Quantcast
Channel: What goes around comes around..
Viewing all 110 articles
Browse latest View live

Văn thơ nhạc hoạ trên Sáng Dội Miền Nam


Bên lề sách cũ - lời vỗ về cho ngày sầu muộn...

$
0
0

 “Tổ quốc bất khả phân đã phân
 Từ dòng sông từ bản hiệp định kia
 Đất nước mấy nghìn đời không thể mất
 Chỉ một ngày đã mất
 Lịch sử triệu trang vàng một trang đen đã lật…”
(Mai Thảo)

Trang đen lật ra, mở theo sau là ngàn ngàn triệu triệu những trang chữ khác bị thiêu hủy, bị bức tử…
Hồn phách của cả 1 dân tộc lao đao, lạc loài trên/ theo/ cùng những trang sách tơi tả…

“…một cuốn sách không phải lúc nào cũng để đọc. trên những chuyến đi có khi tôi mang theo sách chỉ để thấy yên tâm: một thứ gì đó mơ hồ nhưng rất quan trọng tôi còn phải nghĩ; hồn của một thứ gì đó vẫn từ lâu chờ tôi biết về sự hiện diện cùng sự mong manh của nó; nỗi buồn mà một người hay một dân tộc nào đó còn phải đi qua… tất cả đang nằm trong quyển sách này. tôi chỉ cần mở nó ra.
tôi mang theo sách và biết rằng nếu tôi đọc và lặn lội một chút, cuộc đời dù trôi bên ngoài, nó cũng trôi bên trong tôi… chúng ta vừa gây ra mọi khổ luỵ trên đời này, vừa gánh chịu chúng với bao nhiêu ngơ ngác, như thể chúng ta không hề là tác nhân.
chúng ta cũng vừa là chứng nhân, nếu chúng ta có một cuốn sách…
nếu chúng ta mở nó ra. nhưng thường thì không.”

Đọc đoạn trên của tác giả Đoàn Minh Phượng , tôi liền liên tưởng về những trang sách giấu mặt, ngậm ngùi…/ những trang thơ tự hủy, xót xa…/những trang báo oằn mình, đớn đau… cũng như thân phận của 20 năm miền huy hoàng chứa đựng nó – Đó, vừa là thân phận của Nam và cũng là nỗi thống khổ của 20 năm văn chương Nam …

Trong một bài viết về hồi ức với quyển tạp chí VĂN, nhà văn BAN MAI đã kể 1 của mình với 1 người lính VNCH, anh đã để lại cho cô quyển VĂN anh mang theo khi xông pha trận mạc cùng lời nhắn “văn chương miền Nam không có thép, nên tôi tìm được bình an trong văn chương…”

(TẠP CHÍ VĂN TỪ LÒNG ĐẤT: http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=15131)

Nhiều năm sau, tôi và (tôi tin là) bất kỳ ai có diễm phúc tiếp xúc với nền văn chương này cũng sẽ tìm thấy cho chính mình sự BÌNH AN ấy, dù ít hay nhiều…

Và không chỉ là những trang sách, mà đó còn là những gì bên lề của tả tơi này...
Câu chuyện của những thân phận, của một trời tâm tư…dựng bày không khí của cả một thời đại chỉ bằng đôi ba dòng chữ trải lòng, nơi đó là … những chiều chủ nhật “rối gót tình nhân”, những ngày xưa thân ái, những ngày về phép “vụng về ngôn ngữ tình làm bằng dấu đôi tay”, những chán chường của cuộc nội chiến ... Nơi đó, là một “ngày’…và cũng là cả một “đời”
Dâng đây một "lời vỗ về cho ngày sầu muộn"...vì cuối cùng thì.....
 Những trang sách đã được MỞ ra!

“Một ngày cho người sống
Một ngày cho người chết
Một ngày cho người thương
Một ngày cho người ghét
Một ngày cho cuộc chiến
Một ngày cho lười biếng
Một ngày cho bình yên
Một ngày lại cho điên.
Hỡi, hỡi ôi !
Thân phận làm người !
Thân phận làm người !
Hỡi, hỡi ôi !
Thân phận làm người !
Thân phận làm người !

Một ngày cho khẩu súng
Một ngày cho ngòi viết
Một ngày đi mà giết
Một ngày đi mà hát
Một ngày đang cười ngất
Một ngày ôm mặt khóc
Một ngày bạn bè đông
Một ngày chợt cô đơn.
Hỡi, hỡi ôi !
Thân phận làm người !
Thân phận làm người !
Hỡi, hỡi ôi !
Thân phận làm người !
Thân phận làm người !

Một ngày cho Tổ Quốc
Một ngày quên nợ nước
Một ngày cho vợ con
Một ngày cho tình nhân
Một ngày đi làm lính
Một ngày đi đảo chính
Một ngày đi cầu kinh
Một ngày về quyên sinh.
Hỡi, hỡi ôi !
Thân phận làm người !
Thân phận làm người !
Hỡi, hỡi ôi !
Thân phận làm người !
Thân phận làm người !

Một đời mang phận sống
Một đời đeo cùm gông
Một đời đi ruổi rong
Một đời vẫn chờ mong
Một đời không còn mới
Một đời không từ chối
Một đời vẫn thường nói :
Một đời người, than ôi !
Hỡi, hỡi ôi !
Thân phận làm người !
Thân phận làm người !
Hỡi, hỡi ôi !
Thân phận làm người !
Thân phận làm người ! …”








IMG_1304IMG_1302IMG_1310IMG_1311IMG_1314IMG_1315IMG_1316IMG_1317IMG_1318IMG_1319IMG_1320IMG_1321IMG_1322IMG_1323IMG_1324IMG_1325IMG_1326IMG_1327IMG_1328IMG_1329IMG_1330IMG_1332IMG_1333IMG_1334IMG_1335IMG_1352IMG_1353IMG_1354IMG_1355IMG_1356website view counter

20 năm mất Mai Thảo - đọc lại một Hồi Niệm (Phan Lạc Phúc viết về Mai Thảo)

$
0
0
Thế mà đã 20 năm, “Một cuộc đời vượt biển đã chìm châu”, Mai Thảo đã rời bỏ chúng ta hai thập niên, “…về bên kia những bờ bến siêu hình”, đã hết còn “trong cõi riêng buồn lại thấy ta”, tất cả chỉ còn là Không – là Thơ như ước nguyện của Mai Thảo nhà-văn : “Giữa đất tận trời cùng giữa chỉ một mình ta” 

Trong số báo KHỞI HÀNH (hải ngoại) cũng xuất bản vào ngay lúc ông khuất núi, tôi đọc được một câu chuyện cảm động…và hấp dẫn như…kịch bản một bộ phim  -Một bộ film không ai muốn “đóng”…nơi đó, những nhân vật, những thân phận là những dựng bày trong một kịch bản ác nghiệt tên là chiến-tranh-Việt-Nam…
Nhưng , nhân vật chính trong câu chuyên về mối thâm giao giữa nhà văn Mai Thảo & ký giả Phan Lạc Phúc lại không phải là một nhân vật bằng xương, bằng thịt…mà đó là phần “hồn” đằng sau những trang sách, Số mệnh li kì của quyển sách ấy chẳng khác gì kiếp số long đong, gắng sống, vượt tuyến, gặp lại, vượt biển… của những phận người linh đinh đương thời - trót rơi vào vòng sinh tử của cuộc khổ nạn mang tên Việt Nam …

“Cuối năm 1953, trong cuộc hành quân theo chiến đoàn 2 (GMC) từ Xuân Trường sang Hải Hậu (Nam Định), ra gần đến biển, đơn vị tôi đụng trận ở Quần Liêu Văn Lý.  Đánh suốt buổi trưa đến chiều mới qua cầu, vào được một khu dinh cơ toà ngang dãy dọc.  Đây là khuôn viên của một gia đình rất giàu có ở thôn quê.  Đặc biệt khu nhà gác trong ra sân là một gian phòng đọc sách có một thư viện nhỏ. Trái phá làm đổ một góc căn nhà gác, một số sách rơi xuống ngổn ngang.  Tôi nhận ra một số sách rất quý, những danh tác của các tác gia cổ điển Pháp và những sách nổi tiếng của các tác gia Việ Nam đương thời.  Có cả một bộ từ điển Littré, bìa da chữ vàng. Tôi nghĩ đây phải là dinh cơ của một gia đình văn học lắm.  Tôi cứ âm thầm than tiếc mãi cái thư viện bắt đầu đổ nát ấy,  phải bao nhiêu công trình mới thâu thập được những danh tác như vậy, bây giờ chiến tranh trà đến nó có thể cháy, có thể tiêu tan bất cứ lúc nào.  Tôi nhìn thấy cuốn Lửa Thiêng của Huy Cận trên bệ sách.  Xưa nay tôi vẫn khao khát tập thơ tiền chiến này.  Tôi cầm cuốn Lửa Thiêng ngoài bìa có triện son, mở ra xem.  Cầm lòng không được tôi bỏ cuốn Lửa Thiêng vào trong túi quần treillis.  Đây là vật tôi “thổ phỉ” đầu tiên trong cuộc đời lính tráng.  Sau đó thấy sách quý rơi vãi đầy nhà, tiếc của trời tôi lượm mấy cuốn từ điển, mấy cuốn sách học cho vào một cái “sac martin” gửi về cho em tôi P.L.T đang đi học ở Hà Nội …

Một bữa Mai Thảo đến nhà Thanh Nam chơi, nhìn thấy cuốn Lửa Thiêng để trên bàn.  Giật mình Mai Thảo cầm cuốn sách lên coi, nhìn kỹ dấu triện son.  Mai Thảo liền hỏi Thanh Nam “Vì đâu có cuổn Lửa Thiêng này”.  Thanh Nam chỉ tôi.  Tôi liền kể cho Mai Thảo nghe sự tích cuốn sách.  “Có phải căn nhà gác có thư viện nhìn ra cầu phải không?”.  Đúng.  “Có những cây bang dọc theo bờ song phải không?”. Đúng.  “Thế là nhà tô đấy ông ạ, triện son “Nguyễn Đăng”...còn ghi ngoài bìa sách đây mà”.  Tôi ngượng ngùng nhìn Mai Thảo mà không biết nói sao.  Mai Thảo nói tiếp “Ông giữ cuốn thơ này như vậy là may, vì sao đó cả khu dinh cơ ấy bị triệt hạ đâu có còn gì.  Đây là di vật còn lại không ngờ của căn nhà cũ…”.  Tôi có ý định hoàn trả lại cuốn Lửa Thiêng nhưng Mai Thảo nhất định “Ông phải giữ cuốn thơ này làm kỷ niệm”.

Sau đó trong Sáng Tạo (bộ cũ) Mai Thảo viết một thiên tuỳ bút đặc sắc “Căn nhà vùng nước mặn”, Mai Thảo nói rằng vì tôi gợi nhớ nên mới viết thiên tuỳ bút này.  Chúng tôi cũng gần gũi nhau từ đấy…”

Trong bài Hồi Niệm đong đầy những chi tiết cảm động và những kỷ niệm quý báu, ký giả PLP có nhắc đến bài viết của ông về Mai Thảo trên tạp chí Vấn Đề, nay, xin dâng lên hương hồn hai tác giả bài viết “đã-từng-là-vắng-mặt” đó…(trong Vấn Đề số 2 – chứ không phải số ra mắt như trong bài của tác giả - VĐ 2 phát hành 30 năm trước bài Hồi Niệm này - năm 1967 )

Cuộc trò chuyện giữa hai người đã-vắng-mặt hy vọng sẽ còn lưu lại chút âm ba trìu mến, dội về chút êm đềm một thời mà người ta sống bằng/ sống với kỷ niệm… điều mà nay đã thành một thứ xa xỉ, khi chính những thành phố giờ đây đã mất đi căn cước, mất đi hoà niệm, mất đi dĩ vãng… Huống chi là chút phận linh đinh, huống chi là những trang sách tơi tả. Những ký ức lấp lánh này, một ngày nào đó, rồi cũng chìm khuất và mất tích …
 “Hương trầm có còn đây. Ta thắp nốt chiều nay. ”
  

 huyvespa@gmail.com


Picture4Picture5Picture6Picture7Picture8Picture1.jpg (Copy)Picture2 (Copy)Picture3 (Copy)IMG_1584IMG_1585IMG_1586IMG_1587IMG_1588IMG_1575IMG_1576IMG_1577IMG_1578IMG_1579IMG_1580IMG_1581IMG_1582IMG_1583

Btw, có anh/ chị/ bạn ..nào có 2 quyển này của Phan Lạc Phúc không a?

Kết quả hình ảnh cho "phan lạc phúc"





free counter

những quyển sách...trôi giạt về...từ một Trôi Giạt Lớn...

$
0
0
“Ngày rời SG 17 -4 -75…Lúc chạy trốn vội quá vơ tạm một cái gì gọi là của đất nước”.
(Thủ bút bên lề trang sách cũ)
Khi luôn nghĩ về điều gì đó, vũ trụ sẽ hồi đáp…là có thật !
Đã lâu rồi, muốn tận tay cầm quyển thơ đầu tiên – duy nhất – và ...cuối cùng của nhà văn Mai Thảo …
Và cũng lâu rồi, bồi hồi theo từng mảnh hồn - từng mảnh truyện, từ phiên bản scan thời sinh viên, đến những quyển rách rưới, đến những quyển chắp vá…nay “người đi mỏi gối về quanh chiếu ngồi” … nhận được một ấn bản trọn vẹn từ bìa…đến gáy … từ nửa vòng trái đất.
(sau khi quyển sách – cũng như số phận hàng triệu người cũng “may mắn” vượt thoát…nay tìm về cố xứ - thấy được ngay từ những dòng chữ bên lề của sách “Ngày rời SG 17 – 4 -75…Lúc chạy trốn vội quá vơ tạm một cái gì gọi là của đất nước”.
...Quyển sách “làm chưa xong hết cuộc tiễn đưa…”
Và với câu chuyện này, có thể khẳng định: Tôi chưa từng thấy ai khi có quyển sách này (trước hoặc sau 1975) mà không có một câu chuyện thú vị bên lề liên quan đến nó!
Quyển NHỮNG TRUYỆN NGẮN HAY NHẤT CỦA QUÊ HƯƠNG CHÚNG TA (nhà xuất bản SÓNG ấn hàng 1974) với một "số phận" khá đặc biệt, đặc biệt đến từ cái tên và ý hướng của những người sản xuất - ngay từ cái tên đã nói đến sự trân trọng của những người biên tập tập sách quý giá này. QUÊ HƯƠNG CHÚNG TA. Thân & thương lạ! Mà trong lời phi lộ bùi ngùi một cảnh tình khó giải bày, phần nào giải đáp được lí do trước 1975, VĂN HỌC là một phần đời, là một hơi thở, của đa số mọi người giai đoạn đó! - “Đây là một trong những đóng góp một đời còn lại dành tặng quê hương trong cuộc chiến một phần tư thế kỷ hầu như đã phá vỡ gần hết tất cả gia tài nổi chìm của chúng ta. Sự đóng góp và cái gia sản tinh thần bất diệt của tổ tiên của những người làm việc trong lặng lẽ giữa tiếng ồn ào của đạn bom này, đã nói lên hùng hồn ý nghĩa của tranh đấu cho Tự Do và những giá trị Nhân Bản. Những người của phần đất bên này giòng Bến Hải.”
Người-ảnh TRẦN CAO LĨNH và những câu chuyện chân dung trong tuyển tập http://huyvespa.blogspot.com/…/tran-cao-linh-cuoc-trien-lam…
Kho báu quý giá được trao tặng từ bên kia bờ đại dương, lấy xuống từ tủ sách của gia đình tác giả Trần Thị Lai Hồng & cố hoạ sĩ – văn sĩ Võ Đình…mang đến một cơn mưa hè mát lạnh Saigon !
...
Đó là một phần sách…trôi giạt về tôi từ một “Trôi Giạt Lớn”
“Tưởng bây giờ là bao giờ / Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao...”

Từ một “Trôi Giạt Lớn”, thuyền-nhân, bên “bàn viết lữ thứ” dựng (lại) căn cước của mình nhưng định danh lại một căn-cước-mới, nay đã thành danh từ trong văn học sử: Thơ Văn Việt Nam Hải Ngoại .
Nhà văn Viên Linh đã từng nói đây là “Nền văn học của những người vắng mặt” ... “vắng” ở đây là vắng cả tác giả (trong nước - những tác giả thành danh trước 1975) & độc giả, vắng cả thứ tiếng mẹ đẻ mà chỉ có thể thốt ra tự nhiên hồn hậu trên chính cố xứ - nơi “Việt Nam, hai câu (tiếng?!?) nói trên vành nôi” & vắng cả một miếng-xứ-sở...
Nhưng trong thời “cực-thịnh” đó, thời căn-cước-mới, là đông đảo những dựng lại, những xiển dương, những khai phá mới, những tiếng nói , những ấn phẩm, những dòng chảy..., sinh hoạt văn chương “thời đó” còn là những lá thư tay, những triện chữ trang trọng , những thủ bút trao đi trân quý, xin lỗi/ cảm ơn - một nếp “nhà Việt Nam đang xây bên ngoài Việt Nam”.
Sự trù phú, đa dạng như vậy nhưng nhìn lại, thưở “bao giờ” mới “gần” đây lắm mà giờ đã ...ĐÌU HIU - đã như từ thưở nào xa xăm...
Thôi thì, “của tin còn một chút này làm ghi”.
Trong chồng sách cũ thấy “lại” : 

- “Thơ Văn Việt Nam Hải Ngoại” trên 500 trang do nhà thơ Thái Tú Hạp chủ trương xuất bản 1985 - một trong những tuyển tập sớm nhất định danh cho dòng văn học này.
Cùng bộ đồ sộ 2 quyển 20 năm văn học Việt Nam hải ngoại 1975 - 1995 / Tuyển truyện ngắn 20 năm VHVN hải ngoại của Văn Bút Việt Nam /Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương, một công trình biên soạn của 27 tác giả ngoài nước viết về 79 tác giả trong nước, được ấn hành vào tháng 9-1990...
- Văn (bộ mới) sau thời Sổ tay MaiThảo - là thời kỳ “người đi trên mây” Nguyễn Xuân Hoàng đảm trách, và những lá thư tay thăm hỏi & nhắc nhớ bài vở từ “thơ ký toà soạn” Trương Gia Vy Vy Truonggia... in trên một cánh thiệp ghi tên “Vivian & Nguyen Xuan Hoang”
- Thủ bút của nữ sĩ Tuý Hồng “hỏi xin” lại chính đứa con tinh thần trước 1975 của mình...
- Những tranh bìa commercial nhưng không kém phần art của hoạ sĩ Khánh Trường Khanh Truong , Đinh Cường....


 huyvespa@gmail.com

IMG_1859IMG_1858IMG_1856IMG_1868
IMG_1869
Đây là những tác giả và những truyện ngắn điển hình:

- Bình Nguyên Lộc: Rừng Mắm.

- Doãn Quốc Sỹ: Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều.

- Duyên Anh: Con Sáo Của Em Tôi.

- Dương Nghiễm Mậu: Cũng Đành.

- Hồ Hữu Tường: Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp.

- Mai Thảo: Cửa Sau (1)

- Mặc Đỗ: Tình Thương Trong Ngoặc Kép.

- Nguyễn Đức Sơn: Ý Tưởng Chiều Tà.

- Nguyễn Mạnh Côn: Lời Nguyện Trong Không.

- Nguyễn Sỹ Tế: Dòng Sông Xanh.

- Nguyễn Thị Hoàng: Tan Theo Sương Mù.

- Nguyễn Thị Thụy Vũ: Lòng Trần.

- Nguyễn Thụy Long: Ngày Tháng Buồn Hơn.

- Nguyễn Xuân Hoàng: Một Người Ngồi Trong Ghế Bành.

- Nhã Ca: Truyện Cho Những Tình Nhân.

- Nhất Hạnh: Cửa Tùng Đôi Cánh Gài.

- Nhật Tiến: Tặng Phẩm Của Dòng Sông.

- Sơn Nam: Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư.

- Thanh Nam: Vai Phụ.

- Thanh Tâm Tuyền: Dọc Đường.

- Thảo Trường: Viên Đạn Bắn Vào Nhà Thục.

- Thế Uyên: Căn Nhà Của Mẹ.

- Túy Hồng: Lòng Thành.

- Viên Linh: Ngôi Nhà Tôi Đã Ở.

- Vũ Khắc Khoan: Người Đẹp Trong Tranh.
IMG_1870IMG_1871IMG_1872IMG_1873IMG_1874




IMG_1866IMG_1867IMG_1900IMG_1875IMG_1876IMG_1877IMG_1879IMG_1880IMG_1881IMG_1882IMG_1883IMG_1884IMG_1885IMG_1886IMG_1887IMG_1888IMG_1889IMG_1890IMG_1891IMG_1894IMG_1895IMG_1901IMG_1902IMG_1903IMG_1904IMG_1905IMG_1906IMG_1907IMG_1908IMG_1909IMG_1910IMG_1911IMG_1912IMG_1913IMG_1914IMG_1915IMG_1916IMG_1917IMG_1841IMG_1850IMG_1851IMG_1852IMG_1853IMG_1854IMG_1855IMG_1861IMG_1862IMG_1864IMG_1942



Image may contain: 1 person
IMG_1808IMG_1809IMG_1810IMG_1811IMG_1812IMG_1813IMG_1814IMG_1815“Ngỡ hồn tu xứ mưa bay” (Đêm, nhớ trăng Sài Gòn - Du Tử Lê)
“Hồn tu kín xứ đa mang” (Đêm sinh nhật - Cung Trầm Tưởng)

Tình cờ đọc lại 1 quyển Văn (hải ngoại) cũ , thấy hình ảnh “độc đáo” này của nhà thơ Du Tử Lê và 1 bài nhận định đặc sắc về thơ Cung Trầm Tưởng của Nguyễn Hưng Quốc. Nét chung giữa DTL & CTT là gì, theo tôi, từ khi hai nhà thơ này làm thơ lục bát, lục bát Việt Nam đã không còn là lục bát xưa mà là những trau chuốt của một thể điệu (ngỡ đã) cũ được nâng cấp, một lục bát óng ả & tinh tuyền khác của hồn cốt Việt Nam. Và dường như hai “tư tưởng” gặp nhau ở một cảm xúc về “đêm” - đều là một đêm trong/ của ký ức Saigon - để rồi cho nhân thế tứ thơ “hồn đi hoang” trùng hợp thú vị như thế. ./.


