chịu đựng là một chuyện, có tồn tại không cũng là chuyện khác. Hơn thế nữa, làm báo văn chương cần các văn hữu và các cây bút trẻ cộng tác, gửi bài về, cái khó khăn là trong 10 bài gửi tới, may ra được 3 bài có thể đăng, làm sao phải từ chối đăng mà người gửi không chán, không giận, vẫn tiếp tục gửi. Chỉ một câu trả lời vô duyên trong Hộp Thư Tòa Soạn là không những mất đi một độc giả, còn làm các văn hữu độc giả khác e ngại gửi bài cộng tác. Hộp thư của tạp chí Văn Nghệ đây:

“Song Linh: Có nhận được bài gửi cho số Xuân, nhưng 'không tiện đăng.'” (Văn Nghệ số xuân, trang 105). [Trong khi đó tạp chí Hiện Diện của Nguyên Sa đăng liên tiếp 4 hay 5 truyện ngắn của Song Linh, nhà văn, đại úy Thủy Quân Lục Chiến].

“Thái Tú Hạp: Hình như chúng tôi đã có dịp đọc nhiều lá thư như ý bạn: ‘bỏ rơi bài vở của bạn đọc,’ thật không có chuyện đó... Chúng tôi muốn tìm thấy ‘những tài năng thực,’ không mị độc giả vì lợi. Xin bạn đọc thông cảm.” [Trả lời như thế có khác gì nói rằng bài không đăng được vì ông hay bà ‘không có tài năng thực?’ Không những chỉ trả lời nhà thơ Thái Tú Hạp không đăng được, câu đó là trả lời cho tất cả những người mà tờ Văn Nghệ viết là “chúng tôi đã có dịp đọc nhiều lá thư (giống) như ý lá thư của ông!]

“Sương Biên Thùy: Hy vọng bạn còn nhiều cố gắng.”

“Trường Dzạ: Ðã nhận được bài. ‘Hãy tìm một sắc thái cho riêng mình.’”

Bốn đoạn trả lời trên cũng tìm thấy in trong Hộp Thư Tòa Soạn Văn Nghệ. Ðó là thái độ của tờ Văn Nghệ đối với các văn hữu muốn cộng tác khác. Ở số 14 còn những lời khuyên các nhà văn trẻ như “cần tránh ảnh hưởng,” [khuyên Nguyễn Dzạ Vũ], “mong sự cố gắng,” [khuyên Ðoàn Minh Hải], “...Hộp thư của tòa soạn Văn Nghệ đọc lên nghe như từ hộp thư của một tờ báo học sinh. Nó cho thấy người viết những dòng trả lời trên đã không biết độc giả của ông ta, tức là của tờ Văn Nghệ, là những ai. Anh làm tạp chí văn chương thì độc giả của anh là độc giả văn chương; trường hợp này tờ Văn Nghệ không cho thấy sự hiểu biết của tòa soạn về người đọc họ, hay tệ hơn nữa, đang làm ngự sử văn đàn với độc giả của mình, cũng là những nhà văn nhà thơ đang muốn đi vào thế giới cầm bút. Những điều trình bày trên hy vọng sẽ là những câu trả lời nêu ở đầu bài, là vì sao một tờ báo hiện diện khoảng 2 năm ra được 22 số mà bị rơi vào lãng quên như tờ Văn Nghệ



0001



0004000500010002000100020001000200010002000100020001000200010002000100020001000200010002000100020001000200010002000100020001000200010002000100020001000200010002000100020001000200010002

BỘ MỚI ra được 2 số





Hit Counter
Hit Counter

Saigon tháng 9 - "này tháng chín, mùa thu hồng, lối biếc/ mưa ở đâu ? ướt trí nhớ ai ?"

$
0
0



"...phương trời mình đi xa thêm xa/ nghe vàng mùa Thu sau lưng ta..."