 “ 1. Câu thơ “ngỡ hồn tu xứ mưa bay”, nằm trong bài thơ ngắn “Đêm, nhớ trăng Saigon” được viết năm 1978, khi tôi đang làm ca thứ 2, cho hãng Rockwell International ở thành phố Newport Beach. Sự thực câu thơ đó không cầu kỳ, đến mức khó hiểu lắm! Tất cả do lỗi của tôi!.! - Tôi có thói quen nhân cách hóa bất cứ một hình ảnh cụ thể hay siêu hình nào, nếu tôi thấy mình có thể làm được việc đó. Chữ “hồn” trong câu thơ trên cũng được nhân cách hóa theo thói quen của tôi. 2. Nếu tôi dùng dấu phẩy (phết) ngay sau chữ “tu”, để chia câu thơ thành 2 phần, thì: - Phần 1: ngỡ hồn đi tu...


 - Phần 2: Tu ở đâu? Tu ở nơi chốn được gọi là “xứ mưa bay” (một ẩn dụ) - Thì câu thơ trên sẽ trở thành dễ hiểu hơn nhiều. - Có người sẽ hỏi tại sao hồn vía kia, lại tu ở “xứ… mưa bay” mà không “tu” ở một nơi chốn khác cho dễ hiểu, thí dụ Saigon, Huế, Hà Nội…?

- Phần 3. Lý do tôi không chọn một nơi chốn cụ thể mà chọn một nơi chốn hiu quạnh, ẩm ướt vì muốn cực tả tính cô đơn của hồn vía ấy - - Nó cũng là sự cô đơn tinh thần của một thân xác mà, hồn vía đó “cư ngụ”… . Tôi nhớ, đầu thập niên 1990’s thế kỷ trước, bạn của tôi, nhà báo và cũng là nhà văn Bùi Bảo Trúc, một buổi sáng, giữa tiệm phở Xe Lửa ở thành phố Falls Church, đã yêu cầu tôi giải thích hai chữ “tu xứ”… Tôi nghĩ bạn của tôi chỉ bày chuyện cho vui, thêm nữa thời gian đó, tôi còn khư khư với quan niệm: Không giải thích thơ của mình… Nên tôi chỉ cười. Im lặng. Lắc đầu. Tôi đâu ngờ, sau đó, bạn của tôi đã đem chuyện “tu xứ”, chất vấn, vào cột mục “Lá thư Hoa Thịnh Đốn” của tờ Người Việt. Vì thế mà có một thời gian, cả ngoài lẫn trong nước cùng thấy câu thơ ấy sao mà khó hiểu – tối tăm đến như vậy...?!.”

(https://www.dutule.com/a8623/ngo-hon-tu-xu-mua-bay)

./.

Lục Bát Cung Trầm Tưởng (Viên Linh, Lời bạt cho thi phẩm của Cung Trầm Tưởng, 1992)


Mỗi sinh nhật tôi lại nhớ đến bài thơ ấy của Cung Trầm Tưởng. Mỗi đêm mưa tôi lại đọc bài thơ ấy của Cung Trầm Tưởng. Ðó là mùa mưa Sài Gòn. Ðó là Sài Gòn của chúng tôi. Ðó là những năm cuối thập niên ’50, những năm của Hiện sinh, của bản ngã, của đời sống thanh niên thành phố vừa vào tuổi hai mươi, của những đêm khuya ngã tư đèn vàng, những đầu tháng tạp chí văn chương. Của khói thuốc và sách vở. Của những buổi hẹn hò ở một góc sân trường; những cuộc tiễn đưa nơi sân ga bến buýt. Của vào đời và tan tác. Mưa rơi đêm lạnh Sài Gòn Mưa hay trời khóc đêm tròn tuổi tôi. Mưa hay trời cũng thế thôi Ðời nay biển lạnh mai bồi đất hoang. Hồn tu kín xứ đa mang Sớm hao tâm thể chớm vàng lượng xuân. Niềm tin tay trắng cơ bần Cuối hoàng hôn lịm bóng thần tượng xưa. Ðêm nay trời khóc trời mưa Gió lùa ẩm đục trời đưa thu về Trời hay thu khóc ủ ê Cổ cao áo kín đi về đường tôi. (Ðêm Sinh Nhật, Cung Trầm Tưởng) Ðó là chúng tôi. Ðó là Sài Gòn của chúng tôi, những năm đầu của cuộc vận động đổi mới chữ nghĩa, – dăm ba thần tượng sụp đổ, một vài trường phái manh nha. Chúng tôi ghi nhận trong bất cứ cuộc vận động nào, thơ đi trước. Thơ bao giờ cũng đi trước; thi sĩ là kẻ tiền-hô. Có bao giờ chưa, một cuộc vận động văn học thi sĩ lại không ở hàng đầu? Một biến động thời thế thi sĩ lại không biến đổi trước nhất? Giữa thập niên ’20 Phan Khôi là người phá thể [với bài thơ Tình Già]. Ðầu thập niên ’30 Ðoàn Phú Tứ là kẻ xoay vần [với nhóm Xuân Thu Nhã Tập]. Ðể hình thành nền Thơ Mới. Ra ngoài đất nước, cũng chính là thơ trước nhất đã dựng lại một nền văn học. Vũ Khắc Khoan làm thơ. Mặc Ðỗ làm thơ. Võ Phiến làm thơ. 1975, những nhà văn phải làm thơ. Ðương nhiên các thi sĩ không làm gì khác là làm thơ. Trong khi các nhà văn phải làm thơ vì biến động trước mắt thì các thi sĩ đã làm thơ rồi, vì biến động đã ở dưới chân thi sĩ, từ lâu, trên các nẻo đường xuôi ngược của thi sĩ, không ngừng. Không biết làm thơ, vào trong tù, ai cũng có thể làm thơ. Thế thì khi thi sĩ vào tù, thi sĩ thường thường ở tù lâu hơn các ông tướng, và các thứ. Vào tù binh tướng bị lột khí giới; vào tù, khí giới của thi sĩ còn nguyên. Bạn tôi cũng vậy. Cung Trầm Tưởng cũng vậy, trước sau gì cũng vẫn làm thơ. Ở ngoài đời là một tay làm thơ. Tựa bên phải thì làm thơ bằng tay phải; tựa bên trái thì làm thơ bằng tay trái. Vào tù, hai tay bị còng, thì có “Lời Viết Hai Tay.”** [**nhan đề một thi phẩm của CTT.] Từ cuối thập niên ’50 trở đi, Lục Bát Việt Nam không bao giờ còn như xưa nữa. Hình sắc, âm điệu, ngôn ngữ của hai dòng 6-8 đó – như một thôn nữ khăn vuông mỏ quạ váy quai cồng của đồng chiêm lúa mùa nhiều thế kỷ trước chốn Phong Châu – hiện thành Vệ Nữ và Hoàng hậu, hiển lộng và rực rỡ – nhưng lại có chút man dại của bản năng và nhịp thở phố xá, qua thơ Cung Trầm Tưởng. Ðến anh thì đến hôm nay Lỡ mai gió giật chở đầy mưa qua Ðến anh thân thể lụa là Dài đuôi con mắt ngắn tà váy kiêu Ðến anh lưng thắt chiết yêu Sểnh tâm phá giới con diều ái ân Chờ em anh để râu xanh (Râu Xanh, Cung Trầm Tưởng) Trước 1975. Một hôm Cung Trầm Tưởng đến tòa soạn Tạp chí Thời Tập của tôi trên đường Nguyễn Trãi Chợ Lớn rủ tôi đi Cần Thơ dự Ðêm Con Ðuông. Con đuông là một thứ Nhộng của xứ dừa, họa sĩ Ngy Cao Uyên ở Cần Thơ lấy tên Con Ðuông đặt tên cho nhà xuất bản của anh, in ra những tập thơ mỏng, bìa là một họa phẩm nguyên tác nhỏ bằng lòng bàn tay; “Lục Bát Cung Trầm Tưởng” được in ra trong khuôn khổ này. Tôi còn nhớ chuyến bay chỉ có 4 người, kể cả phi công. Khi chiếc Bà Già bay trên ruộng rừng đất nước, nhìn ngắm những hố bom B.52 phía dưới, chúng tôi nói về những tàn phá của cả thù lẫn bạn. Rồi cũng không quên nói về thơ. Ðêm ấy trên những chiếc giường sắt trong căn cứ Không đoàn Vận tải (mà ông họa sĩ chủ trì là trung tá chỉ huy trưởng), chúng tôi nói về màu sắc trong thơ. 1992. Nhớ Cung Trầm Tưởng, không có việc gì, với tấm bản đồ thành phố Paris trong tay, tôi đã lên một con tàu và bước xuống một sân ga: “Ga Lyon đèn vàng”. Sau này qua điện thoại, tôi kể anh nghe tôi xuống sân ga đó không phải để kiểm chứng xem bạn ta có phải là người đi xa về rồi nói chuyện linh tinh hay không, như ở ga Lyon đèn trắng lại nói nó đèn vàng hay không, mà tôi xuống đó, để đứng ở ga Lyon và ngó lên mấy ngọn đèn, nhớ bạn, và đọc thơ bạn và hát nhạc Phạm Duy ở đấy. “Lên xe tiễn em đi, chưa bao giờ buồn thế.” Ngược lại, cũng qua điện thoại, Cung Trầm Tưởng thuật lại tôi nghe khi còn ở Sài Gòn, sau 10 năm ở tù cộng sản ra, đang lóng ngóng chuyện rời bỏ quê hương, thì nghe tôi nói về anh và về Thơ Lục Bát của chúng tôi trên đài Radio France International. Bài nói trên đài RFI ấy chính là trong cái dịp tôi bước xuống ga Lyon vào năm 1992 đó. [Dường như là do Thụy Khuê phỏng vấn.] Và ở hai phía địa cầu, như thế, cái tiếng Lục và cái tiếng Bát mà chúng tôi làm ra, chúng tôi ngâm lên, đã cùng được nghe thấy, trong một phút một giây của thời gian thật: Hồn tôi cái đĩa thâu thanh Tròn nguyên nét nhạc trung thành ý ca Ðồ rê mi phá sol la Ngẫm từng âm điệu nghe ra trời buồn. “Cơ bản, Thơ vượt lịch sử.” Cung Trầm Tưởng nói. Tôi đồng ý. Lịch sử vốn tái diễn không ngừng, thơ vốn hồi sinh cùng thi sĩ. Lịch sử lập lại. Thơ không lập lại. Thơ xướng danh lịch sử và sang vòng chuyển hóa mới. Hiện tại của lịch sử là nhà tù: Tập thơ “Lời Viết Hai Tay” là dĩ vãng của thi sĩ.

./. page hit counter

20 năm mất Mai Thảo (phần 2) - Mai Thảo trên Sáng Tạo (bộ mới)

$
0
0

Những ngày này, những “ngày dài trên quê hương”, thành phố như được thiết quân luật, những cuối tuần dịu dàng và êm ả đã không còn mà bầu trời, giờ đây, lúc nào cũng âm u mây chì và cơn giông sẽ vùi lấp trong chốc lát, tôi lái xe quanh khu Chợ Cũ, ghé Ký Con và nhớ Mai Thảo, lái xuống Chợ Lớn…để tìm chút Saigon …
Lịch sử luôn là một vòng lặp. Và thi ca - như ai đó đã nói: (cùng với tôn giáo & triết học) là (ba) con ngựa trong cỗ xe tam mã mà con người dùng để rong ruổi trên những cung đường của lịch sử đi về Cái Tuyệt Đối.
 “Sài Gòn Ra Đường” của Duyên Anh (sáng tác năm 1981 cho tình cảnh quê hương sau Cơn Hồng Thủy) nhưng những câu thơ ấy dường như cũng là cho Saigon những ngày này... 

”Sàigòn ra đường không thích cười
Em sợ đèo cao lệ đá rơi...
Sàigòn ra đường không líu lo
Em sợ âm vang động cõi hờ...”
SÀIGÒN RA ĐƯỜNG (DUYÊN ANH) (sáng tác 1981)

(Nhạc phẩm cùng tên do Vũ Trung Hiền phổ thơ - qua giọng hát tha thiết & thê thiết của Bạch Yến)
http://youtube.com/watch?v=b9aA_xP2fN0

Sàigòn ra đường không áo dài
Em sợ đang mùa gió chướng bay
Gió bay cuốn hút mùi hương cũ
Chỉ để riêng mình ta ngất ngây
Sàigòn ra đường không phấn son
Em sợ rừng sâu gỗ giận hờn
Ching phu gió cát nghìn phương lạnh
Chinh phụ nào ham chuyện lược gương
Sàigòn ra đường không thích cười
Em sợ đèo cao lệ đá rơi
Nên đã mùa đông về tạm trú
Đã về sương tuyết phủ niềm vui
Sàigòn ra đường không líu lo
Em sợ âm vang động cõi hờ
Hãy nghe hơi thở còn xao xuyến
Trong đáy hồn nhau gọi ước mơ
Sàigòn ra đường không giống ai
Tóc mây lớp lớp khói u hoài
Mắt chim khuyên đã diều hâu hết
Cúi xuống nhìn lên vẫn ngậm ngùi.
SÀIGÒN TRONG NHÀ (1981)
Sài Gòn trong nhà gửi nỗi buồn
Ra sân ra ngõ trống, đời trơn
Ra phường, ra phố, ra tăm tắp
Nơi những đề lao giữa núi rừng
Sài Gòn trong nhà mẹ ngóng con
Mắt sông cát lấp đã rêu cồn
Miệng thầm kinh nguyện lòng nghi hoặc
Ôi mãi cầu xin vẫn mỏi mòn
Sài Gòn trong nhà vợ nhớ chồng
Nhớ khùng, nhớ dại, nhớ lung tung
Nhớ nhiều, nhớ mãi, không quên nhớ
Buổi tối tay anh bị siết còng
Sài Gòn trong nhà con đợi cha
Năm sáu mùa xuân bố vắng nhà
Bao giờ bố mới về đây bố
Con lớn khôn rồi biết xót xa
Sài Gòn trong nhà đầy ưu phiền
Rất hài hòa cảnh tượng chìm đen
Tủ giường, bàn ghế, nồi, xoong, chảo
Cùng với người chung một nỗi niềm
Sài Gòn trong nhà vắng như tờ
Lâu lâu giọt nhỏ vọng hồn xưa
Chú thạch thùng quen thôi tặc lưỡi
Và con nhện cũng chán giăng tơ
Sài Gòn trong nhà, Sài Gòn ơi
Hãy thinh không nhé, hãy trùng khơi
Hãy im lặng đến thời lên tiếng
Vì tiếng em cao vọng tuyệt vời

Nhớ Mai Thảo, những suối văn - tuy nhiều khi cầu kỳ và trúc trắc – nhưng đọc lại thấy mát lành như một dòng suối, có thể mang đến chút êm ái trong cơn bão thời đại những ngày này…
Trên 8 số SÁNG TẠO cuối cùng (ra lại sau 8 tháng ..đình bản và…vĩnh viễn đóng cửa sau 8 số “Bộ Mới”), gửi lại đây, những truyện ngắn, những minh định của một nhà văn suốt đời cho văn chương, và những gì ông viết ra, cũng chính là tình yêu của ông đối với đất nước này, đối với “thủ đô văn hoá Việt Nam” : Sài Gòn !

huyvespa@gmail.com


IMG_2403IMG_2011IMG_2012IMG_2013IMG_2031IMG_2032IMG_2167IMG_2168IMG_2205IMG_2009IMG_2007IMG_1982IMG_1978IMG_1966IMG_1962IMG_2382IMG_2383IMG_2385IMG_6348IMG_6351IMG_6368IMG_2206IMG_2207IMG_2208IMG_2209IMG_2210IMG_2211IMG_2212IMG_2213IMG_2214IMG_2215IMG_2216IMG_2217IMG_2218IMG_2219IMG_2220IMG_2221IMG_2222IMG_2223IMG_2224IMG_2225IMG_2226IMG_2227IMG_2228IMG_2229IMG_2230IMG_2231IMG_2232IMG_2233IMG_2234IMG_2235IMG_2236IMG_2237IMG_2238IMG_2239IMG_2240IMG_2241IMG_2242IMG_2243IMG_2244IMG_2245IMG_2246IMG_2247IMG_2248IMG_2249IMG_2251IMG_2252IMG_2253IMG_2254IMG_2255IMG_2256IMG_2257IMG_2258IMG_2259IMG_2260IMG_2261IMG_2262IMG_2263IMG_2264IMG_2265IMG_2266IMG_2267IMG_2268IMG_2269IMG_2270IMG_2271IMG_2272IMG_2273IMG_2274IMG_2275IMG_2276IMG_2277IMG_2278IMG_2279IMG_2280IMG_2281IMG_2282IMG_2283IMG_2284IMG_2285IMG_2286IMG_2287IMG_2288IMG_2289IMG_2290IMG_2291IMG_2292IMG_2293IMG_2294IMG_2295IMG_2296IMG_2297IMG_2298IMG_2299

IMG_2301
IMG_2303


Được anh Hồ Đình Nghiêm từ Canada tặng 1 số VĂN (hải ngoại) thời MAI THẢO, vẫn còn thiếu khoảng một nửa http://huyvespa.blogspot.com/2017/12/noel-2017-nhan-van-thoi-mai-thao-trao.html 
Anh / chị/ cô / chú ...nào còn các số khác mà không dùng nữa, nếu cần trao đổi hay "thanh lý" có thể cho tôi xin!
Btw, tôi đang tìm 2 quyển của PHAN LẠC PHÚC & 1 quyển của LÊ QUỲNH MAI như dưới đây,
Thanks !

Kết quả hình ảnh cho "phan lạc phúc"






page visitor counter
who is online counterblog counter

55 năm ngày Trùng Thất - Nhất Linh 7/7

$
0
0

Thứ 7 - ngày 7/7 ... nhớ về một ngày Song Thất khác của năm 1963 !
“Người quay tơ đôi bạn tối tăm, anh phải sống chứ sao đoạn tuyệt?
Ðời mưa gió lạnh lùng bướm trắng, buổi chiều vàng đâu nhỉ nắng thu?”

(Vũ Hoàng Chương khóc Nhất Linh) 

Đọc lại một vài số báo tưởng niệm ngày Trùng Thất này, trong đó có một vài bài ít thấy trên mạng.

Khi tôi đưa những trang sách này lên Facebook, có những comment về Nhất Linh và sự kiện 1/11/1963 như sau :
------------------------------------
1. “ Sinh thời Nhất Linh được rất nhiều người tôn vinh, không chỉ đồng chí của ông. Ông được tôn vinh phần lớn vì tài năng xuất chúng, nhưng cũng một phần vì "màn sương mù huyền thoại"ông tạo ra. Chắc chắn ông cũng thích những "huyền thoại"đó, cũng như sự tôn vinh mà người thường cũng như đồng chí dành cho ông. Tuy nhiên, chúng (những "huyền thoại") lại trở thành sức nặng đè lên ông, níu kéo ông khi ông chỉ còn muốn làm một nhà văn... Đó là lúc ông từ Đà Lạt trở về Sài Gòn, khơi lại TLVĐ, ra tạp chí Văn Hóa Ngày Nay, cả hai đều thất bại. Rồi đến biến cố 11/11/1960 (cuộc đảo chánh thất bại) , mà ông được coi là người "thủ lãnh" không chính thức. (Nếu cuộc đảo chánh thành công, thì người đứng ra lãnh trách nhiệm lãnh đạo quốc gia chỉ có thể là NTT)... 
Theo tôi, đáng lẽ ông nên ra trước tòa án, và công khai nhận trách nhiệm, dù có phải đi tù một vài năm... Như thế mới đúng là một lãnh tụ!!!”


2. “...Sự thất bại của chính quyền Ngô Đình Diệm sau cùng có thể viện dẫn bằng duy nhất thái độ cứng rắn hay cứng ngắc của "ông Cố vấn" Ngô Đình Nhu. Là một học giả, thông kim bác cổ, đọc qua thiên vạn pho sách Đông Tây, nhưng chưa từng lăn lộn trong bùn lầy của cuộc sống thực, cuối cùng chỉ có thể dựa duy nhất vào cái đầu mình.
Đó là "công thức" chắc chắn nhất để tự cô lập mình, ngày càng xa rời thực tế. Ngay cả khi mình đúng nhất, lại chính là khi mình sai nhất. Đó là điểm tàn bạo nhất của chính trị! Khi chỉ một mình mình đúng, thì kẻ đó sẽ phải chết cho "chân lý". Không thể nào khác.
Tôi đoán, khác với cụ Diệm, ông Nhu chắc hẳn không bao giờ thực sự đọc hay hiểu phần nào Thánh Kinh. Thánh Kinh truyền dạy rằng có một Chân Lý duy nhất, và đó cũng chính là Thượng Đế. Nhưng cả hai vẫn chỉ là tên gọi, không phải là Đạo. Đạo là bác ái, là tình yêu, là san sẻ hạnh phúc hay khổ đau.
Dưới cái vỏ của một ông quan cựu triều, ông Diệm là người biết thương yêu, sẵn sàng hy sinh bản thân cho dân tộc, nhưng sự thật đó lại bị che lấp bởi bộ mặt lạnh lùng của bào đệ Ngô Đình Nhu, một nhà kỹ trị đúng nghĩa. Một tấm thảm kịch tầm vóc vĩ đại, nhất là khi nó không chỉ cho hai anh em TT Diệm, mà cho cả dân tộc”



3. "Cái chết của NL liên quan mật thiết đến cái chết của TT Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu, nhất là sự cáo chung của nền Đệ nhất Cộng hoà. Tôi từng gọi cái chết của NL là "cái đinh cuối cùng"đóng trên cỗ quan tài của chế độ NĐD! Hậu quả của nó như thế nào thì bây giờ ai cũng rõ. Nó không những không cứu vãn được VNCH chiến thắng cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa CS, mà trái lại vô hình trung đã góp phần không nhỏ vào sự chiến thắng của phe CS... Đó là cái nhìn không khoan nhượng của cá nhân tôi về lịch sử VN cận đại.

Cách riêng, tôi rất "ấn tượng" bởi bài phân tích của Nguyễn Đông Ngạc. Tuy có vài đoạn hơi dài dòng, khiến người đọc có thể thối trí, nhưng bài viết đã nêu lên được một số câu hỏi, nghi vấn về chủ đích thực sự của NL khi chọn cái chết. Tôi hỏi: ngoài việc lật đổ chế độ NĐD, thật sự NL mong đợi gì cho tương lai đất nước? Chỉ biết, ông chết đi, V.N.Q.D.Đ lại thêm chia rẽ, càng đứng bên ngoài công cuộc cứu nước, trước cuộc xâm lăng của chủ nghĩa CS, vào lúc chủ nghĩa này mạnh nhất.

Sau cùng, để tạm kết luận, NL chủ yếu là người dùng ngòi bút để làm cuộc cách mạng xã hội và đã thành công lớn. Ông không mặn mà với chính tri, có lẽ không có năng khiếu đó. Người có thể làm nên lịch sử là nhà văn Hoàng Đạo, người có đầu óc chính trị. Chẳng may, Hoàng Đạo bất ngờ chết trên chuyến xe lửa HongKong - Quảng Châu. Sau đó, cả Nhất Linh lẫn người em út, bác sĩ Nguyễn Tường Bách, đã tuyên bố giã từ chính trị.
Đó là lịch sử. Không ai có thể thay đổi được lịch sử, nhưng có bổn phận phải làm sáng tỏ nó. Lịch sử không của riêng ai, không thuộc về một đảng phái, dòng họ hay cá nhân nào, mà của cả dân tộc, kể cả những người đã khuất hay chưa sinh ra. Hãy nói lên sự thật, hỡi những ai còn chút lòng đoái hoài tới tiền đồ của dân tộc VN!"
------------------

Ngoài báo VĂN của Nguyễn Đình Vượng có thể dễ dàng đọc cái bài trên mạng như
Thì có những bài trên VĂN HỌC cũng rất giá trị…

(Ở đây cần mở ngoặc nói thếm về tạp chí này – trích từ Thư Quán Bản Thảo https://tranhoaithux.wordpress.com/2016/10/10/hanh-trinh-cua-tap-chi-van-hoc-1962-1975/

     Văn Học được ra đời do một số người trẻ nhập cuộc. Họ là những học sinh, sinh viên của các         trường Trung học, Đại học trên toàn quốc, và một số đang du học tại ngoại quốc nhưng đã       cùng nhau chung một lý tưởng thực hiện một tờ tạp chí nghiên cứu và phê bình về văn hóa và chính trị để làm diễn đàn chung cho những thanh niên tự do tại Miền Nam.
Số đầu tiến phát hành vào tháng 11- 1962 trong thời Đệ nhất Cọng Hòa, và số cuối cùng là số Mùa Xuân 75, kéo dài  được 13 năm – số tuổi xem như rất thọ so với các tạp chí văn học miền nam khác  , ngoại trừ chỉ sau  tạp chí  Bách Khoa. Từ số 1 đến số 72 (1-5-67), khổ báo khổ lớn (15×25 cm). Từ số 73 đến số cuối cùng khổ giấy loại nhỏ (14×20 cm).
Hai năm đầu, báo được phát hành mỗt tháng một kỳ, sau đó, báo đổi thành bán nguyệt san, phát hành mỗi nửa tháng một kỳ (kể từ số 21).
Chủ nhiệm đứng tên là Phan Kim Thịnh, nhưng chủ bút thì thay đổi ba lần. Hai năm đầu (1961-1963), chủ bút là Dương Kiền, sau đó chủ bút là Phan Kim Thịnh. Tiếp đến vào năm 1966 là  Nguyễn Đình Toàn (từ số 63 ngày 1-9-66  đến số 69 ngày 15-11-66). Sau đó vai trò chủ bút lại được giao lại cho Phan Kim Thịnh.
Hai năm đầu (từ  số 1 đến số 20), tạp chí nhắm vào thành phần thanh niên sinh viên như tiêu đề trên bìa của tạp chí: Nguyệt san văn hóa xã hội nghệ thuật. Diễn đàn sinh viên Việt Nam tự do.Mỗi số báo đều có mục liên quan đến sinh viên như  Sinh Hoạt Sinh Viên do Trần văn Ngô, Phương Khanh, Hà Thanh phụ trách… Cọng thêm vào những bài viết liên quan đến  những vấn đề  của sinh viên như “vài tâm trạng nghịch thường của thanh niên trước những giá trị xã hội (Dương Nhất Nhân – số 1),  Sinh Viên và trí thức lảnh đạo (Quan điểm, số 2), Chính sách sinh viên (Quan điểm, số 3), cái nhìn của người sinh viên (Nguyễn Vũ, số 4),. Dân chủ hóa nền đại học (Quan điểm, số 5), Chỉ huy hay hướng dẫn (Quan điểm, số 6) hay  mỗi số có mục Vấn Đề của chúng ta ví dụ: Bài trả lời ông Nguyễn Đăng Thục, Khoa trưởng đãi học văn khoa SG của Văn Học(số 4), Nhân các kỳ thi: Đặt lại vấn đề nguyên tắc (số 6) v.v….
Sau số 20, tiêu đề Diễn đàn sinh viên Việt Nam tự do được lấy ra, và nội dung Văn học có tinh cách khai phóng hơn, ảnh hưởng nhiều bởi thời sự. Sau 1965 chiến cuộc càng lúc càng leo thang, những người cọng tác viên trẻ phải vào quân ngũ, hay xa Saigon, để lại một khoảng trống lớn cho Văn Học. Cọng vào sắc luật 007 đã khiến chủ trương của Văn Học từ một tờ báo chính trị văn học đổi sang một tờ báo thuần túy văn học kể từ năm 1968” )
Nhìn vào những số Văn Học có nhắc đến Nhất Linh cũng là nhìn lại một đoạn đường lịch sử với những sự kiện liên quan đến chính thể Đệ Nhất Cộng Hoà và sự kiện 1/11/1963.

Số 9 (tháng 7 / 1963) chỉ một bài TƯỞNG NIỆM NHẤT LINH của NGUYỄN MẠNH CÔN, đến 4 tháng sau, khi báo đã lên khuôn thì xảy ra sự kiện 1963 – ngay lập tức những trang hồng perlure được thêm vào và lần này, NHẤT LINH được nhắc lại một cách trang trọng.

Số 41 VĂN HỌC (ra đúng ngày 7/7/1965) có bài của NGUYỄN ĐÔNG NGẠC (*) “Vài thắc mắc về Nhất Linh” , bài “Ít hàng về Nguyễn Tường Tam” của NGUYỄN QUÂN .

Tạp chí VĂN số 14 (7/7/1964) có một bài thơ Tưởng Niệm Nhất Linh của Trần Như Liên Phượng thì..ngậm ngùi thay số VĂN 37 Thương Nhớ Nhất Linh (7/7/1965) chúng ta thấy một trang AI TÍN thông báo về cái chết của chính nhà văn / nhà thơ / người lính này!
Và cũng trong số VĂN 37 này có một truyện ngắn liên quan đến Nhất Linh của Nguyễn Đăng (một bút danh khác của Mai Thảo) viết.

(*) Về nhà văn Nguyễn Đông Ngạc, nổi tiếng trong vai trò chủ nhà xuất bản SÓNG với tập truyện tuyển tập NHỮNG TRUYỆN NGẮN HAY NHẤT CỦA QUÊ HƯƠNG CHÚNG TA :
http://www.luanhoan.net/tacpham/hoikyroi/NguyenDongNgac.htm


Xen kẽ trong thời gian đứng trên bực giảng, bàn chân Nguyễn Đông Ngạc thơm tho cỏ đất trường đua ngựa và bàn tay anh trải ra những luống chữ trên Hành Trình, Nghệ Thuật, Quần Chúng, Đất Nước, Văn Học...Cuộc sống phơi phới đào hoa của Ngạc bỗng bị neo giữ trong tay chị Nguyễn Thị Nga, đốc sự Quốc gia Hành Chánh, ái nữ của bà Nguyễn Thị Thế, em gái nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Nguyễn Đông Ngạc từ giã cuộc sống độc thân năm 1964, nhưng không tạm biệt những cuộc tình. Lãng mạn nhưng không trác táng. Dựa vào ưu điểm của quán sách Khai Trí, do bố mẹ anh gầy dựng tại Bình Dương (không phải Khai Trí của ông Nguyễn Hùng Trương tại Sài Gòn), Nguyễn Đông Ngạc cho khai sinh nhà xuất bản Sóng, tung ra thị trường chữ nghĩa miền Nam trước 1975 các tác phẩm: Chuyện Tình (Love Story của Erich Segal), Một Ngày Cho Người Yêu (Goodbye Columbia của Philip Roth), Những Cuộc Tình Không Trở Lại (tuyển tập nhiều tác giả ngoại quốc), Buổi Sáng Cuối Cùng (Women In Love của D.H.Lawrence). Các tác phẩm này đều do bà Phan Lệ Thanh chuyển sang Việt ngữ. Công trình đồ sộ nhất trong các tác phẩm do nhà xuất bản Sóng của Nguyễn Đông Ngạc phát hành là tuyển tập Những Truyện Ngắn Hay Nhất Trên Quê Hương Chúng Ta, được đến tay bạn đọc năm 1973. Để thực hiện tác phẩm văn học này, Nguyễn Đông Ngạc đã phải dồn hết tâm sức lẫn tài chánh. Từ việc xin bài, gom bài đến nhờ chụp bắt chân dung từng tác giả, Nguyễn Đông Ngạc đều đích thân lo tận tình, chu đáo"

huyvespa@gmail.com


IMG_2778IMG_2847IMG_2848IMG_2849IMG_2850IMG_2851IMG_2852IMG_2853IMG_2854IMG_2855IMG_2856IMG_2857IMG_2858

SỐ KỶ NIỆM ĐỆ NHẤT CHU NIÊN  (11/1963) (mất bìa), mở đầu bằng THƯ TOÀ SOẠN - sau đó được insert thêm vào những trang về NHẤT LINH

IMG_2826IMG_2827IMG_2828IMG_2823IMG_2824IMG_2825IMG_2784IMG_2785IMG_2786IMG_2859IMG_2860IMG_2861IMG_2862IMG_2863IMG_2864IMG_2865IMG_2866IMG_2867IMG_2868IMG_2869IMG_2870IMG_2871IMG_2872IMG_2873IMG_2874IMG_2875IMG_2876IMG_2877IMG_2878IMG_2879IMG_2880IMG_2881IMG_2882IMG_2883IMG_2884IMG_2885IMG_2886IMG_2887IMG_2888IMG_2889IMG_2890IMG_2891IMG_2892IMG_2893IMG_2894IMG_2895
IMG_2896IMG_2897IMG_2898IMG_2899IMG_2900IMG_2901IMG_2902IMG_2903IMG_2904IMG_2905IMG_2906IMG_2907IMG_2908IMG_2909IMG_2910IMG_2911IMG_2912IMG_2913IMG_2914IMG_2915IMG_2916IMG_2917IMG_2918IMG_2919page visitor counter
who is online counterblog counter

MYTHOlogy MYTHO - đi vào vùng trăm năm

$
0
0

Đi vào xứ-thần-thoại Mỹ Tho (nơi sinh của Phạm Công Thiện và như ông viết trong #đichohết1đêmhoangvutrênmặtđất ông sinh ra từ trong thần thoại vì Mytho chính là viết tắt của Mythology)
Đường từ Gò Công qua Mỹ Tho như 1 tour nhà cổ, thánh thất , đình (có 1 ngôi đình thờ tả quân Lê Văn Duyệt - nay vừa tròn 111 tuổi).

P/s: nhớ những chuyến phà nên nghĩ ra 1 vế đối Qua qua phà phà phà (mời bạn đối:)


Đi qua những "di sản" hồn Việt, gom góp lại các bài báo gần đây giới "trí thức" Việt Nam lên tiếng để bảo vệ di sản từ Bắc chí Nam và post lên đây để lưu trữ!


TRƯỜNG GIANG MỸ THO
(PHẠM CÔNG THIỆN)

1.

thôi nôi con trường giang mọi rợ
tôi mọi mãi mỗi trường an
con diều hâu chạy bắt con chim
con chim lòn qua kẽ núi
lọt ra gió Hải Nam thổi hiu hắt về Trường Sơn.
nước trường giang mẹ ru chim ngủ
con lớn khôn rồi bỏ mẹ bay xa
cha con già trường sơn con ơi
trường giang đi chảy mãi nửa đời
trường sơn già ngồi đứng hứng mưa
mưa đi từ dưới chân đỏ bồ câu thượng thuỷ tây hồ
con lớn khôn rồi quên đất quên sông
con sông nào Cửu Long chảy từ thượng tứ
Mỹ Tho buồn thây chết trôi sông
súng nổ bên cầu quay
mẹ bồng con đóng cửa
lính Tây Dương đang say rượu giao thừa
bông cúc vàng đầy sân ướt máu
ba con già con trẻ đi xa
súng nổ trên mái lầu
nhà cháy bên hông
mấy dì con chơi tứ sắc
con còn nhỏ quá con ơi


2.

thôi rồi thằng trường giang mọi rợ
tôi mọi mãi nỗi lang thang
con chim trĩ xưa đỏ nuôi cá lia thia
cá phượng mái đẻ ra một bầy trứng
và rong rêu xanh kỳ lạ ao hồ
trốn học bị cha còng cẳng
bầu cua cá cọp mỗi năm buồn
càng lớn lên càng thấy Tết bơ vơ
bông mai nở trên đầu cây chợ vắng
dưa hấu làng hiu hắt nắng ba mươi
súng nổ bên cầu quay
mẹ tôi bồng con chạy trốn
giặc Lê Dương đang say rượu
thằng bé con có biết gì đâu
chim bay nhiều chiều nay Toulouse
tôi uống từng chùm nho đỏ
còng cẳng tôi trên thượng tuý thu hồ
người dượng bị Tây bắn
xác nơi đâu hai con nhỏ bơ vơ
bà ngoại đi tìm thây chẳng thấy
mười năm sau tôi bị còng cẳng ngục tù
mẹ tôi đến thăm
đem theo một gà mên cơm nóng
mẹ tôi khóc
tôi nhìn sông Cửu Long chảy
đừng như dượng con ơi
tôi nhìn sông Cửu Long chảy
tôi đúng rồi trường giang mọi rợ
mẹ hãy về đi và hãy bỏ con đi
mẹ tôi khóc
đừng như dượng con ơi
yêu nước làm gì để hai con nhỏ bơ vơ
tôi nhìn trường giang chảy
mẹ hãy đi về
người công an già gác cổng
cậu rất lạ kỳ
sau này cậu có làm lớn
hãy nhớ đến tôi
tôi nhìn trường giang chảy
tôi chỉ muốn làm con chó
chạy giỡn mưa trường giang sa


3.

rồi từ ấy trường giang lại càng mọi rợ
khi chảy khi bay
khi thượng đỉnh đìu hiu khi trác táng
đến tận màn sân khấu
vẫn nhớ những buổi hát bội quê nhà
kèn trống cải lương đứa con nít ngó cô
đào trang điểm
từng dưới hầm nhà hát Mỹ Tho
cô đào chửi đ... má
đứa con nít đ... hiểu gì hết
mà chỉ nhớ tô hủ tiếu phổi bò
nó bắt gặp một sáng khi cô đào chổng
cẳng ăn gãi ngứa
tấn tuồng sao quá lạ
tôi không hiểu
nhưng sao mà quá đỏ nóng
như một triệu côn trùng loé sáng
tôi bắt mỗi đêm
trong bao diêm
cho tôi những tràng dưa hấu
quá đỏ
quá đỏ
những ngày trước tết
biển nha trang trời sinh cát hạ
đọc thơ Ba tiêu cho Quách Tấn nghe
cây mận đẻ hoa thằng Mỹ Tho nằm võng
từ Ô Y hạng Quách Tấn tỉa thơ
ta đ... biết gì hết
đạp xe đạp ngồi ra bãi biển
ngó cái gì chỉ thấy mây bay
trường giang chảy đại dương bại trận
Quách Tấn buồn bông cúc đơm hoa


4.

thôi rồi thôi trường giang mọi rợ
tôi mọi mãi nắng chiều Ban Mê Thuột
Hoàng Kiều ơi em đã đi xa
buồn xóm cũ chiều xưa chưa tỉnh dậy
Buon Brieng và Bon Sar Par
Kontum và Pleiku chiều nay cỏ mọc
Bu Prang và Ban Don ở nơi đâu
tìm thượng tứ té ra hạ thế
gió chiều nay Toulouse máu đỏ
hai đứa con bây giờ ở nơi đâu?
dượng của anh bị Lê Dương bắn chết
người con gái nằm trôi thây trên bãi lạ
chiều nay
chim bay quá nhiều
chuyện đời xưa không còn nữa
như mãn đã chết
treo thây trên hàng rào
Hoàng Kiều ơi đâu nữa là Thu Uyên
em còn quá nhỏ
rừng xưa chim lặng tiếng
hãy đóng cửa
Long Khánh
hãy đóng cửa
con trâu vừa bị chém
trường giang ta sẽ ru em ngủ
máu đêm xưa thương em từng trận mưa rào
bồ câu buồn gáy lại năm xưa
mái chùa cũ Đà Lạt chiều tận thế.


IMG_7317IMG_7332
IMG_2999IMG_7364IMG_7431IMG_7456IMG_7457IMG_7459IMG_7460IMG_7461IMG_7462IMG_7464IMG_7466IMG_7467IMG_7471IMG_7473IMG_7479IMG_7480IMG_7486IMG_7493IMG_7498IMG_7500IMG_7501IMG_7503IMG_7507IMG_7509IMG_7290IMG_7368IMG_7369IMG_7370IMG_7389IMG_7399IMG_7402IMG_7423IMG_7424IMG_7434IMG_7441

IMG_3004IMG_3102IMG_7265IMG_7307IMG_7310 Các bài báo
IMG_2318IMG_2319IMG_2320IMG_2321IMG_3211IMG_3212IMG_3213IMG_3214IMG_3215IMG_3216IMG_3217IMG_3218IMG_3219IMG_3220IMG_3221IMG_3222IMG_3223IMG_3224IMG_3225IMG_3226IMG_3226IMG_3227IMG_3228IMG_3229IMG_3230IMG_3231IMG_3232IMG_3235IMG_3236IMG_3237IMG_3238IMG_3239IMG_3240IMG_3241IMG_3242IMG_3243
page visitor counter
who is online counterblog counter

Tạp chí Văn trước 1975 - Quê Hương Trong Trí Tưởng

$
0
0
1. Album này sẽ dùng để update những gì liên quan đến Tạp chí Văn trước 1975, nhưng chỉ trong hai loại : Tập San Văn (hay còn gọi: Văn đánh số/ Bán nguyệt san) & Giai Phẩm Văn . Sẽ không bao gồm Tân Văn, Văn Uyển, Văn nghiên cứu, “các sách phổ thông” do cơ sở Văn xuất bản (thật ra vì chưa có đủ)

Theo 1 vài list thống kê, Văn đánh số bình thường khoảng 210 số, Văn Giai phẩm ra ngay sau đó có 57 số, tổng cộng là khoảng 267 số (tính từ số đầu 1964 đến số cuối ra vào 26/03/1975)
Mình may mắn sau bao nhiêu năm sưu tầm được gần đủ bộ (từ thời sinh viên cách đây trên 10 năm), trong tổng 267 cuốn như thống kê trên , còn thiếu khoảng 20 mấy cuốn (trong đó nổi bật và cần tìm nhất là các giai phẩm Đường Bay Nghệ Thuật, Phiến Đá Chưa Mòn (hình như 2 quyển này là 2 số liên tiếp nhau), Mưa Khóc Tan Mùa, số Xuân Canh Tuất 1970…và 1 vài cuốn giới thiệu tác giả rải rác khác) (nên nếu có quới nhân nào đi ngang thấy, có dư, xin phò trợ) 

2. Tuy nội dung các tác phẩm trong series Văn hầu hết nói về cuộc chiến điêu linh / quê hương điêu tàn nhưng với post này, tôi muốn giới thiệu các quyển gọi tên chính xác các điạ danh của quê hương ngay trên tên của Giai Phẩm viết trên bìa (Việt Nam, Hà Nội, Huế, chợ Trúc, thành Nội...) (cũng như là một minh hoạ cho tên của album này Tạp chí Văn - Quê hương trong trí tưởng)
... Và hầu hết các quyển đề cập ở trên đều nói về sự kiện bi thảm Huế Mậu Thân 1968 - tôi có post 1 vài bài ở đây - chủ đề “50 năm Tết Mậu Thân Huế - "ai giải oan ai sử nợ này?"
http://huyvespa.blogspot.com/…/50-nam-tet-mau-than-hue-ai-g…
(xem thêm hình comment sẽ là phần mục lục của từng cuốn)

3. Những quyển Giai Phẩm Văn thường lấy tên rất thơ & rất gợi (có 1 vài quyển tên 3 chữ như Mưa đầu mùa, Mưa cuối mùa, Mây mùa thu….hoặc 5 chữ như Đường bay của nghệ thuật, Mảnh vụn trong hồn người…), nhưng đa số sẽ là tên 4 chữ như : Viết trong khói lửa, Mịt mờ thức mây, Như nước trong nguồn, Đầu mùa nắng lửa, Lệ đá đêm sâu, Về nhánh sông xưa, Trên ngọn sầu đông, Mưa khóc tan mùa, Trong nỗi buồn vàng, Đi giữa mùa Thu, Tiếng hát lên trời, Khi mùa mưa tới , Đầu xuân lộc mới (thường là tên của giai phẩm sau các số Xuân)… (sẽ trở lại chủ đề này trong những post tương lai)

4. Trên blog Nhị Linh gần đây có tổng hợp các quyển Văn có truyện dài UNG THƯ của Thanh Tâm Tuyền: http://nhilinhblog.blogspot.com/20…/…/ung-thu-doan-cuoi.html mình cũng có dự định sẽ tổng hợp các truyện dài đã đăng trên Văn nhưng chưa từng xuất bản như Thăng Ca (Tuý Hồng), Đêm xóm Lách mịt mùng (Thanh Tâm Tuyền), Hôn Thụy (Tô Thuỳ Yên) (nghe nói tựa đề truyện này nghĩa là Hôn…(Nguyễn Thị) Thuỵ (Vũ) (cũng là...vợ cũ của ông) nhưng theo trong các bài phỏng vấn, ông phủ nhận chuyện này mà chỉ nói đó là cách dịch thoát nghĩa của việc chìm sâu vào hôn mê in the coma).
Trước đây cũng đã làm “động tác” này với truyện Người Con Gái Ngồi Đợi Một Chuyến Tàu Về của Duyên Anh trên Tuổi Ngọc http://huyvespa.blogspot.com/…/nguoi-con-gai-ngoi-oi-mot-ch…
To be continued...
No automatic alt text available.