#saigon nắng vàng & mưa xanh

#somewhereinsaigon













“Đây, những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn,
Muôn Ma Hời sờ soạng dắt nhau đi.
Những rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độn,
Lừng hương đưa, rộn rã tiếng từ quy”

Khộng biết bắt đầu từ khi nào mà tôi có một sự quan tâm & hứng thú tìm hiểu về văn hóa và con người Chăm/ Chàm/ Cham/ Đàng thổ/ Chà/ Hời…Có thể là bắt đầu từ những ngày hè tuổi nhỏ, khi đến vùng Phan Rí Cửa, chứng kiến những trận đánh nhau của bọn trẻ người Kinh và bọn trẻ người Chàm khi bên này đưa đàn bò chăn dắt của mình lỡ bước vào “địa phận” của bên kia, khi nghe những lời rù rì của những người lớn “cẩn thận kẻo bị thư bởi bùa Chàm”…
Về sau, tôi mới cảm thấy mơ hồ đằng sau những đôi mắt buồn hay nhìn xa vắng của những cô gái Chàm nửa chất chứa ẩn nhẫn nửa đau đáu muộn phiền là một hoang liêu bí ẩn gì đó không biết cách chi giải đáp , những u huyền trầm mặc bảng làng đâu đây sau những tháp nắng trên đồi, sự ly loạn và mất mát của một thời hoàng kim cùa cả một dân tộc…
Dân tộc Chàm – dân tộc duy nhất hòa giải và hóa giải 2 tôn giáo từng đối kháng mãnh liệt là Ấn giáo & Islam để tạo thành đạo Bà-ni có một không hai, dân tộc từng gắn bó và rồi mang sầu hận với dân tộc Việt để rồi ai oán Hận Đồ Bàn khắc khoải bao đời nay.
Một thể chế, một vàng son, những phế tích, những giá trị…đã bị mất đi, số phận của dân tộc Chàm, trong một chừng mực nào đó, cũng đồng cảnh ngộ với miền Nam nước này, cũng đã bị xóa sổ và bị hư-vô-hóa. Lẽ đó, mối giao cảm của của tôi với những gì liên quan đến dân tộc này, cũng một phần vun bồi từ đây?!?











Để lại cho em...(những album tác giả)

$
0
0



HOÀNG TRỌNG THỤY (người tình của NGỌC LAN ...trong video-clip)

BUỒN ƠI XIN HÃY QUÊN – LƯU BÍCH
CHO RƠI NHỮNG BỤI TÌNH – THANH HÀ
ĐOẢN KHÚC CUỐI CHO EM – DON HỒ
EM VỀ NÀO CÓ HAY – NGỌC LAN
LỜI NGƯỜI MỘNG DU – THANH HÀ
MỘT LẦN TIỄN CHÂN NGƯỜI (NNQ – HTT viết LV) – NGUYÊN KHANG
NGÀY TRÔNG ANH – NHƯ MAI
NGỦ SUỐT MÙA ĐÔNG –HOÀNG NAM
NGƯỜI NHƯ CỐ QUÊN – TUẤN NGỌC
NHỮNG NGÀY TA BIẾT YÊU EM – TUẤN NGỌC
QUÊN CÂU GIÃ TỪ - tác giả song ca QUỲNH HƯƠNG
TÔI VỚI NGƯỜI ĐÃ QUÊN – NGỌC LAN
VÌ TÌNH CÒN ĐÂY (NNQ – HTT viết LV) – NGUYÊN KHANG
VỚI MẢNH TÌNH CÒN LẠI – LÂM THÚY VÂN