No automatic alt text available.



No automatic alt text available.


Image may contain: 1 person

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.


No automatic alt text available.

Giai Phẩm Văn (số đầu ra 28/09/1972 – ngay sau loạt Văn đánh số & số cuối ra vào 26/3/1975) có một số quyển trang bìa là hình ảnh của những văn nghệ sĩ miền Nam do Trần Cao Lĩnh chụp. Những hình ảnh này sau này xuất hiện trong quyển sách kinh điển “NHỮNG TRUYỆN NGẮN HAY NHẤT CỦA QUÊ HƯƠNG CHÚNG TA”.
GIAI PHẨM VĂN số ngày 10/06/1974, một bài phỏng vấn rất đặc biệt với người-ảnh TRẦN CAO LĨNH (xin đọc ở đây http://huyvespa.blogspot.com/…/tran-cao-linh-cuoc-trien-lam…) xoay quanh những bức chân dung có-một-không-hai và vĩnh viễn là một-đằm-thắm-kỷ-niệm đối với những người yêu văn học miền Nam (những bức ảnh cho cuộc triển lãm "sắp tới" và vĩnh-viễn-không-bao-giời-tới ; những bức ảnh xuất hiện đầy "ám ảnh" trong tuyển tập trên) – trong đó nhiếp ảnh gia trần tình chia sẻ những câu chuyện rất thú vị về dự định, về góc nhìn trong nhiếp ảnh, về "chân dung" của những người bạn thiết, về dự án một quyển sách cho Saigon với nhà văn Mai Thảo, đặc biệt những cảnh huống bất ngờ và thú vị đã cho ra đời chân dung của “những nhà văn hay nhất của quê hương chúng ta “ - và vĩnh viễn tạc vào lòng độc giả những ảnh hình, những không khí "nghe thấy kiếp xưa bước nhẹ về".
Trong số giai phẩm Vĩnh biệt Nguyễn Đức Quỳnh có 2 bài điểm sách đáng chú ý của Nguyễn Quốc Trụ Quoc Tru Nguyen, 1 là điểm quyển NHỮNG TRUYỆN NGẮN HAY NHẤT … (như đã nói ở trên) & điểm quyển CUỘC TÌNH TRONG NGỤC THẤT (Nguyễn Thị Hoàng) (có thể đọc truyện này ở đây: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12158&rb=08) , về bài điểm sách này, Nguyễn Quốc Trụ có chia sẻ “Trong cái "nghiệp" phê bình của tôi, tôi đã đụng độ với quá nhiều người…Thí dụ như lần đụng độ với Nguyễn Thị Hoàng, khi bà xuất bản cuốn Vào Nơi Gió Cát. Tôi đang giữ mục điểm sách cho phụ trang Văn Học Nghệ Thuật của nhật báo Tiền Tuyến. Trang báo do Thanh Tâm Tuyền phụ trách (sau ông giao lại cho Huỳnh Phan Anh và tôi; Huỳnh Phan Anh, sau bực bội với thằng bạn "láu cá' Bắc-kỳ, cũng dãn ra). Nguyễn Thị Hoàng vừa thành lập nhà xuất bản, làm một tuyển tập truyện ngắn, trả tiền nhuận bút rất xôm, có thể nói là cao nhất, so với các nhà xuất bản khác. Tôi cũng được mời tham gia. Ngoài tiền nhuận bút còn một bữa ăn linh đình, như để giới thiệu tuyển tập truyện ngắn và nhà xuất bản. Rồi tới Vào Nơi Gió Cát.
Cuốn truyện quá tệ, nhưng chưa tệ hại bằng bài điểm sách. Sau khi tóm tắt nội dung phần đầu, tôi kết luận: phần đầu cuốn sách, theo tôi thật là khủng khiếp! (Chấm xuống dòng đàng hoàng!).
Và sự khủng khiếp cứ thế kéo dài cho đến hết cuốn truyện.
Chưa hết, người phụ trách trang báo lại tỏ ra rất thích từ "khủng khiếp". Ông cho đăng, dưới cái tít: Văn Chương Khủng Khiếp.
Nguyễn Thị Hoàng hết sức giận dữ về bài viết. Nhưng thật khác người, bà trả lời sau đó bằng tác phẩm Cuộc Tình Trong Ngục Thất. Đây là một tác phẩm tuyệt vời nhất, nói "không" về cuộc chiến, theo tôi. Hình ảnh một người đàn bà, một người vợ tất tả chạy ngược, chạy xuôi, trong địa ngục để cứu chồng. Một ấn bản khác về chàng Orphée. Tôi lại là người được cả hai người, là Thanh Tâm Tuyền và Mai Thảo, trao cho vinh dự viết bài điểm sách…: Nếu Dostoevsky muốn kéo Thượng Đế xuống cho ngang bằng con người, ở đây Nguyễn Thị Hoàng muốn kéo địa ngục lên ngang tầm trái đất....”
To be continued...
Image may contain: 2 people


Image may contain: 5 people, people smiling

No automatic alt text available.

Image may contain: text

 Image may contain: text

No automatic alt text available.


No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.


Tập san Văn (số 85 ra ngày 1/7/1967) giới thiệu về Marcel Proust (cũng như dịch giả/ nhà văn/ hoạ sĩ...Hoàng Ngọc Biên) Bien Hoang - những trích đoạn dịch hoặc bài giới thiệu về tác giả này có thể tìm trên mạng, tôi muốn giới thiệu về Hoàng Ngọc Biên - có thể được gọi là nhà “Marcel Proust học” cũng không ngoa, như cũng thấy phần lớn các bài trong số Văn này đều là của tác giả Thành Phố Dốc Đồi - là một trong những truyện ngắn tôi thích nhất , cũng...trong 1 trong những quyển sách tôi thích nhất (Đêm Ngủ Ở Tỉnh - Nxb Cảo Thơm - Saigon - 1970) (có thể đọc ở đây:
https://huyvespa.blogspot.com/…/tim-nhau-nhu-thien-co-tim-n… )
Thành Phố Dốc Đồi (cũng như những truyện khác của tác giả này) cho độc giả một cảm giác không suy nghĩ về bất cứ thứ gì (& mặc dù đó cũng là điều (để) phải-suy-nghĩ), chỉ mặc cho tâm tưởng trôi theo những cảnh vật, những frame-by-frame của "hoàn cảnh"
Thành Phố Dốc Đồi là 1 trong những truyện ngắn nhiều "sắc màu", nhiều khung hình, nhiều miêu tả...ẩn sâu dưới vẻ (tưởng chừng như) điềm tĩnh của nhân vật chính trôi qua một cảnh huống (tưởng chừng như) đơn giản trong "kinh nghiệm" riêng của chính mình và những cách xoay sở riêng để "vượt qua" hay "chấp nhận" cảnh huống ấy...
Một truyện không có chuyện, chỉ là 1 lời tự sự, 1 im lặng thở dài, của 1 cô gái, về mối tình đã qua của mình...nhìn cảnh mà nhớ người..cảnh vật của 1 thành phố dốc đồi như trút tràn những nhớ thương, chập chùng những bóng hình và cũng chếnh choáng theo heo hút của từng kỉ niệm, kỉ niệm bủa vây lấy cô gái, từ một thanh âm nhỏ nhất cho đến những "tiếng động nào gõ nhịp khôn nguôi", những đổi thay bâng quơ, những xáo động như-nó-phải-là...
5 "truyện" trong Đêm Ngủ Ở Tỉnh vẫn một giọng văn đều đều như vậy, xuôi chảy theo dòng ý thức với giàu hình ảnh và cả chất thơ... trao cho độc giả những "mê đắm" xúc cảm (nếu có) tự thân rất thú vị.
Hãy cùng du hành trong một "chuyến đi" không định trước ở một "thành phố dốc đồi" không định vị cùng một nhân vật không danh tính...để cuối cùng … chỉ còn là…
./.
Trong số Văn Marcel Proust cũng có một bài “phê bình” đáng chú ý đó là bài-phê-bình “phê bình” về một bài phê bình khác : tác giả Nguyễn Phúc Bửu Sum “đáp trả” bài “nhân đọc Vòng Tay Học Trò, gửi Nguyễn Thị Hoàng” của Lê Nguyên Trung trên Tin Văn...với những lập luận đanh thép, nhiều yếu tố dựa trên “luân lý” (nhưng là luân lý nào?!?), đạo đức ?!?, triết thuyết...
(Nguyễn Phúc Bửu Sum cũng chính là chồng của nữ nhà văn Nguyễn Thị Hoàng)
(Để “đáp trả” Vòng Tay Học Trò, Mai Tiến Thành - được xem như nguyên mẫu của nhân vật Minh trong truyện - đã viết Tiếng Nói Học Trò... nhưng tôi chưa từng thấy qua quyển này?!?)
To be continued...

Image may contain: 1 person


No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

Image may contain: text
No automatic alt text available.


No automatic alt text available.

No automatic alt text available.


No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.


No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.


No automatic alt text available.

No automatic alt text available.


Part 1: Quê Hương Thu Nhỏ 
https://www.facebook.com/huyvespa/posts/10204872612331003?__tn__=-UC-R

Part 2 : Giai Phẩm Văn với hình bìa các văn nghệ sĩ qua ống kính Trần Cao Lĩnh
https://www.facebook.com/huyvespa/posts/10204883353599528?__tn__=-UC-R 

Part 3: Tập san Văn (số 85 ra ngày 1/7/1967) giới thiệu về Marcel Proust 
(và những bài liên quan đến Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Thị Hoàng)
https://www.facebook.com/huyvespa/posts/10204890373815029?__tn__=-UC-R 
...


page visitor counter
who is online counterblog counter

Tạp chí Văn - 4 số báo về "hiện tượng văn chương nữ"

$
0
0

Có ít nhất 4 số chuyên đề các tác giả nữ của miền Nam trước 1975 trên VĂN – được xem như là hiện tượng đáng lưu ý của văn đàn miền Nam trước 1975, “bằng lối viết đường hoàng không mặc cảm, bằng ngôn ngữ có da thịt và hơi thở đời sống hàng ngày, tránh thoát được vấn đề trí thức họ chẳng bận tâm kiếm tìm và đứng lại, những nhà văn nữ SỐNG ĐƯỢC TỚI ĐÂU VIẾT TỚI ĐÓ…”, mỗi tác giả nữ lúc bấy giờ có thể là từng bà hoàng của mỗi năm tiểu thuyết/ thơ ca.
Số đầu tiên sớm nhất là số 13 vào năm 1964 với chủ đề THƠ VĂN NỮ LƯU, lúc này Nguyễn Thị Hoàng đang nổi đình nổi đám với VÒNG TAY HỌC TRÒ đăng từng kỳ trên BÁCH KHOA, trong VĂN số này, Nguyễn Thị Hoàng xuất hiện với 2 bài thơ và 1 truyện ngắn, thơ Nguyễn Thị Hoàng tả một Sài Gòn “hoa lệ” (sorry, từ này dạo gần đây BỊ dùng hơi “sáo” và “lạm dụng”) và qua gương mặt thẳm sâu của thành đô, độc giả khẽ chạm vào miền sâu thẳm khác của những người tình lỡ …
Các số tiếp theo về thơ văn của làn sóng tác giả nữ có thể kể đến Văn năm 1972 “Bàn tròn giữa TÁM TÁC GIẢ (nam) nói về thế giới tiểu thuyết của các nhà văn nữ Việt Nam” (Huỳnh Phan Anh - Nguyễn Nhật Duật - Mặc Đỗ - Nguyễn Xuân Hoàng - Viên Linh - Dương Nghiễm Mậu -Mai Thảo - Nguyễn Đình Toàn)

Tiếp theo, quyển Văn chủ đề “Năm Nhà Văn Nữ nổi tiếng nhất của văn chương tiểu thuyết hiện nay” 1973 (với 5 hí hoạ chân dung 5 nhà văn nữ đang “thịnh” của Choé và các bài phỏng vấn rất “thật”, thú vị và hé lộ nhiều chuyện “bếp núc” của các nhà văn nữ) (sẽ post đầy đủ các bài phỏng vấn này vào post kế tiếp)
Số thứ tư nhắc lại về “làn sóng” này là Giai phẩm đầu năm 1975 - “Đặc biệt văn chương nữ giới 1975”
Trong số những tác giả nữ trên, tôi thích nhất nhà văn Nguyễn Thị Hoàng. Post lại 1 bài “tản mạn” cũ về Văn Nguyễn Thị Hoàng trên tạp chí Văn

Image may contain: 4 people, people smiling

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

Image may contain: 2 people

No automatic alt text available.


No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

Image may contain: text


Image may contain: text

Image may contain: text

Giai phẩm VĂN (16/07/1973) - “Năm Nhà Văn Nữ nổi tiếng nhất của văn chương tiểu thuyết hiện nay”
“Quảng Trị với vài năm tản cư thời 45 còn văng vẳng tiếng hát biên khu. Huế như một rừng bươm bướm kỷ niệm vỗ cánh lao xao hoài trong trí nhớ tuyệt vời Đà Lạt khoảng sương mù quá vãng . Sàigòn cay nghiệt và mê say sống thường trực trong hồn những ngày xa vắng. Và Hồng Kông thơm mùi hương đêm lục địa. Và Đài Bắc choáng ngợp hoa hồng vàng…Thôi đừng nhắc, lại thèm bay đi, bay đi…
Bây giờ? Phải về Sài Gòn. Còn dự định lớn? Hoàn thành định mệnh như trời muốn.”
(Đi xa với NGUYỄN THỊ HOÀNG – “Giai Phẩm Văn” phỏng vấn)
“Dùng dục tính làm phương tiện diễn tả tâm trạng khao khát nhục thể thì là một việc làm có tính cách nghệ thuật. Viết về vấn đề dục tính để kích thích sự ham muốn nhục dục cho độc giả thì thà là làm kẹo hoặc chocolate để cho khách làng chơi hâm sôi cảm hứng lúc ăn nằm còn đỡ mang tội với Trời Phật hơn”
“Hình như tôi thường nghiêng nặng về những nhân vật cynique hơn là những nhân vật sống hợp lý với cuộc đời…Có lẽ tôi sống giữa lũ bạn bè cynique nhiều quá chăng?”
(Nói chuyện với THUỴ VŨ – DU TỬ LÊ Tuyen Phan phỏng vấn)
“Nếu không thể coi nhân vật tiểu thuyết Trùng Dương chỉ là những mẫu người tình, cũng không thể coi nhân vật tiểu thuyết Trùng Dương là những mẫu người nổi loạn trước đạo đức hay thời thế. Đó chỉ là những mẫu người tự đánh mất niềm tin để vật vờ trong thân phận trôi dạt cô đơn. Một trong những tác phẩm của Nguyễn Thị Thuỵ Vũ đã được đặt tên là Thú Hoang. Đây là biệt danh được dùng để mô tả lớp người trẻ xục xạo tìm kiếm tình yêu trong cuộc sống gò bó của một tỉnh lẻ cổ lỗ. Có lẽ người ta nên gán biệt danh này cho hết thẩy các nhân vật của Trùng Dương”
(TRÙNG DƯƠNG & tác phẩm – UYÊN THAO nhận định)
“Việc “viết trong ám ảnh thị hiếu độc giả”, tôi xin trả lời là : luôn luôn. Một lần trên báo Chính Luận, có một nữ giáo viên liệt kê các khoản chi tiêu cần thiết để đối chiếu với số lương của cô, trong đó có khoản đề là “mua nhạc Trịnh Công Sơn, mua sách Nhã Ca”. Tôi đã bần thần mất nhiều ngày. Tôi không biết anh TCS nghĩ sao, riêng tôi, tôi thấy rõ mình có bổn phận phải đáp ứng xứng đáng việc những người đọc quí giá đã phải dành một phần đồng tiền lương thiện để đổi lấy những cuốn sách của mình . Tôi thành thật nghĩ rằng mình không bao giờ sẽ trở thành một loại nhà văn cho là mình đủ lớn đến độ phải khinh thường người đọc.”
“Đã đến lúc người ta trở nên khôn ngoan hơn, nhận định được sứ mệnh của cuộc đời một cách sang suốt hơn. Sống đâu phải là tạo dựng những kỳ công và gục xuống trên một cái chết không thường. Sống đâu phải là đặt ra những vấn đề và ray rứt và thao thức. Vấn đề duy nhất của cuộc sống chính là sống vậy. Và sống? – Là cảm thấy thiên thu trong mỗi phút giây. Là cảm thấy thiêng liêng trong từng hành động nhỏ. Như ăn uống nằm ngủ. Như chải đầu soi gương. Như động phòng hoa chúc. Như ngủ giấc ái tình. Như sinh con đẻ cái. Như sung sướng. Như âu lo. Lo từ trời sụp lo đến con bò cười không biết đắng rang bằng kem Hynos. Sống là biết yêu thương đời, yêu thương mình và là biết gọi: “Ta ơi ! Ta ơi!” một cách âu yếm và bi thiết. Sống là biết đi chợ mua cá mua rau, mua gạo mua quà, mua nhà mua cửa. Sống là biết mơ mộng và làm việc và lang thang. Và là biết hát hỏng nghêu ngao: “Khi chót yêu người rồi, xa cách nhau vì đời, ự ứ ư ứ ư… trong một thói quen không thể bỏ được.
Chính lúc đó chúng ta có Tuý Hồng. À quên Tuý Hồng hiện ra. Với một màu hồng thật, một màu hồng thật say.”
(Bút pháp TUÝ HỒNG – NGUYỄN HỮU HIỆU nhận định)

Full các bài phỏng vấn có thể đọc trên facebook : 

Image may contain: drawing

Image may contain: drawing


Image may contain: drawing


No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

Image may contain: text


Image may contain: text



Image may contain: text

No automatic alt text available.



No automatic alt text available.




page visitor counter
who is online counterblog counter

MAI THẢO & tạp chí Văn (Saigon, pre-1975)

$
0
0
Trong những số cuối cùng của Văn, đáng chú ý là những bài (dạng) NHẬT KÝ của MAI THẢO , những kỷ niệm rời, những dấu ấn hiu hắt “buồn vào hồn không tên” kéo dài từ Tết đến những ngày “gần cuối”, một phong cách rất mai-thảo …
Một không khí rất văn-nghệ, rất Sài-gòn, rất miền-Nam…của một thời thành phố vẫn còn là một êm đềm thủ đô... không những về mặt địa lý mà còn là thủ đô trên danh nghĩa đồn trú của văn chương - nghệ thuật...
Và thấy... vẫn là 1 Mai Thảo sống riêng với niềm ẩn mật...một mình của mình; “Sớm ra đi sớm hoa không biết / Đêm trở về đêm cành không hay / Vầng trăng đôi lúc tìm ra dấu / Nơi góc tường in cái bóng gầy.”, vẫn là một Mai Thảo bắt những con chữ xoay những lả lướt valse hay dặt dìu boston, những nhịp thơ (thơ thẩn hay thơ mộng ?!?) lăn theo chân trên hè phố & rồi gieo vào lòng độc giả những say mê, những bùi ngùi, những kỷ niệm ngày cũ, và những rung động thầm kín...một lần được thức dậy!
Nói về những tao nhân mặc khách, chỉ với vài ba chữ, dăm phác hoạ…mà thành ra là một vĩnh viễn thương yêu:
“Tuý Hồng mội kiếp sữa tươi. Lệ Hằng một đời trà đá. Trùng Dương thuốc lá rượu mạnh…Nguyễn Thị Ngọc Minh ba máu sáu cơn về Tri Hành học kịch. Nhỏ này viết thật tợn mà nhát như thỏ…Những người đàn bà muôn đời. Những Messaline quỷ cái, những Juliette thiên thần, những nhăn mặt Tây Thi, những Ngu Cơ soã tóc…”
Vẫn những con đường, những việc làm hàng ngày, những bữa ăn, những cuộc rượu…nhưng với tài văn và niềm-mẫn-cảm của một tâm-hồn-thơ, bẳng những “nghĩ thầm thầm” (chữ của ông), bằng thu hết vào lòng những “im phắc lớn”, bằng “nhập thế” và là một với hồn cốt của thủ đô, …Mai Thảo chạm khắc lại những khoảnh khắc thường nhật đó thành những chân dung trác tuyệt, bằng những dòng văn ngẫu hứng điệu nhạc jazz trầm uất…
Số cuối cùng, trang cuối, giới thiệu những tập sách sẽ ra mắt, với dự án NHẬT KÝ MAI THẢO - Quyển sách dang dở và sau này, một cách nào đó, được nối tiếp bằng SỔ TAY MAI THẢO trên VĂN hải ngoại. ( http://huyvespa.blogspot.com/…/mai-thao-thanh-tam-tuyen-ngu…
P/s:
Văn số cuối (26/3/1975) như một dự báo rùng mình với chủ đề…VĂN HỌC NGHỆ THUẬT VIỆT NAM Ở HẢI NGOẠI (toàn bộ được chụp lại ở đây http://huyvespa.blogspot.com/…/tap-chi-van-so-cuoi-cung-260…)
(cũng như những câu chuyện khác về những số báo cuối cùng của miền Nam trước 1975
“Nước mắt trước cơn mưa...(hay những điềm chẳng lành trên các tạp chí miền Nam cuối cùng)” http://huyvespa.blogspot.com/…/nuoc-mat-truoc-con-muahay-nh…

To be continued…

No automatic alt text available.

Image may contain: text



No automatic alt text available.

No automatic alt text available.


No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.


No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.


No automatic alt text available.

Image may contain: text

Image may contain: text

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.


No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

Image may contain: text

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

Image may contain: text

"12 SỐ XUÂN & 7 SỐ KỶ NIỆM (ngày ra mắt) tạp chí VĂN Saigon"
Trọn vẹn chúng ta có đúng tròn 1 giáp (12 năm - 12 mùa Tết miền Nam 1964 - 1975) các số Xuân (tôi thiếu mất số Canh Tuất 1970) - và 1 điểm đặc biệt của báo chí miền Nam (sau này ít thấy) là kỷ niệm từng năm dưới tên "Kỷ niệm đệ nhất/nhị/tam...chu niên" - Văn cũng kỷ niệm như vậy đến số Kỷ niệm đệ bát chu niên (1972) trước khi chuyển sang Giai phẩm Văn (hình như năm kỷ niệm thứ sáu "đệ lục" Văn quên/không làm ?!?)
Trong số đệ bát chu niên, có nhiều bài nhìn lại 1 chặng đường Văn từ ngày ra mắt 1964 (***) như:
"Bán Nguyệt San Văn Dưới Mắt Mười Một Tác Giả" với loạt trả lời cho 2 câu hỏi
• Ông (bà) thấy tạp chí Văn như thế nào, từ số đầu đến giờ?
• Chiều hướng nào trong tương lai mà ông (bà) thấy Văn nên theo đuổi để xứng đáng là một diễn đàn văn học nghệ thuật đúng với danh nghĩa của nó?
...
đến từ những tác giả thời danh : Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương, Bình Nguyên Lộc Nguyễn Sỹ Tế, Võ Phiến, Viên Linh Vũ Hoàng Chương, Tuý Hồng, Mặc Đỗ, Duyên Anh...
Và 1 bài tuỳ bút / ký ...ghi lại kỷ niệm của Mai Thảo với chốn lui về thân quen của ông "38, Phạm Ngũ Lão"– nơi đó, ông sống cái “đời sống chính là và chỉ là cái có đó, cái hàng ngày, mỗi cá nhân bắt gặp và sống với. Bằng một số hình, bằng một số ảnh. Nếu là như thế thì 38 Phạm Ngũ Lão đã đích thực là một ảnh hình, đậm, và một tiếng động, lớn, trong đời sống hàng ngày của tôi từ nhiều năm nay”…
Một điểm đặc biệt trong bài, Mai Thảo nhắc đến “nét mực Song Long” (?!?) và sau này, ra hải ngoại, hình ảnh cứ lặp đi lặp lại trong Sổ Tay Mai Thảo, trong những tuỳ bút của ông là căn-phòng của ông (sau restaurant tên là) Song Long , định mệnh nào đang gõ cửa?!?
(Text đánh máy dưới đây do nhà văn Trần Hoài Thư thực hiện:)
*** (Bán nguyệt san Văn ra số đầu tiên vào ngày 1.1.1964 với chủ đề “Tuyển tập thơ văn”.
Số cuối cùng phát hành ở Sài Gòn mang tên Giai phẩm Văn có phần đặc biệt : “Văn học và nghệ thuật Việt Nam ở hải ngoại”
(Trang cuối tờ giai phẩm VĂN số này có ghi : "Giấy phép số 315/75/BVDCH/PHBCNT/ALP/GP. Sàigòn ngày 13-3-75. Phát hành ngày 26-3-1975. Số lượng in 6.000 cuốn.)
Văn do ông Nguyễn Đình Vượng làm chủ nhiệm, thư ký tòa soạn Trần Phong Giao.
Năm 1972, nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng thay Trần Phong Giao trong vai trò thư ký toà soạn. Một năm sau, 1973, Mai Thảo về Văn cùng với Nguyễn Xuân Hoàng trông coi Văn. Năm 1974, do nhu cầu đời sống, Nguyễn Xuân Hoàng rời Văn, một mình Mai Thảo làm tiếp đến 30.4.1975) ***
38, PHẠM NGŨ LÃO
(MAI THẢO)
Mỗi người trong chúng ta đều sống với một số hình ảnh và một số tiếng động quen thuộc, hàng ngày, nhất định. Sống và chết với những cái đó. Những hình ảnh và những tiếng động ấy chính là đời sống chúng ta, làm nên đời sống chúng ta. Nói sống với những cái khác chỉ là suy nghĩ, văn chương và tưởng tượng. Không biết tôi có ghi lại được thật sát đúng ý nghĩ mấy câu nói trên của Thanh Tâm Tuyền hay không. Chỉ nhớ đại khái là như thế, một buổi tối cuối năm năm ngoái, chung quanh một cuộc họp mặt uống rượu trên căn lầu của thầy Thanh Tuệ ở đường Lý Thái Tổ, có tôi, Phạm Công Thiện, Cung Tiến và Vũ Khắc Khoan, Thanh Tâm Tuyền đã an ủi Bùi Giáng, một Bùi Giáng hôm đó thất lạc, dao động, khi nhà thơ bầy tỏ sự hoang mang về mối liên hệ với chung quanh của con người mình. Bùi Giáng: Tôi không biết tôi thế nào nữa. Lúc mất trí. Hồi minh mẫn. Sống với cái gì đây. Tại sao tôi làm thơ. Và tại sao tôi làm thơ về cả những điều không bao giờ nên nói. Câu trả lời cho Bùi Giáng: một số hình ảnh, một số tiếng động. Những tiếng động nào là đời Bùi Giáng? Những hình ảnh nào? Hay thơ cũng chỉ là một hình ảnh, thơ cũng chỉ là một tiếng động?
Mấy câu nói trong bữa rượu bè bạn tối nào của Thanh Tâm Tuyền bất chợt hiện hình trong trí nhớ tôi, lúc này, ngồi tìm một ý tưởng dẫn nhập cho bài viết này về 38 Phạm Ngũ Lão đệ bát chu niên. Anh không sống với cái gì khác hết. Mà với tiếng chim kêu anh nghe thấy khi thức dậy mỗi buổi sáng ở đầu ngõ anh ở, bóng lá in mỗi hoàng hôn trong căn vườn sau nhà, những con đường anh đi về hàng ngày, quen thuộc đến không nhận thức nữa, hiện hữu của chúng. Những hình ảnh. Những tiếng động. Một số hình ảnh, một số tiếng động vây bọc đời ta, ở đó đời ta. Có lẽ cuối cùng và đơn giản là như thế thật, là đời sống chẳng thâm sâu mịt mùng gì hết, đời sống chính là và chỉ là cái có đó, cái hàng ngày, mỗi cá nhân bắt gặp và sống với. Bằng một số hình, bằng một số ảnh. Nếu là như thế thì 38 Phạm Ngũ Lão đã đích thực là một ảnh hình, đậm, và một tiếng động, lớn, trong đời sống hàng ngày của tôi từ nhiều năm nay.
Trí nhớ nhòa trùng không cho phép tôi gọi về một con số tháng năm cụ thể. Chỉ nhớ là từ khá lâu trước số Văn ra mắt. Bấy giờ tôi đang cho in tờ Sáng Tạo, đâu như ở nhà in Tia Sáng, đường Phát Diệm, của ông Nguyễn Trung Thành. Nhà in thình lình thầu được mấy món lớn, không in tiếp nữa, phải tìm nhà in mới. Một hôm, tôi mở coi mấy tờ báo, tìm một địa chỉ ấn quán. Xem thuyết mác-xít của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, tình cờ cái tên Nguyễn Đình Vượng và con số 38 Phạm Ngũ Lão hiện ra trước mắt.
Tiếng động Văn và hình ảnh Văn đã tới với tôi tự đó. Những ngày đầu tiên đặt chân tới cái ấn quán nhỏ chật trước rạp chiếu bóng Thanh Bình và xế cửa chợ Thái Bình này, tôi nhớ thường đến vào buổi trưa, một mình. Hoặc với Duy Thanh. 38 Phạm Ngũ Lão không phơi bày, biểu diễn giữa những bức tường đầy đặc vết mực Song Long của nó, cái cảnh tượng sầm uất, choáng váng, quay lăn không ngừng không nghỉ của một ấn quán bội thực tới cổ những ẩn vụ linh tinh đủ mọi thể loại như bây giờ. Bây giờ là hiệp thợ đóng, gấp đàn bà con gái ngồi chấn từ thềm, từ ngưỡng. Là giấy journal chất ngất tới trần. Là máy cản cầu thang, chướng lối vào. Là thợ chữ, thợ đóng chen chân, lách luồn, đụng chạm trên những khoảng trống khít khao nhỏ chật. Bây giờ là 38 Phạm Ngũ Lão quay hết tốc độ, đèn sáng về đêm, vào bìa tới khuya, cắt từ tảng sáng.
Trước ra đời của Văn, ấn quán ngược lại, chỉ là cái hình ảnh của một dòng sông xuôi chảy bình thường và phẳng lặng nhất. Cửa thường đóng, cách biệt với phố trước. Đèn thường tắt. Cho những giấc ngủ trưa. Và máy chạy tùy giờ. Và xuống khuôn thanh thản. Cảm tưởng còn lưu giữ lại được ở trong tôi, về những ngày đầu Sáng Tạo in ở 38 Phạm Ngũ Lão, là cái cảm tưởng phẳng và trống ấy của những cái không đụng đầu, không gặp mặt. Bàn giấy chủ nhà trống, ông Nguyễn Đình Vượng đâu mất ấy.
Những khung chữ im lìm, mấy trang mo-rát lăn lóc, tôi đến, thợ chữ đã về, tôi về, anh xếp typo mới lại và cái không khí của 38 Phạm Ngũ Lão hồi ấy lạnh tối và âm thầm, đầy những cái ngưng đọng phủ nhòa những xó góc thu mình vào lãng quên. Đến cái con đường Phạm Ngũ Lão mấy năm đó, cũng thênh thang trống trải, chứ chưa hề biến thành một trong những cảnh tượng lưu thông công cộng nghẹn ứ kinh khủng vào bậc nhất của phường phố chín quận bây giờ. Trưa nhà in ngà ngà. Các hình thể mất đi cái cồng kềnh chỉ còn là những khối kim khí bất động ngủ thiếp. Từ phòng chữ vắng lặng đi xuống, chờ hiệp thợ chưa tới, tôi lần bước trong thứ bóng tối chập chờn của ấn loát gián đoạn, lại kéo Duy Thanh ra ngồi ở quán nước bên kia đường, ngay hông vào hậu trường rạp chiếu bóng Thanh Bình, hồi đó tối nào cũng có ca sĩ Anh Ngọc tới điều khiển những chương trình đại nhạc hội. Không bao giờ chúng tôi nói đến những trang báo sắp in. Cái tinh thần làm báo hồi đó thư thái lạ thường, chẳng như bây giờ, dao động mệt mỏi, làm báo bây giờ cho tôi cái cảm giác chới với vĩnh viễn của một cuộc chạy trốn với chữ nghĩa hoài nghi và ý thức vỡ nát về mịt mùng trước mặt. Con đường Phạm Ngũ Lão chói lòa ánh nắng những trưa Nguyễn Đình Vượng lim dim. Tới ba, bốn giờ, khung cửa sắt màu xanh nhạt của một mặt tiền ấn quán lổng chổng mới mở hé, một cách miễn cưỡng. Thợ đến. Xe đạp, xe máy dựng. Nhìn từ quán nước hè đường đối diện nhìn sang, về những buổi trưa mười năm trước ấy, 38 Phạm Ngũ Lão không trưng bày một dấu hiệu tao nhã thường thấy của một siêu thị chữ nghĩa, thứ chữ nghĩa vì có mặc khải và dự phóng, nên được gọi tên là văn chương. Nó cũng không phô diễn cái không khí sầm uất, trẻ trung của một môi trường báo chí, tôi nói trẻ trung, vì báo chí là cái trẻ trung nhất của sinh hoạt con người. Không, ngay từ hồi đó, và bây giờ cũng vậy, cái dễ nhận thấy của 38 Phạm Ngũ Lão chính là nó chẳng có gì để nhận thấy hết. Nó từ khước quyết liệt mọi hình thức trang điểm. Cũng không cần thiết với nó, ở nơi mặt tiền xập xệ kia, một báo hiệu, một xưng danh làm dễ dàng cho những nhận diện từ ngoài. Thơ miền Trung, truyện ngắn Tiền Giang, bút ký Lục Tỉnh và kịch Cao Nguyên cứ việc theo đường quen nẻo thuộc mà về. Tới. Và vào. Xếp chữ, lên khuôn hay xếp lại trong hồ sơ lưu trữcủa tòa soạn. Cái mặt tiền của 38 Phạm Ngũ Lão trước sao, sau vậy, tuyệt nhiên không có cái khuôn mặt sáng ngời đầy cảm tình của một đón chào niềm nở.
Trở lại thời kỳ đầu. Vậy là tôi đã đưa tờ Sáng Tạo tới in ở Văn. Và lui tới hàng ngày Phạm Ngũ Lão 38. Anh Nguyễn Đình Vượng hồi đó trẻ và khỏe hơn bây giờ, chưa có cái tên là cụ Vượng già, chưa đau yếu khục khặc linh đình như bây giờ. Nhưng hiệp thợ chữ của 38 Phạm Ngũ Lão hồi đó không phải là mười sáu, mười bảy sắp chữ mà là bốn mươi năm mươi làm typo. Có một ông già nào đó, tôi quên tên, tóc bạc phơ, mặt hồng, đĩnh đạc như một ông lý trưởng ngoài Bắc, thường vừa sắp chữ vừa cùng chúng tôi trò chuyện. Khuôn báo chẳng vội lắm. Máy in sẵn đợi chờ. Những trang tạp chí cũ do tôi làm chủ nhiệm, Duy Thanh trình bầy, được hình thành, giữa một không khí ấn loát thủ công nghiệp, bằng những mẩu đối thoại ung dung về mưa nắng, nhà cửa, trời đất, giữa chúng tôi và ông typo già như thế.
38 Phạm Ngũ Lão, trước Văn, trong suốt một thời gian dài không hề là nơi lui tới tấp nập của người viết, người đọc, của lao động ấn loát và chất xám trí tuệ thể hiện thành cái cảnh ngộ nhân mãn trong một ngôi nhà đông đặc tầng trên tầng dưới như 38 Phạm Ngũ Lão, khởi đi từ Văn, tăng thêm Tân Văn, Tuổi Ngọc, Vấn Đề và xuất bản sách truyện là cái hiện tại của nó. Quá khứ, nó tĩnh lặng. Dĩ vãng, nó chìm và tầm. Hiếu động, tôi và Duy Thanh đã đưa tờ Sáng Tạo đến những ô chữ và những cỗ máy Yoda sáng tươi hơn. Nhưng tôi đã ở lại. Thứ nhất, nhà in mới mở, đã mang nặng cái ưu tư làm đẹp, đặt làm đẹp một trang in thành cái tiêu chuẩn hàng đầu. Hà tiện cái gì chứ mua thay chữ mới thì không bốc thơm một ly ông cụ, 38 Phạm Ngũ Lão chịu chơi lắm. Tôi nhớ đã gửi được tới bạn đọc những tờ Sáng Tạo hình thức chững chạc. Vì trình bày Duy
Thanh một phần. Phần lớn vì chữ vì máy của 38. Những hình ảnh và những tiếng động. Một số hình ảnh và một số tiếng động vây bọc đời ta. Một số. Một số.
TTT. đang sống với những tiếng và những ảnh nào giữa thông giữa núi Đà Lạt? Trong một lá thư ngắn tháng trước, y tả cho tôi, cảnh tượng một trận cháy rừng nhìn thấy trong đêm. Những đốm lửa bay tạt trong gió cắt. Đêm núi tối đặc. Sáng rỡ. Những ảnh mới, những tiếng mới có thay thế được những ảnh cũ và những tiếng cũ? Trong cõi tâm thức rối loạn điên ngất của B.G. cái số tiếng động kia nổi lên từ một hướng tâm linh nào, và vỡ, cái số hình ảnh ấy gửi đến từ một miền tâm thể nào, và nhòa? Phải đó là tiếng động phải đó là hình ảnh, những cái chợt đã nhòa, thoắt đã vỡ? Với tôi, ảnh và tiếng tiếp nhận vào cái thường nhật nhỏ chật mòn nhẵn của mình trong cuộc sống chôn chân giữa lòng thành phố biển người này là cái tiếng động nhòa vào cái biển tiếng động của một cỗ máy in lăn một vòng ra một trang chữ ướt, là cái hình ảnh lẫn vào cái rừng hình ảnh của những chồng sách còn thơm mùi giấy mới, của tôi và của người, như thế ít nhất cũng cho tới gần xế đời mình.
Báo quán Văn, 38 Phạm Ngũ Lão, trên cái tinh thần này của một ràng buộc mà trọng lượng là cái ngày lại ngày từng chút tích lũy lại, khởi đầu chỉ là một thói quen của lui tới. Rồi thì là cái trạng thái của một không khí, một nơi chốn thân hữu lúc nào, không hay.
Ở một cuốn phim và cũng ở một cuốn tiểu thuyết ngoại quốc nào không nhớ rõ, tôi đã được màn ảnh trình bày và chữ viết thuật lại những buổi chiều muộn ở lại phòng giấy của một tư chức già. Y có nhà ở một vùng ngoại ô thành phố. Nhưng sở hết giờ mọi người về hết mà y không về. Y ở lại trong căn phòng làm việc tiều tụy. Dưới ánh đèn vàng vọt, giữa đống hồ sơ im lìm và bàn ghế lăn lóc. Ngồi đó, không làm gì hết, trong khi bóng tối và im lặng đã tràn chiếm cùng khắp những hành lang vắng lạnh. Khi người tư chức già đứng lên, ra khỏi ngôi nhà, y là người cuối cùng, ngọn đèn y tắt đi là ngọn đèn cuối cùng, cái hình bóng y đi ra trong đêm là động ảnh cuối chót. Đó là một trường hợp điển hình của lưu luyến giữa một nơi chốn với người, mặc dầu nơi chốn tuyệt nhiên không mời gọi, không thu hút. Nhiều trường hợp như thế. Trong bài vào tập Nhặt Lá Bàng cho truyện dài Đôi Bạn, Nhất Linh tả quãng đường ông đi từ nhà đến báo quán Đời Nay ở 80 Quan Thánh, Hà Nội, lên gác, mở cửa sổ, bật đèn, ngồi vào bàn viết, viết những câu đầu tiên về cuộc đời Loan, về cuộc đời Dũng, với những tiếng động và những hình ảnh vây bọc đời họ.
Đêm đó, Nhất Linh không viết được gì. Nhưng đã ở lại báo quán, ở lại nhà in. Tới sáng. Nghe tiếng lá rụng trên mái. Nhìn trẻ nghèo nhặt lá bàng dưới đường. Hẳn là còn rất nhiều đêm, Nhất Linh đến tòa báo ban đêm một mình như thế. Tôi nghĩ lan sang đến những hý viện vắng lặng, ở ngoài mùa kịch, nơi Jouvet Barraut nhiều đêm tạt qua, đi vào, ngồi lặng một mình, với hàng hàng những tấm vải phủ trắng toát phủ kín những thành ghế, và tấm màn nhung bất động, im lìm trước mặt. Để tưởng nhớ lại những vang động của một mùa kịch trước? Để sống với những kỷ niệm, những âm hưởng của làm kịch một đời? Không phải.
Đến là đến. Chỉ là cái vấn đề, cái hiện tượng nơi chốn đơn thuần. Gắn bó. Sống đó. Sống là gắn bó. Nơi chốn đạt tới một sự thật một khuôn mặt nào, mang cái ý nghĩa của một gắn bó êm đềm dịu dàng, trong nó, anh tìm thấy cái ấm áp, cái yên tâm. Thấy anh và nơi chốn không phải là hai cá thể tách rời biệt lập, mà là một hòa nhập. Matisse vẫn giữ mãi căn nhà chứa hàng làm xưởng họa. Mozart hay Chopin, tôi phỏng đoán thôi và nếu sự thật là như vậy, đôi lần trở lại với những nơi chốn cũ ở đó thiên tài đã dạo nhạc cho hàng nghìn vành tai thành kính, trở lại, ngồi vào cái ghế đẩu bọc gấm đỏ cũ, đặt những ngón tay trên phím dương cầm, đó là tiếng và ảnh ở mãi với đời ta, cái hiện tượng gắn bó của đời sống và tâm hồn với nơi chốn. Giải thích như thế để trở lại với 38 Phạm Ngũ Lão.
Mười mấy năm nay, tôi đến với những tòa soạn, báo quán khá nhiều. Báo mình, báo người, báo bạn, đủ loại của ấn loát định kỳ và thường xuyên. Nguyên ở cái phố báo Phạm Ngũ Lão nhan nhản những bảng hiệu “cơ quan, diễn đàn, tiếng nói”, trước sau đã năm bảy chỗ ngồi làm việc. Tôi đã có mặt ở những địa chỉ đó. Trong những thời gian lâu dài. Tám tiếng một ngày, đêm nữa, nếu cần, cặm cụi với trăm nghìn công việc xào nấu linh tinh của một tòa soạn, và lựa chọn, và đãi lọc sáng tác lai cảo của một bộ biên tập. Nhưng bằng những tạt qua thoang thoáng, những ghé vào chốc lát, những bữa đực bữa cái, chiều nay năm phút hôm trước nửa giờ, cộng lại, thời gian có mặt của tôi ở 38 Phạm Ngũ Lão vẫn là con số nhiều nhất của giờ trên đồng hồ. Những bài viết cho Văn, phần lớn tôi viết tại chỗ. Lạ lắm. 38 Phạm Ngũ Lão chỉ có chỗ thở, những phiến yên
tĩnh, những khoảng cách biệt, cần thiết thích hợp cho viết và nghĩ hồi đầu, hồi Sáng Tạo còn, chưa chào đời Văn.
Bây giờ nó chật cứng, cá hộp. Cái bên trong của ngôi nhà cũng nghẹn ứ như Phạm Ngũ Lão ngoài đường, chỉ thiếu đèn xanh đèn đỏ. Tầng dưới ngộp. Tầng trên hầm. Chỗ đứng chỗ ngồi cho viết nhà nghề và viết tài tử đều không có. Dương Nghiễm Mậu đến phải chờ ngoài cửa cho Nguyễn Đình Toàn đi ra. Vũ Hoàng Chương lại có nghĩa là Vũ Bằng phải bước. Hết chỗ. Vào kiểu thay phiên. Hết chỗ. Ngồi lâu không tiện. Chỗ của giấy của máy ưu tiên. Chỗ của người thứ yếu. Nói đến phòng riêng, phòng khách, bàn viết cho tòa soạn ở đây là cái chuyện khôi hài không tưởng được.
Lầu một của 38 có một phòng sách báo cũ. Góc phòng có một khoảng trống nhỏ xíu chỉ chừng một mét vuông thôi. Và một cái bàn tròn nhỏ, kiểu bàn ăn cho hai người của ba Tầu Chợ Lớn. Tòa soạn của hai tờ báo bạn Tuổi Ngọc và Vấn Đề đó. Chỗ điều hành công việc tòa soạn của ba ông Vũ Khắc Khoan, Duyên Anh, Mai Thảo đó. Thảm chưa. 38 Phạm Ngũ Lão bốn không hoàn toàn với mọi tiện nghi tối thiểu phải dành cho thân chủ, dầu là thân chủ bê bối nhất. Vậy mà tôi đã ngồi ở cái góc bàn đó, bên cạnh một khung cửa sổ gió mưa bay tạt, ngó ra những ống thu lôi, những mái ngói, những ăng-ten vô tuyến truyền hình.
Nghĩ và viết được. Chừng như phải đến đó mới viết thành, bởi ở những chỗ khác, trước hết là cái bàn giấy nhà mình, đã cố nhiều lần, viết sao chẳng được.
Cho ngòi bút tôi, bao nhiêu năm rồi, 38 Phạm Ngũ Lão thiếu vắng hết mọi tiện nghi và không khí thoải mái gợi hứng, lại là một thúc đẩy thuận hợp. Những tiếng động và những hình ảnh. Một số tiếng động và một số hình ảnh vây bọc đời ta, ở đó đời ta, phải thế thật sao? Chỉ biết tôi đã đến đó, trong vang động máy chạy rung rinh sàn gác, giữa hơi nóng và mồ hôi người, viết một mạch, ngon lành được những bài về ngôn ngữ Thạch Lam, cái chết Vũ Trọng Phụng, tình yêu Nguyễn Bính, mấy bài viết tương đối khá cẩn thận bởi được nói đến những tài năng làm vinh hiển cho thơ văn tiếng mẹ, cùng nhiều bài khác, đóng góp cái phần tri thức nhỏ mọn của mình cho một diễn đàn ra đời ngày nào với truyện ngắn Con Chó Uất Trì của Lê Văn Siêu đăng lại trong số kỷ niệm này, bây giờ đã đệ bát chu niên.
Đệ bát chu niên. Đã tám năm Văn có. Ở những sự vật khác, cái thâm niên không nói được gì hết. Đáng nói là những cái thanh niên. Cổ thụ chẳng đáng nói ngoài cái hiện tượng cổ thụ. Mừng vui đáng nói là mầm là hạt, là thoạt ra khơi và mới khởi hành. Sống ở phía bình minh hồng. Hoàng hôn chỉ là cái dấu dứt. Nhưng hiện tượng thâm niên của một diễn đàn văn học nghệ thuật giữ được một điệu dáng nghiêm chỉnh, không sa thấp xuống vũng lầy thương mại, tồn tại được với tám năm chuyển động toàn diện, hiện tượng ấy đáng nói, đáng khen ngợi. Tôi không bảo Văn là một diễn đàn lớn. Như 38 Phạm Ngũ Lão không phải là một báo quán lớn. Diễn đàn lớn, theo ý những người, là miền tập hợp đanh thép, kiên trì và vô điều kiện của những kẻ làm công tác văn học nghệ thuật xung kích, làm thơ như đánh trận, viết văn là xuống đường, những kẻ đốt lên trong đêm văn học và đêm xã hội đen tối những ngọn lửa hồng đỏ của ý thức tiền tiến, bằng ý thức ấy, hình thành một thể loại văn chương chất nổ ném vào cái ngưng đọng toàn thể, đánh thức, lay tỉnh hết thẩy, khởi từ lay tỉnh, đánh thức chính nó. 38 Phạm Ngũ Lão không thất bại trong ý hướng này. Bởi cái lẽ giản dị là Văn đã chọn cho Văn một chiều hướng, một đất đứng và những đối tượng khác, sau này thế nào không biết nhưng là sắc thái của Văn từ tám năm qua. Văn nhận. Rõ rệt nhất như vậy. Nhận. Từ dòng chảy ào, đến con suối nhỏ. Từ mây lại tự phương Nam, gió đến tự phương Bắc. Nó tỏa thành nan quạt, đóng vai trò gạch nối. Cửa mở rộng bốn phía. Đón gió trời bốn phương. Nội dung của mỗi số báo thoạt nhìn thì văn nghệ mà cái tinh thần, cái phong thái văn học nhiều hơn. Cõi Văn nhiều bóng rợp. Không nắng chói chang, mưa dào dạt. Tám năm lui tới Phạm Ngũ Lão bằng một lui tới thường hằng, điều tôi lâu dần nhận thấy là Văn đến được với cái thâm niên không đơn thuần vì cơ sở tự lập, căn bản chắc chắn, hoặc tác phong cần mẫn, siêng năng là điểm son của người phụ trách cũ đã chia lìa để tạo dựng cơ sở riêng. Mà sống lâu, sống bền vì cái phong thái thù nghịch bất đồng với mọi kinh động sát phạt. Đến Văn mà coi. Ngày nào cũng vậy, máy chạy đều, công việc liên tục.
Người sống không vị những cảm giác chát chúa, giữ cho nhịp tim đập bình thường, nhịp máu chảy tuần tự, là người có hy vọng ăn mừng thượng thọ. Đến Văn mà coi. Bình chân như vại. Việc ta ta làm. Công thức tồn tại của Văn là hết thảy đều chừng mực, vừa phải. Xuất phát từ một thủ đô tràn ngập nhu cầu và thị hiếu vật chất nhân gấp với dao động thời thế, đến với những địa phương không an ninh bởi chiến thời, sản phẩm chính của 38 Phạm Ngũ Lão là bán nguyệt không hề vạch ra một con đường riêng mà hóa thành có được một lối đi riêng. Những người đọc Văn, đọc thấy cái hiền. Viết cho Văn, cũng hiền đi một phần mà viết. Cái hiền của hai phía gặp nhau, làm thành cái thâm niên Văn. Đừng so sánh với những cơ quan ngôn luận văn học nghệ thuật thế giới cha truyền con nối, có chúc thư người nằm xuống giao phó lại cho quản trị còn sống làm
gì. Báo chí ta, yểu mệnh, hơi thở hụt hẫng, tam phen tứ bận gồng mình, uống nước lã mà làm, cũng không có được cái truyền thống thâm niên cố đế, cái vững chắc bàn thạch như một số báo chí ngoại quốc. Tám năm với ta kể là thâm niên. Thấm gì. Thâm niên với ấn loát bốn biển là từng thế kỷ. Có điều là trước khó khăn chung của báo chí thế giới, 8 năm với một bán nguyệt Việt không hình bìa pin-up, không tình dục trong ruột thì cũng là điều đáng khen đi. Những Look, những Mercure de France, Croix du sud còn chết lăn ra kia. Tỏa lan được những nhánh rễ lực lưỡng vào sâu và xa trong mảnh đất cảm tình của người đọc mọi lứa tuổi, Văn thâm niên chắc chắn là loại ấn phẩm định kỳ
dành được một chỗ đứng tốt trong mọi tủ sách gia đình. Về mặt liên hệ hợp tác của 38 Phạm Ngũ Lão với những nhà văn nhà thơ và tác giả ba miền, tôi lấy tôi là người đã có truyện ngắn Bầy Thỏ Ngày Sinh Nhật đăng từ Văn số ra mắt, để thử phân tích những biến thái của một giao hảo, thắm thiết hay nhạt loãng thế nào không cần thiết, đã kéo dài từ tám năm nay.
Một cách thế giao tình bền vững của người được ví với hương thơm của một loài hoa Việt. Hoa nhài. Thoang thoảng hoa nhài mà lại thơm lâu. 38 Phạm Ngũ Lão giao liên với hải nội chư quân tử cũng bằng thứ hương thơm đó của nhài, hương thơm không nồng đượm chói gắt, nhưng hoài hoài phảng phất. Cái bắt tay với người này không vồ vập siết chặt. Cái bắt tay với người kia không hững hờ chiếu lệ. Mà vừa vặn năm ngón thân quen. Cảm tình không cầu thang, lúc cao lúc thấp. Đãi đằng và tiếp nhận cũng vậy, tà tà bình thường. Ở ngoài tờ báo, phong cách giao tình này cũng là tờ báo. Nó là một yếu tố thêm nữa cộng với những yếu tố khác làm thành cái thâm niên Văn. Tôi nhớ trong suốt tám năm, vào những lúc người chủ nhiệm yếu mỏi bất chợt có được những buổi chiều khỏe mạnh, tòa soạn lại có một bữa ăn mời thân hữu ở gần. Tôi gặp Y
Uyên có một lần. Võ Hồng cũng một lần. Và nhiều nhà văn trẻ ở miền Trung vào tôi không nhớ tên, trong những bữa ăn này của 38 Phạm Ngũ Lão. Thù tạc và ẩm thực của các tòa soạn văn nghệ, mười mấy năm nay tôi tham dự nhiều lắm. Gần đây như gỏi cá trong tiểu đoàn 55 của Tiền Tuyến, nhúng của Vấn Đề, cơm tây làm lấy ở nhà của An Tiêm, và những bữa rượu quên đời say ngất với phát hành và báo ngày miền Nam. Thường là rượu vào nhời ra. Lúc bốc hốt, thơ ngâm ào ào và luận bàn hào hứng về văn chương bốn biển. Hoặc đấu khẩu kịch liệt. Những bữa ăn với Văn khác. Tĩnh. Chừng mực. Một nửa rượu mạnh, nửa kia, nước ngọt. Những bữa ăn ngắn của những họp mặt vừa, với người chủ nhiệm chay tịnh sợ gió bao giờ cũng đứng lên cáo từ về trước. Đó là một trong những khía cạnh giao tình loại hương thơm hoa nhài của bán nguyệt san
Văn. Thế mà lại có cái hay. Không ngoạn mục thì gỡ lại được cái điềm điềm bền chặt. Trong một không khí an lành, trên một mặt phẳng chắc chắn như thế, 38 Phạm Ngũ
Lão sống với chính nó và với xa gần, bằng cùng một thái độ. Thái độ này đã được chấp nhận. Cái thâm niên của 38 do đó là cái thâm niên nhiều mặt, có tự bên trong, đến tự bên ngoài, như một vùng trời xanh rất nhạt ở đó có những chùm mây yên tĩnh bay, yên tĩnh bay trong trời văn chương.
Chỉ với riêng tôi, 38 Phạm Ngũ Lão đã là một truyện dài. Như một truyện dài nhân dân tự vệ. Riêng tôi với người chủ nhiệm xập xệ, đã có biết bao nhiêu chuyện làm vui được bạn đọc với bài viết kỷ niệm này cho tám năm của 38. Chẳng hạn như hồi tôi thất thế lui về sống ẩn trên một căn gác gió thổi ở đường Trần Hưng Đạo, tiếng can của người chủ ấn quán đến đòi tiền còn thiếu sáng sáng lộc cộc trên từng bực thang. Chẳng hạn như cái lần 38 Phạm Ngũ Lão cháy nhà, tôi đến, ngây nhìn những tro than cùng khắp đã nghĩ mình phải viết một bài viết cho 38 từ trần vì lửa. Nhưng rồi máy lại quay, việc lại nhận, báo của mình và báo của bạn lại ra đều. Cuối cùng 38 Phạm Ngũ Lão là gì? Và tương quan của một tờ báo với người viết là gì?
Mọi tình cảm quá độ đều không đúng vì không phải như vậy. Một tờ báo có thể là tất cả, với một người viết. Hoặc chẳng là gì hết. Trường hợp nào cũng có cái sự thật của nó.
Vậy thì tình cảm không đặt ra mà cuối cùng vẫn chỉ là vấn đề tình cảm mà thôi. Giản đơn là viết được một bài cho Văn tôi thấy bằng lòng, vì Văn muốn tôi có bài viết đó.
Giản đơn là tôi không tới lui 38 như một ngôi nhà, một địa chỉ. Mà một nơi chốn, ở đó tôi có cái phần tôi, một cách nào đó, từ tám năm, và lâu hơn về trước. Một ngày nào đótrong tương lai, bởi không có một vật thể, một cảnh tượng nào tồn tại vĩnh viễn, tấm biển 38 Phạm Ngũ Lão cũng sẽ hạ xuống. Ngôi nhà khi đó sẽ thay đổi hình dáng, cái chứa đựng. Khi đó, chỗ của 38 cũ là một tòa buynh-đinh mườibảy tầng chan hòa ánh nắng mặt trời buổi sớm, cũng chưa biết chừng. Và nếu là như thế, một lúc nào đó đi qua 38, tôi sẽ đứng lại một phút như tôi đã đứng lại một phút, bao giờ cũng vậy, trước tất cả những nơi chốn đã ở của mình, đánh dấu một phần đời của mình. Những hình ảnh và
những tiếng động. Đồng ý. Không có trời nào. Chẳng cóbiển nào. Chỉ là một số tiếng. Chỉ là một số ảnh. Và 38. Và tám năm, trên con đường hàng ngày tôi còn đang đi, tôicòn bắt gặp. Mới đây thôi và trong lát nữa.
./.
Image may contain: 2 people
Image may contain: 2 people
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.