https://www.mediafire.com/?7gqaillnroadmzo




Ngoài những bài thường được nhắc đến trong thời hoàng kim của ban nhạc Phượng Hoàng (mà hầu hết đều chỉ do ELVIS PHƯƠNG hát như ĐÊM DÀI/ TÌNH NHƯ SƯƠNG KHÓI/ HƯƠNG THỪA/ CÒN NHÌN NHAU HÔM NAY / TÌNH NHÂN LOẠI – THÚ THIÊN NHIÊN / XIN MỘT BÓNG MÁT BÊN ĐƯỜNG) thì người nhạc sĩ ít được nhắc đến trong band này – so với người bạn của mình là LÊ HỰU HÀ – còn có nhiều bài sầu-tình-ca/ tình-ca-sầu … khác cũng rất hay
Xin được chọn ra ở đây, những bài hát ngoài–Phượng-Hoàng của ông, trong đó có bài hầu như chỉ có 1 ca sĩ trình bày như ĐÊM BUỒN NHƯ THÁNH CA – DẠ NHẬT YẾN / ĐỂ CÒN MÃI TUYỆT VỜI – LÂM NHẬT TIẾN…
Và theo cuốn nhạc chép tay này (được cho là bản thảo do chính nhạc sĩ viết, định ra mắt năm 1980) thì còn 1 số bài nữa mình chưa tìm ra / nhớ ra ca sĩ nào hát …
• ANH VẪN BIẾT – PHẠM KHẢI TUẤN + CHÂU TUẤN + MINH THÔNG
• BÂNG KHUÂNG CHIỀU NỘI TRÚ (thơ HOÀI MỸ) – VŨ KHANH
• BƯỚC TÌNH HỒNG (viết cho phim TUỔI DẠI) – THANH MAI
• CÒN YÊU EM MÃI – LÊ TÂM
• DẠ KHÚC – KHÁNH HÀ
• ĐỂ CÒN MÃI TUYỆT VỜI – LÂM NHẬT TIẾN
• ĐÊM BUỒN NHƯ THÁNH CA – DẠ NHẬT YẾN
• LỜI NÀO MUỐN NÓI –HOÀNG NAM
• MỘT GIẤC MƠ (GIẤC MƠ QUA) – NGỌC LAN
• NẮNG HẠ (ĐỪNG NGỦ MƠ) - TRẦN THÁI HÒA
• NHƯ GIỌT CAFÉ – GIA HUY
• THƯƠNG NHAU NGÀY MƯA – KHÁNH HÀ
• TÌNH CA HỒNG (viết cho phim TUỔI DẠI) – KIỀU NGA
• TÌNH CA NGƯỜI SƠN CƯỚC – VŨ KHANH
• TÌNH CÒN LẤT PHẤT MƯA BAY (viết chung LÊ HỰU HÀ)– VŨ KHANH
• VỀ VỚI YÊU THƯƠNG – LÊ TÂM
http://www.mediafire.com/download/slhl4a13klvgpde/NGUYEN+TRUNG+CANG.rar


















BIỂN SÓNG TÌNH EM – LÂM NHẬT TIẾN
• BIẾT KHÔNG – LOAN CHÂU
• CÂU CHUYỆN GIẬN HỜN – TRISH
• CÂU KINH TÌNH YÊU – DON HỒ
• CƠN MƯA BẤT CHỢT – THỦY TIÊN & LƯƠNG TÙNG QUANG
• CON TIM MÙ LÒA – DON HỒ
• CHỜ TIẾNG YÊU ĐẦU – THANH TRÚC
• ĐÊM MƯA BUỒN – DẠ NHẬT YẾN
• ĐỊNH NGHĨA TÌNH YÊU – QUỐC KHANH & ĐOÀN PHI
• ĐỪNG HỎI VÌ SAO – PHILLIP HUY
• GIÒNG SÔNG HUYỀN THOẠI – LÂM THÚY VÂN
• LET’S PARTY – SHAYLA
• LỜI CUỐI CHO NHAU – GIA HUY
• MÀU XANH TÌNH YÊU – NHƯ LOAN
• MEN SAY TÌNH ÁI – QUỲNH VI & MAI TIẾN DŨNG
• MỘNG PHÙ DU – NGỌC LAN
• MUỘN MÀN G– NGUYỄN HỒNG NHUNG
• MUÀ HÈ ĐẸP NHẤT – THANH TRÚC feat SỸ ĐAN
• MỐI TÌNH ĐẦU – SHAYLA feat SỸ ĐAN
• NẾU CÓ EM – LÊ TÂM
• THIÊN THẦN TỘI LỖI – ĐOÀN PHI
• TÌNH YÊU & TRÁI ĐẮNG – ĐOÀN PHI
• TÓC THỀ - LÂM NHẬT TIẾN
• VẪN BIẾT CÓ MỘT NGÀY – THANH TRÚC
• VÙNG BIỂN VẮNG – NGUYÊN KHANG
• VÙNG BIỂN VẮNG – TRISH
• VỚI EM TRONG ĐÊM – LÂM NHẬT TIẾN + LÊ TÂM + SỸ ĐAN
http://www.mediafire.com/download/tkdgnc7cgyoc1wt/SY+DAN.rar