page visitor counter
who is online counterblog counter

MYTHOlogy MYTHO (part 2) - "về đây nghe tiếng hú hồn mê oan..."

$
0
0

“Về đây nghe tiếng hú hồn mê oan. 
Về đây lắng trầm khúc nhạc truy hoan. 

Về đây nhé ! Cắm xong chiếc thuyền hồn 

Ôi thoáng nghe dây lòng tiếc đờn. 

Mái tóc nhà lưu luyến vạt trăng xanh. 
Nếu mưa về yêu lấy hạt long lanh. 
Chờ mong nắng cho tươi đời xuân xanh. 
Người xa vắng biết đâu nấm nhà buồn 
Đốt ánh đèn in bóng vào rêu xanh. 
Sẽ thấy cười tan vỡ hồn đêm thanh. 
Và nghe thấy kiếp xưa bước nhẹ về 
Đang khóc than trên đường não nề...”

(Come Back To Sorrento - Trở Về Mái Nhà Xưa (Phạm Duy) 

1 trong những căn nhà xưa đẹp nhất trên khắp Việt Nam mình từng biết, nằm hẻo lánh ở xã Bình Phan, huyện Chợ Gạo, thành phố Mỹ Tho, Tiền Giang…

Trải qua những “cuộc bể dâu”, nền nhà, hoa văn tường gạch, phù điêu, rường cột...vẫn còn khá vững chắc, màu sắc vẫn còn khá tươi mới… (theo suy đoán, có thể xây vào cùng thời điểm như căn nhà cổ Ba Đức ở Cái Bè – cũng ở Mỹ Tho - xây năm 1938), mới thấy chủ nhân ngày xưa đầu tư và chăm chút cho dinh thự này cỡ nào, có lẽ gạch nền phải nhập từ Pháp / Ý về?!?

(sau khi xem kỹ hình thì thấy có ghi con số năm là 1929)

Nghe nói chủ nhân của nhà là 1 luật sư – anh cột chèo của ông Ngô Đình Nhu – tên là Nguyễn Hữu Châu, lại có thông tin khác là nhà của ông huyện tên là Chiếu ?!?
Nhà đang thuộc sở hữu của nhà nước, đang cho 1 nhóm người thuê để …trồng dưa (ngoài sân) & nuôi bò (trong nhà) có thể “hoá giá”, ai có tiền đầu tư biến nhà này thành hotel hay Bảo Tàng Miền Tây đi !?!

Image may contain: outdoor

Image may contain: cloud and outdoor

Image may contain: indoor

Image may contain: indoor


Image may contain: indoor

Image may contain: plant

Image may contain: indoor


Image may contain: indoor


Image may contain: plant and outdoor

Image may contain: sky and outdoor


Image may contain: outdoor

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.


Image may contain: sky, cloud, plant and outdoor

Image may contain: indoor

Image may contain: indoor

Image may contain: sky and outdoor

Image may contain: outdoor

Image may contain: outdoor

No automatic alt text available.


No automatic alt text available.


Image may contain: indoor


Image may contain: outdoor

Image may contain: indoor

No automatic alt text available.


Image may contain: indoor


Image may contain: outdoor


Image may contain: plant and outdoor


Image may contain: outdoor



Image may contain: indoor



Image may contain: indoor



Image may contain: sky, cloud and outdoor

Image may contain: plant and outdoor


Liên quan đến một trong những hoạt tiết trang trí cột trong các dinh thự cổ như dinh thư trên, xin chia sẻ một bài viết ngắn nhưng mang nhiều tâm tư của một người miền Nam xứ Việt với vận mệnh của không riêng gì kiến trúc/ di sản Việt Nam  - cô Trần Thị Vĩnh Tường


NÀNG ACANTHA LÀ Ô RÔ


Theo thần thoai Hy Lạp, thần Apollo yêu mến nữ thần Acantha. Dù thần Apollo là thần mặt trời và ánh sáng, âm nhạc và thơ ca, dịch hạch và chữa bách bệnh ...nhưng Apollo bị nàng Acanthe từ chối còn cào lên mặt xém nữa thì mù. Một vị thần đời nào chịu sự lăng mạ dường ấy nên Apollo dơ ngón tay thổi phù biến nàng ra loại cây tên Acanthus/có gai. Các thi sĩ gầm trời dưới đất tin chuyện nầy nên ưa nhắc tới nhắc lui cho những tâm hồn trẻ mãi hổng chịu già.

Ở Châu Á, Acantha mọc ở cửa sông Châu ở TQuốc, Nam Đài Loan, Phi, Thái Lan, Việt Nam, Campuchia, Brunei, Malaysia, Singapore, Indonesia, Sri Lanca, Ấn Độ.

Ở Việt Nam, cùng họ Acanthaceae có Hygrophila difformis tiếng Việt là Cúc Thủy, trong ca dao trổ mòi dê... dễ thương:
"Cúc mọc dưới sông kêu bằng cúc thủy
Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa
Gái em đi đâu thì ghé lại nhà
Trước thăm phụ mẫu, sau là thăm anh."

VN còn có Acanthus ilicifolius, Ô Rô Nước hay Ô Rô Bông Tím, mọc vùng ngập mặn, đầm lầy và bờ biển, ưa mọc dưới cây Tràm cây Đước. Không rõ chừng chục năm nay kể từ khi biển miền Nam sạt lở, loài Trầm Đước giảm thì Ô Rô mọc ở đâu?

Ở Thái có trà Ô Rô, từ Địa Trung Hải đến Cam Ranh Acantha từ trên cột cao chiếu tia diễm lệ xuống nhân gian. Ở VN văn hóa đô thị dường như không chấp nhập chút hoang dã nào nên còn mất hổng ai hay, cho đến khi kỷ niệm của Cúc Thủy Ô Rô Tràm Đước mất đi chắc cùng lúc 1/3 miền Nam chìm dưới mặt nước biển năm 2030.

Từ giờ tới đó hễ qua còn nhớ thì qua còn nhắc nha, Ô Rô Cúc Thủy đừng buồn.

./.


page visitor counter
who is online counterblog counter

Dalat - Saigon - Châu Đốc - Hoàng Su Phì... "đi cho hết 1 đêm hoang vu trên mặt đất"

$
0
0
No automatic alt text available.



“Người về đây giữa non sông này

Hội trùng dương hát câu sum vầy...
Về cho thấy Xuân nồng áo em
Cho tình xưa thôi cách xa
Về chung mái nhà lá...”



No automatic alt text available.

Image may contain: cloud and outdoor


“Mười lăm tỷ năm qua

Từ vạn triệu thiên hà
Bây giờ ta mới tới 
Gặp lại em hôm qua”
(Phạm Công Thiện)



Image may contain: 1 person, outdoor


Dalat như một nhà băng ký ức, nơi đó cùng 1 cơn deja-vu có thể xảy đến cho cùng lúc nhiều hơn 1 người, bởi năng lượng của những quên & nhớ đã không hề mất đi mà ngày càng nồng sực lên khi được tan vào dày đặc sương khói “ở một nơi ai cũng quen nhau”, những ảo ảnh va chạm vào nhau rơi xuống thành một hố sâu / mặt hồ... nơi vĩnh viễn những thân phận tình nguyện bị mắc kẹt trong một cuộc chơi của số phận .
Dalat đẹp, đôi khi, vì có những cơn-mộng-điên chập chờn mãi không thôi! 

cái chết ba cánh tay
(Lê Thị Huệ , 8/2010)
với hương hồn Minh
gửi Giang, Cung Tơ Chiều
và Đà Lạt chết

Giang gửi cho tôi một nùi chết và chút sống 
Đàlạt nơi Minh chia lìa đời 
nơi tiếng hát Giang run lên Cung Tơ Chiều
bao buổi chiều tôi và Minh đi qua hàng thông
giọng hát Giang ve vuốt những bãi màu nghĩa địa 
sương xõa trên Đồi Cù Giang khóc và đã đi qua
thời chúng ta xanh ớn lũ chiến tranh bố ráp
sao tay Giang không vứt hết chùm thư 
xuống Suối Vàng nơi tôi cởi hết thời con gái tắm co cau núm vú
nơi một lần Minh đã nhảy xuống tìm bóng tôi hôn sâu tuổi trẻ
để Minh khỏi ôm mặt đứng ngó tôi và Giang bên này đời 
xanh đời tôi xanh đời Giang và Minh cười xanh khu Mả Thánh
bây giờ chúng ta thành những già chát hát tình ca cũ kỹ
nhớ người đàn ông trần truồng nhảy lầu đốt nến hát dạ khúc chiều
y chết ngòai balcon trên cánh tay Giang
ôm tôi khóc cơn trầm cảm sau chiến tranh
ôm tình Giang trong cơn điên rồ tuổi trẻ
sao tôi thù oán chiến tranh
sao tôi thù oán tuổi trẻ
sao tôi thù oán nhớ nhung 
Giang gửi lại tôi làm gì nùi thời gian 
dú đọet khuôn mặt tình yêu Đàlạt chết
vết sẹo tàn cuộc chiến đổ xuống cuộc đời ba bóng tối
đen ngòm những đứa bé què quê hương như tôi như Minh như Giang
bây giờ Đàlạt Giang đục khàn chết theo cơn khát hát
tiếng hát là quê hương Giang
tiếng hát là đêm sâu Giang
tiếng hát là cơn điên khùng của Giang
người đàn bà quét rác tình ra cơi thời gian
bó trong quan tài chiếc bì thư vàng to và rộng
ba cánh tay, Giang buộc vào cõi vĩnh cửu sa mù 
Giang gửi tương tư cái chết sau ba mươi năm tôi quên cái chết
Giang gửi cho tôi chiếc áo quan tháng tám
tôi ngửi thấy mùi lá thông chết điếu thuốc trên tay Giang
Phan Minh trên tay tôi dúm tro tàn trút càn khôn tuổi trẻ 
đóa loa kèn trắng sau lưng trổ một bông chiều chủ nhật
tóc Minh cháy khét nơi vùng ngực tôi chỗ đọng lại sau chiến tranh 1975

Image may contain: sky

Image may contain: sky, night and outdoor

"...giọng hát Tuấn Anh buồn - tình yêu như bóng mây..."
Đó không phải đề từ cho một bài tản văn giới thiệu giọng hát, đó là lyric trong một bài hát của tác giả Song Ngọc - Đà Lạt Tình Yêu http://chiasenhac.vn/…/da-lat-tinh-yeu~tuan-anh~ts3zzs6dq11… Tuấn Anh trình bày rất thành công (nằm ở một trong số ít những CD tác giả Song Ngọc) Ít khi tên một ca sĩ và cả tên của một bài hát…được đưa vào lời bài hát.
Nhân hôm nay bộ film Bohemian Rhapsody ra mắt (với tài năng xuất chúng của diễn viên Rami Malek– nổi tiếng với series Mr. Robot và cả một bộ film gần đây là Người Tù Khổ Sai Papillon ), chợt nhớ & nghe lại…Tuấn Anh, vì có đọc đâu đó, phong cách ăn mặc của Tuấn Anh ảnh hưởng từ giọng ca chính của “Nữ Hoàng” - nhưng toàn là nam - này. So sánh khập khiễng chút thì có thể thấy giọng hát Freddie Mercury nổi tiếng bởi sự biến chuyển “lúc thánh thót du dương như một thiên thần, lúc gầm vang cuồng nộ”…thì sắc thái vang & trầm trong giọng của Tuấn Anh cũng thế, vì thế khi Tuấn Anh hát một vài ca khúc diễn tả sự nghẹn ngào, ray rứt và tan ra thành ngàn giọt nước mắt…thì Tuấn Anh nhập hồn & ... truyền hồn rất ám ảnh ...
Top 5 bài của Tuấn Anh tôi thấy hay nhất có thể kể đến:
Rồi em cũng bỏ tôi đi + Tan Vỡ (Đỗ Lễ)/ Đà Lạt Tình Yêu (Song Ngọc) / Nắng úa tình tôi (Ngọc Loan)/ 20 năm tình cũ (Trần Quảng Nam)

Image may contain: mountain, sky, outdoor and nature
Image may contain: sky, tree, cloud, plant, outdoor and nature

Image may contain: mountain, sky, cloud, outdoor and nature

Image may contain: mountain, sky, cloud, outdoor and nature

Image may contain: mountain, sky, grass, outdoor and nature
Image may contain: mountain, sky, grass, outdoor and nature

Image may contain: 1 person
Image may contain: 2 people, people sitting

Image may contain: outdoor


Image may contain: people sitting and indoor

Image may contain: people sitting and indoor

Image may contain: people sitting, table and indoor

Image may contain: one or more people and indoor

Một không gian cafe đẹp trong một toà nhà "di sản" của thành phố.
Nơi đây từng là hội sở của nhà in Imprimerie de L’Union (còn thấy dòng chữ này cũng như tên của chủ nhân nhà in trứ danh này - ông Nguyễn Văn Của - ở mặt tiền toà buyn-đinh nhiều gian này) nổi tiếng nhất thời Pháp Thuộc, đã cho ra những tờ nhật báo nổi tiếng thời bấy giờ như L'Écho annamite (Tiếng Vọng An Nam) và cũng là nơi sản xuất ra tờ Lục Tỉnh Tân Văn – một trong những tờ báo sử dụng chữ quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam.
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.

"Miền Nam những buổi trưa nắng vàng lực lưỡng, những đêm sao óng ánh đầy trời, những ngày mưa nhạc mùa thánh thót, những chiều gió thổi cho bà ba bay, những sớm sương đọng cho trái chĩu cành, miền Nam thật mới vì chưa thấy hết… (Mai Thảo: 15 năm – Khởi Hành 1969)
"...Trong lúc sưu tập các tạp chí văn học miền Nam, tôi nhận ra một điều đặc biệt. Đó là việc nhà văn Mai Thảo viết nhiều về 15 năm từ tản mạn, tùy bút, đến nhận định văn học.
Trước hết là bài nhận định “Vài nét điển hình của văn chương tùy hứng” đăng trên nguyệt san Vấn Đề số 11 tháng 5-68 về văn học miền Nam sau 15 năm. Bài thứ hai là bài tùy bút “Mười lăm năm” đăng trên tuần báo Khởi Hành số 8 năm 1969 "
("phát hiện" của nhà văn Trần Hoài Thư - đăng trên blog của ông - bản scan Vấn Đề của Trần Hoài Thư / hình chụp 2 bài tuỳ bút "15 năm Khởi Hành" của huyvespa)

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

Image may contain: outdoor

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

No automatic alt text available.


Image may contain: outdoor


No automatic alt text available.



No automatic alt text available.

No automatic alt text available.

Image may contain: food


Image may contain: outdoor

Image may contain: outdoor

Image may contain: outdoor
Image may contain: outdoor
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
Có những thứ (ta tưởng chừng) bình thường nhưng lại biệt tăm và khi bắt gặp (lại), nó trở thành một điều gì đó rất đặc biệt, con nước lên của miền Tây đã trở thành điều trông ngóng đằng đẵng 5 năm trời, và từ thượng nguồn Hy Mã Lạp Sơn hiu hắt, Mekong sau những cuộc phiêu bạt xa ngái năm nào, mùa năm nay đã lại cuộn trào và mang về phù sa để câu chuyện một loài cá phò trợ cho Nguyễn Ánh trên sông Vàm Nao thưở ấy không còn chỉ là những giai thoại trong truyền thuyết ( Nguyễn Ánh từ Vàm Nao định ra biển, nhưng vì thấy cá này nhảy vào thuyền nên sinh nghi không đi, sau rõ mới phát hiện nếu đi thì đã rơi vào binh phục của Tây Sơn tại Thủ Chiến Sai (An Giang), vì vậy người đặt tên cá này là “cá linh” để tri ân - nói về “Vàm Nao nước chảy đứt đuôi xà” này thì càng có nhiều câu chuyện, điển hình như câu chuyện “ông Năm Chèo”- “ông” cá sấu năm chân - hoà lẫn huyền sử & lịch sử http://tintucmientay.com.vn/truyen-thuyet-ong-nam-cheo-o-mi…), theo phù sa, có hàng hàng lớp lớp những câu chuyện trộn lẫn trong mênh mông sông nước, cá linh theo về và điên điển lại một lần nữa dấy lên màu si mê, tôi trở về miền Tây để bắt gặp thêm một vài điều “đẹp nhất Việt Nam”...như những bảng hiệu hồn hậu đầy tình Việt, hồn Việt và cái-đẹp-Việt!

blog counter
java hostingvpn norway

Lần theo tuyến đường sắt răng cưa Đà Lạt xưa ...

$
0
0

Dalat - Trại Mát - Đa Thọ (Trạm Bò) - Cầu Đất - Trạm Hành - D'ran - Sông Pha - Tân An - Tháp Chàm

Các trạm của tuyến đường sắt răng cưa độc đáo này đã từng là một niềm tự hào cho ngành hoả xa Việt Nam nói chung & là một di chỉ vàng son của Dalat nói riêng. 
Lần này men theo cung đường từ Dalat đến Tháp Chàm tôi đi vào đầy đủ các trạm đã kể ở trên, có nhiều trạm nằm heo hút trong sâu của dãy nhà dân, lẻ loi nép mình khuất sau đường cái hoặc ven một bờ sông hoang vắng . Đẹp nhất là Trạm Bò (ga Đa Thọ) - nằm hiu hắt lẩn khuất sau con lộ lớn, bỏ hoang đã lâu nhưng vẫn toát lên nét đẹp “Đông Dương” của một thời vàng son Dalat cũ...và khi đến đề-pô (depot: nơi trạm dừng để sửa đầu tàu) đoạn trước khi đến D’ran thì tìm thấy “di tích” typo Bellevue (Belle = beautiful / vue = view) (mà người Việt đã “dịch” sang tên cho con đèo rất hay là Ngoạn Mục) (hình như lúc trước còn gọi là đèo Krông Pha – một địa danh của người Chăm - người Việt đọc là Sông Pha) 
Gần 100 năm trước tuyến đường sắt Phan Rang - Đà Lạt là 1 trong 2 tuyến đường sắt trên thế giới (cùng với cung đường Jun Frau Joch, vượt dãy Alpes ở Thụy Sĩ) chạy bằng bánh răng cưa, vượt miền duyên hải lên cao nguyên ở độ cao 1.500m. (1901, toàn quyền Pháp tại Đông Dương Paul Doumer ký sắc lệnh lập tuyến đường sắt Tháp Chàm - Đà Lạt.
1912, dưới thời của Toàn quyền Pháp tại Đông Dương là Albert Sarraut, tuyến đường sắt này mới được khởi công xây dựng)
Đến năm 1932, tuyến đường sắt Tháp Chàm – Đà Lạt chính thức hoàn thành với tổng chi phí hết hơn 200 triệu Francs. Tổng chiều dài 84km, qua 9 nhà ga, 5 đường hầm xuyên núi, 2 cầu lớn, 2 đèo cao là Ngoạn Mục và Đran; có 3 đoạn phải chạy trên đường sắt răng cưa với độ dốc 12% gồm: Sông Pha – Eo Gió, độ cao từ 186m đến 991m, Đơn Dương – Trạm Hành độ cao từ 1.016m đến 1.515m, Đa Thọ – Trại Mát độ cao từ 1.402m đến 1.550m. 
Tiếc thay, cung đường đầy tự hào và thơ mộng nối “biển và hoa” ấy đến năm 1969 đã không còn hoạt động, qua bao dâu bể đã không còn cơ hội hồi phục, nay chỉ còn những di tích hoang phế giữa rừng già.
Tuyến đường sắt răng cưa ở Việt Nam dài 84km nhưng có đến 43km là đường ray răng cưa; còn tại Thụy Sĩ, đường ray răng cưa chỉ có gần 25km ở đoạn vượt đèo Furka. Chính điều này đã là cho tuyến đường sắt Tháp Chàm - Đà Lạt trở nên kỳ vĩ, độc đáo.
Rồi đến năm 1990, toàn bộ các đầu máy xe lửa răng cưa hay những gì còn sót lại từ chúng được bán phế liệu về cho Thụy Sĩ (là nước đã sản xuất ra các đầu máy này), chấm dứt mọi hy vọng mỏng manh tái thiết tuyến đường sắt vốn là một kỳ công kỹ thuật độc đáo của người Pháp để lại. Hai chiếc đầu tàu sau đó đã được người Thụy Sĩ phục hồi và bây giờ vẫn hoạt động đều đặn trên tuyến đường sắt răng cưa leo núi tại Thụy Sĩ (Furka-Bergstrecke).
Tấn bi kịch về công trình kỹ thuật độc đáo của người Pháp ở Việt Nam này là điển hình cho sự vô minh... Men theo dấu tích của một công trình đầy máu, mồ hôi & nước mắt...chỉ cố nén một tiếng thở dài và xoay mòng câu hỏi “Tại sao?”

blog counter
java hostingvpn norway


Tết 2019





















































































Tưởng tiếc ...Tô Thuỳ Yên (1938 - 2019) - "Ba sinh còn để nhớ cho nhau..."

$
0
0

Lòng ta nay vẫn lòng ta trước, 
Vẫn chảy về con nước thuở nào.
Sợi tóc mai kia dù có rụng,
Ba sinh còn để nhớ cho nhau.
(Tô Thùy Yên)

Tôi rất thích 2 bức hình của trang “TÔ THUỲ YÊN – Readers” chụp bìa trước & bìa sau của tập thơ mới nhất & cuối cùng của ông.

Đó phải chăng là “Cám ơn hoa đã vì ta nở” mở ra những trang thơ “khai giải bùa thiêng yểm” – và sau đó, cuối tập thơ, qua biến thiên “Thời gian gia tốc thảm thê thay!” sự úa tàn đến như một luật định “Thiên thu lóe tắt vệt phù du”, đoá hoa tàn theo một câu hỏi :  “Có thật là ta đã đi xa?” - giờ chỉ còn là một vô thanh giữa Hiu Quạnh Lớn, vì người hỏi đã đi/về ... cần/ hay không cần biết?!?

Vĩnh viễn, "Sài Gòn mười một giờ vắng YÊN" (*)...Chỉ còn tác phẩm ở lại, những độc giả ở lại, tấm lòng thơ, ngôn ngữ thơ, hồn thơ ở lại ..."Ba sinh còn để nhớ cho nhau"!

2 Hôm nay, trên newsfeed facebook của tôi cứ 2 post là lại thấy 1 post vĩnh biệt tưởng tiếc thi sĩ Tô Thuỳ Yên đã lên đường VỀ trong một "chuyến đi không hoãn được" - 1 trong những nhân chứng "cuối cùng" của "nhóm" Sáng Tạo hay nói cách khác, cũng là một trong những thi sĩ "cuối cùng" của thế hệ xây nên 20 năm rực rỡ nền văn học miền Nam - những lời tưởng nhớ và R.I.P đến từ những người "già" - độc giả cùng thời ...và cả những người "trẻ" chưa bao giờ được tiếp xúc "trực tiếp" thơ TTY trong nước.

Thế mới thấy, dù cho "bất tận nỗi đời hung hãn đó" ngọn lửa Chân - Thiện - Mỹ của thi ca còn âm ỉ cháy quanh đây. Độc giả vẫn rung động trước vẻ đẹp của Thơ, những tiếng thơ đủ cho chúng ta chia cùng nhau "vinh dự lầm than của kiếp người"!

Khi bạn nghĩ "Cám ơn hoa đã vì ta nở / Thế giới vui từ mỗi lẻ loi" là một câu ngạn ngữ - là bạn đang biết đến TTY; khi bạn hát "Chiều trên phá Tam Giang" là bạn đang biết TTY; khi lang thang trong Saigon và bỗng hiện từ đâu về "Ôi Saigon giờ giới nghiêm..." là bạn đang biết đến TTY; khi bạn tưởng "Ta về như hạc vàng thương nhớ / Một thưở trần gian bay lướt qua" ngậm ngùi như một câu Đường thi, là bạn đang biết TTY...

Vĩnh biệt một "ngôi sao" sáng của nền thi ca Việt - đã đi vào vĩnh viễn Im Lặng Lớn!
Từng tinh tú của bầu trời rực rỡ nền VHNT khai phóng & nhân bản miền Nam đã rơi rụng...Còn lại gì đây cho một nước Việt buồn?

Loay hoay tìm mãi một câu thơ để đưa tiễn ông, nhưng không thể, vì thơ ông, câu nào/ bài nào cũng đều thấm đẫm một ý-nghĩ-tâm-linh, đều tĩnh & đau một hồn Tô-thuỳ-Yên rất mực: một hồn rộng mở, tự hoá-giải/ hoà-giải nỗi bi thiết thân-phận-con-người (Việt Nam)...

Xin trả lại và tiễn biệt ông một nén nhang lòng THẮP TẠ - cũng như ông đã từng để lại nhiều bài thơ "cài hờ trên cửa":

"...Thắp tạ càn khôn một vô ích,
Thắp tạ nhân quần một luyến thương.."

huyvespa@gmail.com


(*) Ôi Saigon 11 giờ vắng im :  version này chỉ xuất hiện CHIỀU TRÊN PHÁ TAM GIANG (nhạc TRẦN THIỆN THANH - thơ TTY) trong version NHẬT TRƯỜNG hát chung THANH LAN 
https://www.youtube.com/watch?v=O62rqLTC9Iw

 ./.

Dưới đây là những lời tưởng tiếc, chia sẻ của cộng đồng facebook hôm qua đến giờ, một sự chia sẻ đầy bất ngờ đến từ số lượng & đến từ cả những người trẻ trong nước .
Và tôi xin giới thiệu thêm cuối entry này 2 bài "nhận định" về thơ TÔ THUỲ YÊN ít/ không thấy trên mạng - 1 là bài của THI VŨ  VÕ VĂN ÁI (viết năm 1985) & 1 là bài mới nhất của GS. TS Lê Hữu Khoá từ Pháp (4/2019)






“Đây là một tập thơ bìa cứng, trang nhã và đơn giản. Chỉ trừ vài dòng cám ơn một số bạn hữu như Hoàng Kim Oanh, Nguyễn Anh Khiêm, Huy Phương, Nguyễn Thanh Châu và Trần Hoài Thư đã giúp tìm thêm một số bài thơ thất lạc, tập thơ không có lời tựa, cũng không trích dẫn lời giới thiệu của bất cứ nhà văn hay nhà thơ nào. Ngay cả tiểu sử cũng vô cùng ngắn gọn ở phần phía trong của bìa sau:
Tô Thùy Yên (Đinh Thành Tiên). Sinh năm 1938 tại Gò Vấp, Gia Định. Học tại Gia Định và Sài Gòn. Viết từ cuối thập niên 1950. Tại ngũ từ 1964 đến 1975. Tù Cộng Sản 13 năm. Tị nạn tại Hoa Kỳ từ 1993.
Tô Thùy Yên – Tuyển Tập Thơ gồm 96 bài thơ, gộp lại những bài từ hai tập trước, Thơ Tô Thùy Yên. Thơ Tuyển (1995) và Thắp Tạ (2004) cộng thêm với một số bài mới được tìm thấy và đưa vào sau này. Tác giả cho biết tập thơ không bán, chỉ để ký tặng. Chi phí in ấn tập thơ do nhà thơ Đỗ Quý Toàn (tức là bình luận gia Ngô Nhân Dụng) và bác sĩ/ca sĩ Bích Liên trang trải.”



















































































Người đeo mắt kiếng ngồi chính diện là thi sĩ Chinh Yên, kế bên là thi sĩ Tô Thùy Yên lúc này đang mang lon Đại úy Tâm Lý Chiến, sau lưng là nhạc sĩ Đỗ Kim Bảng, cạnh ông là nữ sĩ Hồng Vân, tới cô dâu - chú rể, rồi nghệ sĩ Tô Kiều Ngân, còn lại 2 người chưa rõ tên tuổi.

tấm hình chụp ngày 15 tháng 4 năm 1972.













&...Cung Trầm Tưởng !

*...một tút|status cũ. Nay tôi đăng-tải lại để tưởng-niệm thi-sĩ TÔ THUỲ YÊN, Ô. là một thi-sĩ lớn, theo đúng nghĩa của danh-từ này. 23|05|2019.

*...một dòng! VỀ 'BÙA THIÊNG YỂM'.

Tô Thùy Yên, thơ ông có lẽ rồi sẽ thành một cõi siêu-hình mang chứa những hình-ảnh, những linh-ảnh của huyền-thoại, của huyễn-thoại; thơ ông đang chiếu sáng cõi thi-ca Việt Nam như một "ánh tàn-dư" rọi về từ một thời chưa tới.

Ai đó đã nói rằng, một người viết hơn người là người có thể viết những câu mà khi đọc lên, người ta sẽ cảm nhận được ngay cái Đẹp, cái Thực của điều mà nó mang chứa, bất cần (sự dựa-dẫm vào) một tình-cảnh nhất-định. Khi ấy, cái đẹp tự nó đứng vững như một Thái-sơn, như một cái đảo. Uy-nghi và trầm lặng!