SỸ ĐAN sings SỸ ĐAN ‘s

CÂU CHUYỆN GIẬN HỜN
• CÂU KINH TÌNH YÊU
• ĐÊM TRẮNG
• GIỌT BUỒN TIẾC NUỐI
• HẠT NẮNG CÒN LẠI
• LỜI CUỐI CHO NHAU
• LỜI HỨA MONG MANH
• MÀU XANH TÌNH YÊU
• NIỆM KHÚC
• NGÀY MƯA TRONG ĐỜI
• NHỮNG MẢNH VỠ TÌNH YÊU
• NIỀM CÔ ĐƠN CUỐI CÙNG (feat VŨ TUẤN ĐỨC)
• TA MÃI BÊN NHAU
• TÌNH YÊU & TRÁI ĐẮNG
• VẮNG XA
• VÙNG BIỂN VẮNG
http://www.mediafire.com/download/tdbv771g5np47cy/SY+DAN+2.rar





TRÚC SINH - em ruột NS TRÚC HỒ - là 1 trong những nhạc sĩ hòa âm những bài hát ấn tượng và rất “ASIA” cho trung tâm này, ông có nhiều sáng tác với chất nhạc dìu dặt, tình tự… Nói chính xác là nhạc của ông – lời của người khác (thường là lời của NS LÊ ĐỨC LONG / nhà thơ ĐẶNG HIỀN)…So far, ASIA chỉ làm 1 CD của nhạc sĩ này , collect những bài rải rác thêm 1 CD này nữa…để nghe trong những ngày…mưa!

http://www.mediafire.com/download/ib96pesrdzjriyf/TINH+KHUC+TRUC+SINH.rar

ANH LÀ TIA NẮNG TRONG EM (lời LÊ ĐỨC LONG) – LÂM THÚY VÂN
• BÀI 20 (lời ĐẶNG HIỀN) – LÂM NHẬT TIẾN, GIA HUY
• BIỂN, MÙA THU, THÙY DƯƠNG (lời ĐẶNG HIỀN) – THÙY DƯƠNG
• ĐẾN BÊN NHAU (lời LÊ ĐỨC LONG)- NHƯ QUỲNH & GIA HUY
• ĐỪNG NHÌN ĐỜI XA VỜI (lời LÊ ĐỨC LONG)- LÂM NHẬT TIẾN & LÂM THÚY VÂN
• EM VỀ (lời ĐẶNG HIỀN) – LÂM THÚY VÂN
• GIÓ, MƯA & ANH (lời TRẦM TỬ THIÊNG) – LÂM THÚY VÂN
• HÃY YÊU NHAU ĐI (lời LÊ ĐỨC LONG) –THANH TRÚC & GIA HUY
• KẺ PHỤ TÌNH (lời LÊ ĐỨC LONG)-LOAN CHÂU
• KHÔNG CÓ EM CHIỀU NAY (lời LÊ ĐỨC LONG) – LÂM NHẬT TIẾN
• MEN TÌNH NỒNG (lời LÊ ĐỨC LONG) – LÂM NHẬT TIẾN
• MƯA XA (lời ĐẶNG HIỀN) – NHƯ QUỲNH
• NGÀY ẤY KHI CÒN ANH (lời TRẦN NGỌC SƠN) – LÂM THÚY VÂN
• NGÀY NÀO EM ĐI LẤY CHỒNG (lời LÊ ĐỨC LONG) – DIỆP THANH THANH
• RẰNG ANH XIN HỨA MÃI GẦN EM (lời ĐẶNG HIỀN ) – LÂM NHẬT TIẾN
• TÌNH LẺ LOI (lời ANH BẰNG) – NHƯ QUỲNH
• VÌ YÊU ĐÓ ANH (lời LÊ ĐỨC LONG)- HỒ HOÀNG YẾN







Ngoài những bài hát đấu tranh, hùng ca “sắt máu”, VIỆT DZŨNG còn những sáng tác khác rất hấp dẫn, nét nhạc thường da diết & lôi cuốn. Tạm tổng hợp dưới đây với tên VIỆT DZŨNG TÌNH CA

Mình đặc biệt thích VÀ EM HÃY NÓI YÊU ANH/ THIÊN ĐÀNG ĐÁNH MẤT…
• BÀI TANGO CUỐI CÙNG (thơ HOÀNG NGỌC ẨN) – LỆ THU
• BÊN ĐỜI HIU QUẠNH (thơ HOÀNG NGỌC ẨN) – LƯU HỒNG
• CHÀO NHỮNG NGƯỜI YÊU CÒN Ở LẠI SAIGON – VIỆT DZŨNG & NGUYỆT ÁNH
• CÓ NHỮNG CHUYỆN TÌNH KHÔNG LÀ TRĂM NĂM (thơ QUANG DŨNG) – LÂM NHẬT TIẾN & NGUYỄN HỒNG NHUNG
• DẤU CHÂN CỦA BIỂN – LÂM NHẬT TIẾN & Y PHƯƠNG
• LỜI KINH ĐÊM (ý thơ MÃN THUẬN) – MAI THANH SƠN
• LỜI TỎ TÌNH DỄ THƯƠNG – THẾ SƠN
• MỜI EM VỀ - Y PHƯƠNG
• NHỚ - THẾ SƠN
• NOEL RỒI, ĐỪNG HỜN ANH NỮA BÉ ƠI – VIỆT DZŨNG
• THIÊN ĐÀNG ĐÁNH MẤT – THÚY VI
• THUNG LŨNG CHIM BAY (thơ HOÀNG NGỌC ẨN) – LỆ THU
• TÌNH CA CHO NGUYỄN THỊ SÀI GÒN – Y PHƯƠNG
• TÌNH NHƯ CÂY CÀ-REM – DON HỒ
• VÀ EM HÃY NÓI YÊU ANH – THÚY VI & VIỆT DZŨNG
BONUS:
• CÓ NHỮNG CHUYỆN TÌNH KHÔNG LÀ TRĂM NĂM – DẠ NHẬT YẾN
• MỘT CHÚT QUÀ CHO QUÊ HƯƠNG – LÊ UYÊN
• VÀ ANH HÃY NÓI YÊU EM – LÂM NHẬT TIẾN & LÂM THÚY VAN
http://www.mediafire.com/download/5o3an1wg3tlr8jz/VIET+DZUNG+TINH+CA+1.rar
http://www.mediafire.com/download/8742hmvxch4we7y/VIET+DZUNG+TINH+CA+2.rar

Add-in
Tự trầm (thơ Hoàng Ngọc Ẩn) - Tuấn Ngọc
Yêu người muộn màng - Thanh Hà
Cỏ tương tư – Thế Sơn
Thu vàng có chàng tới hỏi (thơ Huyền Kiêu) - Anh Dũng
Khóc người trinh nữ (thơ Nguyễn Bính - Ý Lan
Màu máu tigon (thơ Thâm Tâm) - Lưu Hồng
http://www.mediafire.com/download/47k3h91c4dwou7r/VIET_DZUNG_bonus.rar








2 album selection nhạc NGỌC TRỌNG đầu tiên, cover tuy không xuất sắc bằng 2 album NGỌC TRỌNG vol 3 & NGỌC TRONG bonus nhưng mà nhạc rất thích...
BUỒN VƯƠNG MÀU ÁO chắc phải được danh hiệu là bài hát quốc dân (hải ngoại) vì ai ai cũng từng 1 lần cover bài này! NGỌC TRỌNG sáng tác rất nhiều - như thấy 4 CD ở album này, lời hay và âm nhạc cũng rất ít trùng lặp!
Vol 1 http://www.mediafire.com/download/pgnxfx98i7zi667/NGOC+TRONG+VOL+1.rar
Vol 2
http://www.mediafire.com/download/9448f0xl3azpkp3/NGOC+TRONG+VOL+2.rar













CD "VẦNG TÓC RỐI" nổi lên như 1 CD hay của 1 nhạc sĩ trẻ viết chắc tay và đầy nghệ-sĩ-tính, với những bản phối hoàn hảo của DUY CƯỜNG và từng bài hát như được đo ni đóng giày cho từng giọng ca ...Nhưng tiếc rằng, sau đó, MAI ANH VIỆT có lẽ khá im hơi lặng tiếng (nghe đâu có CD QUÝ HƯƠNG - phổ thơ HÀ HUYỀN CHI qua 2 giọng ca QUANG MINH - BẢO YẾN nhưng tìm không ra, mới chỉ nghe được vài bài trên youtube). 
Sau đây là selection 1 vài bài hát (hiếm) khác của NS này hoặc những version của các ca sĩ khác hát nhạc Mai Anh Việt (...cũng không nhiều lắm...)

http://www.mediafire.com/download/12o9jbb4md1a3ua/MAI+ANH+VIET.rar






Viewing all 110 articles
Browse latest View live