'Ta về'đã là một bài thơ như vậy. Gạt bỏ đi hoàn-cảnh thực-sự đã cho phép bài thơ hiện-thành, cái hồn siêu-thực mang mang của Tô Thùy Yên đã cho phép bài thơ ấy vẽ nên cái hình-ảnh hoang-đàng trầm-lặng của phận người giữa cõi sống trầm-luân này. Bài thơ nay tự nó đứng vững, không cần ngày-tháng, chẳng lí gì đến một tình-cảnh cụ-thể.

Tôi để í rằng, có một thi-ảnh đã xuất hiện trước và sau 75 với cùng một nội-hàm trong thơ Tô Thùy Yên: 'bùa thiêng'.

Trong 'Góa phụ', ông viết:

"Con chim nhào chết khô trên cửa
Cửa đóng tự ngàn năm bặt âm
Như đạo bùa thiêng yểm cổ mộ
Sao người khai giải chưa về thăm?"

Thi-ảnh ấy lặp lại một lần nữa trong 'Ta về':

"Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi!
Hãy kể lại mười năm mộng dữ
Một lần kể lại để rồi thôi."

Vâng, 'bùa thiêng yểm'! Sao [những] người [cùng nhau] khai-giải chưa về thăm?

(C) TĐT. 20h43'. 08|03|2019.






























































Thi Vũ

ĐỌC THƠ TÔ THÙY YÊN


 Tô Thùy Yên tên thật là Đinh Thành Tiên, sinh năm 1938 tại Gia Định. Bắt đầu có thơ đăng trên tạp chí Sảng Tạo từ năm 1956, rồi sau đó trên các tạp chi Hiện Đại, Thế Kỳ Hai Mươi, Văn... Ngoài thơ, còn viết truyện ngắn, và dịch sách ngoại quốc. Có lúc chủ trương cơ sở xuất bản Kẻ Sĩ in lại nhạc tiền chiến và những tác phẩm Thanh Tâm Tuyền, Thụy Vũ, và dịch phẩm André Malraux. Vào lính làm đến chức Thiếu tá Trưởng phòng Thông tin Ấn họa Cục Chiến tranh Chính trị. Sau 75, bị bắt đi tập trung cải tạo mười ba năm ở trại Bắc Thái miền Bắc, lao động đập đá, sau chuyển về trại Hàm Tân, Phan Thiết, ngày ngày gánh phân. Được thả về khoảng năm 87-88. Đầu năm 1989 cắt cườm tay tự vận, nhưng được cứu thoát. Cuối năm 1990, lại bị bắt ở Saigon. Một năm sau được thả nhưng sổng trong tinh trạng quản thúc.
Ghi chú của Tô Thùy Yên sau tấm ảnh chân dung trên đây về cuộc tự vận không thành, và thủ bút Tô Thùy Yên thư gửi Thi Vũ từ Saigon:

Ba mươi năm trước, vài khi trên báo chí thấy quảng cáo một tập thơ Tô Thùy Yên sắp phát hành. Nhưng dường như tập thơ ấy chưa bao giờ ra đời ? Phải chăng đó là cái lệ mà một số thi sĩ thiên tài phải chịu ? Suốt đời muốn in thơ, nhưng thơ chưa dịp in. Đâu phải muốn là được, cần sự trợ giúp của đời. Mà đời hay xa lánh thơ ! Xa như Hàn Mặc Tử, gần như Quách Thoại. Phải chết đi trong đau đớn và bần hàn, may mắn lắm mới có bạn bè góp tiền, góp lòng truy niệm in thơ. Đời thi sĩ có bao nhiêu bằng hữu ?!
May mắn quá, Tô Thùy Yên vẫn còn sống trên quê hương, sau mười ba năm đằng đẳng vắt đời trong ngục tù trại tập trung cải tạo.
Sự kiện chưa có một tập thơ Tô Thùy Yên là thiệt thòi lớn cho thi ca Việt. Thật châu báu, vài mươi bài tôi có trong tay, do bạn bè chép cho, hoặc lượm lặt tình cờ trên vài số báo cũ.
Ngôn ngữ thơ Yên mới và linh diệu. Tiết điệu thơ mạnh và hùng. Người đọc như kẻ trôi bè trên dòng nước siết. Càng về sau, thơ Yên toàn bích như rừng, như đá núi dựng sững qua khắp dãy mùa trời. Khác với sự toàn bích đẽo gọt của ngọc trên món nữ trang.
Tô Thùy Yên và Thanh Tâm Tuyền là hai nhà thơ lớn khởi lên từ giữa thập niên 50. Lớn trong nghĩa tân kỳ, trí tuệ và khai phá. Họ,muốn làm mới thơ, với nỗ lực đánh đổ một quá khứ còn mê hoặc làm chậm chân người đương thời : dòng thơ văn tiền chiến. Từ điểm khởi ấy, từ chung chịu ảnh hưởng thi ca Tây phương, đặc biệt thi ca Pháp, hai người dựng lên cõi thơ mình bằng những đường lối riêng. Càng về sau, thơ Tô Thùy Yên càng ngát lộng đông phương. Mặc dù Yên chịu ảnh hưởng St. John Perse rất đậm. Phải tinh lắm mới nhận ra. Vì ảnh hưởng thơ Pháp trong Yên đã được chuyển hóa và thuần phục. Đọc hai câu trong bài Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai :
Cảm phục bồi hồi biển nhẫn nại
Bắt đầu mãi mãi lượn thiên thu
thì đố ai dám nói Yên đã dịch hay ảnh hưởng câu thơ Paul Valéry : La mer la mer toujours recommencée— Đại dương đại dương luôn mãi hoài tái tạo — trong bài thơ nổi tiếng «Cimetière marin».
Đặt những sáng tác cuối của Yên (cuối là cuối với người viết), như Trường Sa Hành, Quỷ Xướng Thi, Tưởng tượng ta về nơi bản trạch, Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai, Qua sông, Đảng tử, Anh hùng tận... bên thơ Đường thấy không khác. Dù thơ Yên không viết thể Đường luật. Khí vị Đường là chất mông lung, man mác, bên cạnh chất trầm tĩnh của con người nhìn lên, nhìn ra. Nhìn lên vũ trụ. Nhìn ra kiếp người. Thơ Yên còn thêm chất sôi động của thời thế, với mắt quắc một người già nghìn tuổi đang nhìn xuống, nhìn vào. Nhìn xuống cõi đời. Nhìn vào thế phận đang nổ tung ý thức.
Hiệp định Genève phân chia đất nước làm đôi vào năm 54, giới làm thơ Việt Nam cũng tách chia hai đường : Những thi sĩ ở miền Bắc tiếp tục làm thơ chính luận, phục vụ các hạn kỳ chính trị và đảng cương. Ở miền Nam, dòng thơ Việt được thoải mái cách tân. Nhóm Sáng Tạc theo tư trào Hiện sinh mở đường cho thơ tự do nổi dậy, chặt đứt cầu với dòng thơ mới tiền chiến, mà họ cho đã cũ và lỗi thời. Họ đuổi khỏi thơ những hình ảnh ước lệ trong thơ tiền chiến, đi bắt lấy những hình ảnh mới của con người đòi hỏi hiện sinh. Vận trình thi hóa này đẩy hình ảnh thơ vào nhịp ý tưởng, thể hiện thành nhịp điệu của ý thức. Thanh Tâm Tuyền, người chủ soái của thơ tự do thuộc nhóm Sáng Tạo, đã xác định mỹ quan thơ tự do là nghệ thuật bắt nguồn từ một nhân sinh quan bi thảm, đắm chìm trong khổ đau không bao giờ chịu chấp nhận[1]. Đối chọi lại với thứ nghệ thuật bắt nguồn từ một nhân sinh quan bình yên, nhìn ngắm và chấp nhận đời sống, như một nghệ thuật của mơ mộng1. Tuyền diễn tả lại ý Nietzsche về hai khuynh hướng nghệ thuật trong bi kịch Hy Lạp : quan niệm Apollon và quan niệm Dionysos.
Liên minh của phần lớn những thi sĩ theo triều thơ tự do ở miền Nam là thơ Pháp. Do đó, lắm bài thơ, lắm thi sĩ cho ta cảm tưởng đang đọc một giai điệu mới qua tiếng Việt, nhưng nguồn thơ Việt đã mất dấu, đã đứt quãng. Đọng rớt vài hình ảnh đẹp, quái lạ, ghép vá bên nhau. Trong khi ở thơ Pháp, câu kéo, hình ảnh, và nhịp thơ như thơ Paul Eluard hay Jacques Prévert dù tân kỳ tới đâu, vẫn nhất quán giữa nội dung, ngôn ngữ và nhạc tính. Có lẽ những thi sĩ Việt ở giai đoạn chuyển thời này chưa tiêu hóa, khi đưa dòng thơ đa âm Pháp, mà họ chịu ảnh hưởng, vào khổ thơ độc âm tiếng Việt, hoặc họ quá vụ vào việc săn bắt thi ảnh, làm mất đi nhịp ý tưởng trong vận trình thể hiện nhịp điệu của ý thức. Sự thất bại của thơ Trần Thanh Hiệp là một ví dụ điển hình.
Quách Thoại, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa... là những người ít rơi vào cạm bẫy đó. Nhờ tài thơ của họ. Lý thuyết có thể mới, nhưng thiếu tài thơ, hồn thơ mới sẽ không linh.
Ngay từ đầu, Tô Thùy Yên đã chứng tỏ được hồn thơ mới với bẩm sinh thơ Yên. Hãy đọc bài Cánh đồng con ngựa chuyến tàu đăng trên tờ Sáng Tạo số 7, tháng 4.56 :
Trên cánh đồng hoang thuần một màu
Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi
Tàu chạy mau mà qua rất lâu
Tàu chạy mau tàu chạy rất mau
Ngựa rượt tàu rượt tàu rượt tàu
Cỏ cây cỏ cây lùi chóng mặt
Gò nổng cao rồi thung lũng sâu
Ngựa thở hào hển thở hào hển
Tàu chạy mau vẫn mau vẫn mau
Mặt trời mọc xong mặt trời lặn
Ngựa gục đầu gục đầu gục đầu
Cảnh đồng a ! cánh đồng sắp hết
Tàu chạy mau càng mau càng mau
Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ
Như giữa nền nhung một vết nâu.
(trích toàn bài)
So với bài Con tàu say của Vũ Hoàng Chương thời tiền chiến, thấy lạ hẳn. cảnh lắng tai nhịp sắt liền liền hay còi khuya vọng mãi tiếng ngân của men rừng say một con tàu ngả nghiêng thuở ấy, mới đến thế, gợi hình đến thế, vẫn còn là giấc mơ trong sương khói êm đềm. Chưa là con tàu vừa lạnh lùng, vừa thực, đang đâm toé ngày đêm vào cõi người như chuyến tàu của Tô Thùy Yên.
Cánh đồng con ngựa chuyến tàu không chỉ là phiến ảnh chụp nhanh. Con tàu lộm cộm thể tích, dùng tốc độ kéo theo cảnh vật đang ngủ lì. Thi sĩ sa thải mọi chất liệu dễ dãi gây khí hậu thơ : những hư từ, những tĩnh từ, thán từ... Bài thơ tuyền những danh từ như toa tàu đồ sộ, như cây cỏ dàn trải. Với một ít động từ gây chuyển động và tốc lực nơi thế giới liên giao từ hình ảnh, âm thanh đến ý thức.
Chữ ở đây không ngừng ở chức năng gợi hình, gợi ý. Chữ phá nổ mặt phẳng giấy, đưa hình vào ba chiều không gian để chạy đuổi vào chiều bốn của thời gian. Đừng tưởng Yên làm thơ tả chân hay hiện thực. Mọi sự thực, vật thực, cảnh thực đã là thực, cần chi thi ca môi giới cho nó hiện ra ? Thi ca không cần tả, vì thi ca không phóng sự. Thi ca là tiếng báo hiệu khi quên lãng bắt đầu. Thi ca vừa dịch biến, vừa lưu giữ cho tâm và mắt có lối noi trên viễn trình vũ trụ.
Tàu chạy mau mà qua rất lâu
nghĩa là gì ? tả chân ? hiện thực ? cảm giác ? Không. Đây chính là ý thức chớp loé của thi ca giữa sự va chạm của một không gian (con tàu) với một không gian (cánh đồng) ; của một không gian (con tàu) với thời gian (tốc độ). Lâu hay mau mang giá trị tương đối. Không phải giá trị tự thân hay vĩnh cửu. Lâu hay mau chỉ là cảm thức. Tàu chạy mau đối với mắt. Nhưng qua rất lâu đối với cánh đồng dài. Vì từ vô thủy, cánh đồng hoang đã chạy vô cùng nhanh, rượt đuổi không gian. Bất cứ tốc độ nào xẩy ra trên nó đều chậm rùa.
Tàu chạy mau tàu chạy rất mau, ngựa rượt tàu rượt tàu rượt tàu, cỏ cây cỏ cây lùi, ngựa thở hào hển thở hào hển, mặt trời mọc, mặt tròi lặn, ngựa gục đầu gục đầu gục đầu, tàu chạy mau càng mau càng mau...Những nhịp gấp vô tận và liên tiếp ấy làm lớn lên một con tàu đâm sà vào đầu óc ta, như thế giới vô thường chuyển dịch lôi kéo ta qua muôn nghìn định mệnh lá lay. Kẻ chạy theo, hay bị kéo theo, đều thở dốc, thở hào hển, chóng mặt, gục đầu. Chạy cho tới lúc mệt chết, hay do tỉnh ngộ mà đứng lại, con người mới nhảy khỏi vòng biến động trầm luân. Động tác ngã lăn ấy có thể là sự chấm dứt — chết — nhưng cũng có thể là một chuyển sinh hoặc tái sinh. Nó hiện hữu như ý thức bừng tỉnh : một vết nâu giữa nền nhung.
Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ
Như giữa nền nhung một vết nâu
Không gian và thời gian còn giá trị gì khi thiếu cái gạch nối là hiện hữu vô thức hoặc hiện hữu đã bừng tỉnh ý thức ấy ? Trong bài thơ của Tô Thùy Yên, cánh đồng là không gian, chuyến tàu chuyên chở thời gian, và con ngựa là hiện hữu vô thức. Hiện hữu vô thức này dùng tốc độ rượt tàu mở rộng ý nghĩa không gian và thời gian cho cánh đồng và chuyến tàu. Nhưng hiện hữu chỉ hiện hữu khi bừng tỉnh thành ý thức, qua cái ngã lăn ra một vét nâu, như một tự hữu lập thành. Thi ca đưa cái không thành có. Đưa vô sinh vào duyên sinh. Duyên sinh là kết hợp những yếu tố chưa thành làm ra cuộc sống có kiến trúc.
Ít nhà thơ nào nói rõ về mình và con đường thơ của mình như Yên :
Tôi là Tô Thùy Yên là thi sĩ là người chép sử tương lai
Vốn học hành dang dở nên ra đứng bờ cuộc đời ngó xuống hư vô
Khi mùa hạ đốt bùng lên những hàng phượng
...
Có sống ngoài chiến khu nên rời bỏ Việt Minh
Đến cất lời ngợi ca cuộc đời xứ sở anh em ái tình thịnh trị
...
Cha mẹ tôi cho con tính tình rộng rãi. Tôi cho thêm tôi một chút ngang tàng
...
Còn làm thơ theo ý riêng tôi nghĩa là dịch thuật tâm hồn nghĩa là nói về con cháu chúng ta
Nghĩa là ngợi ca loài người hiền hậu
Nghĩa là thúc giục đám đông nổi loạn chống cường quyền
Nghĩa là nghe ngỏng nơi đại dương còn thiêm thiếp cuộc sửa soạn âm thầm của bao cơn sóng cuồng vạm vỡ
Nghĩa là có mặt trong mọi hành vi lớn nhỏ của đời mình
Nghĩa là giúp mọi người sống đủ hai mươi bốn giờ mỗi ngày nghĩa là giúp họ tìm thấy họ
(trích Tôi, Sáng tạo số 11, tháng 8.57)
Để giúp họ tìm thấy họ, thi sĩ có mặt không chỉ bằng lời mà bằng hành động.
Tôi ra giữa công trường cất tiếng kêu oan
Nhân loại ngây thơ đời đời chịu tội
Sắt đỏ cày nhăn trán mịn màng
Lúa đầy đồng người gặt thiếu ăn
Chủng nó đòi thủ tiêu thi sĩ
Tôi là thi sĩ tôi yêu
(trích Tôi lên tiếng, Sàng Tạo số 8, 5.57)
Yêu là sống, sống là bảo vệ trước mọi kích động căm thù và bạo lực. Thi sĩ hòa mình vào đám đông. Không sợ hãi. Một đám đông có ý thức nhờ đám đông khởi dựng từ đơn vị người :
Chúng nó hành hình thủ tiêu ám sát
Tôi là một người là một đám đông
(trích Tôi lên tiéng, nt.)
Trong tự ngã của thơ Yên luôn chứa chấp cái tổng ngã của đời và người. Yên dùng rất nhiều chữ tôi, nhưng không thấy riêng lẻ. Chữ tôi đã thành ta hòa đồng. Nụ cười của Yên nhếch trên đôi môi khác :
Chúng ta cười trên môi bằng hữu
(trích Tôi lên tiếng, nt.)
Đặt tín hiệu của niềm vui và hạnh phúc lên môi bằng hữu, riêng mình đau nỗi đau người, vì Yên là người thi sĩ hóa thân trong dòng thi ca báo động
Tôi vùi mình xuống cô đơn như quả mìn nổ chậm
Cuộc sổng biến thành một báo động triền miên
(trích Đêm hè, tạp chí Thé Kỷ Hai Mươi số 1, tháng 7.60)
... Cơn giông đày cổ họng, anh đứng gác trên một đỉnh cao kiêu hãnh và báo to lên những gì xuất hiện đằng xa...
(trích Nhân nói về một danh từ riêng, Sáng Tạo số 24, tháng 8.58)
Báo động sự uy hiếp đang chà nát cõi sống :
Niềm bí ẩn của tôi là đã sống
quả địa càu nhầy nhụa bóng âm u
ảnh mặt trời những tên đao phủ án
chúng nó bảo đêm là ánh sáng mun
thứ mặt trời đen mới thật mặt trời
phải chọc mù đui những cặp mắt tinh
chúng nó bảo ích lợi gì trí thức
mọi người phải cùng xanh đỏ như nhau
mặc đồng phục cho linh hồn tất cả
bảo xác chết làm phân bón hòa bình
chúng nó giết người trong nhà ngoài ngõ
chúng nó giết người như dọn rừng hoang
một tiếng thôi tư bản hay vô sản
không ai đứng ngoài cuộc báo thù này
nát thân tôi đường mã tấu hai phe
tôi ngã quỵ đôi bàn tay sạch sẽ
(trích toàn bài Ngoại cuộc, sđd. nt.)
Báo động không là tố cáo suông, hay hiệu triệu bằng ngôn ngữ sách động. Thi sĩ khổ luyện ngôn từ :
tôi giựt giành đổ máu với tôi
từng chữ một
những tên cai ngục
ngôn ngữ bất đồng
với thứ linh hồn quốc cấm
tôi tù tội chung thân
giữa bốn tường không khí
...
bằng mỗi lời độc nhất
tôi kê tai tiết lộ với từng người
những điều không lập lại
bài thơ như lá sâm
...
(trích Thi sĩ, sđd. nt.)
Tôi mọc trên địa cầu
Nên các cành huyết quản
Rút nhựa đời không thôi
Làm trải tim chín đỏ
Tôi nằm há miệng chờ
Trái tim muồi rụng xuống
Gặp môi tôi phì nhiêu
Đóa lời ca trổ ngát
(trích Bài học về vạn vật, Sáng Tạo số 22, tháng 7.58)
Một lời ca tràn đầy tin tưởng :
Chúng tôi còn sổng như mặt biển
Chúng tôi còn sống như trời mây
Bởi vì đã đi nên sẽ đến
Người và bóng tối sẽ chia tay
Ở ngã ba tưong lai gần gũi
Người còn sống không che mặt mũi
Phơi bày tấm lòng lên nụ cười
...
Chúng tôi còn sống còn cung tay
Người giơ tay đúng tầm hạnh phúc
La đà như trái chín gần rơi
(trích Tuyên ngôn, Sáng Tạo số 6, 3.57)
Đãi đời bằng nụ cười, nhưng với dối trá, bất công, thì cung tay bắn tới, để hạnh phúc la đà vào tầm tay người. Trong tình yêu, Yên yêu thương trọn vẹn, bất kể người yêu hậu ý gì :
Tôi tin chi hồ ly khi yêu em
(trích Tình anh em, Sáng Tạo số 3, 12.56)
Ta xuất hiện như tên tù tẩu thoát
Trọn gia tài : một huyết thống phiêu lưu
Ta hát lớn những tru sầu chất ngất
Lời vỗ về cao hết độ ngu ngơ
Ta gặp em như gặp người thứ nhất
Em gặp ta như gặp kẻ cuối cùng

Những đêm đó, một vành trăng đã khuyết
Làm hoang đường những mộng mị trăm năm
...
Thà làm kẻ si tình hát điên loạn
Hơn làm người thành đạt thời nhiễu nhương
Ta sống cuộc đời ta không sửa soạn
Như nhan sắc em cần chi điểm trang
Ta cứ coi em như hoàng hậu góa
Dẫu biết thừa em vốn gái lê dân
Còn ta đây : một vĩ nhân tàn tạ
Chẳng làm nên công nghiệp đáng lưu danh
...
Nghề ngông cuồng tập mãi cũng thành quen
(trích Chuyện tình người lỡ vận, Văn số 188, 15.10.71)
Không phải tới đầu thập niên 70, thơ Yên mới mang nỗi buồn hiu hắt. Ngay ở dòng thơ đầy lạc quan và chiến đấu giữa thập niên 50, nét cô đơn vẫn hiện hữu. Thi sĩ nào mà không cô đơn nhỉ ? Nhưng có nhiều thi sĩ lấy cô đơn làm bệnh, lấy cô đơn để nũng nịu, để lập dị, hoặc làm kế gọi kêu thương hại. Ở Yên thì không. Cô đơn có thực, kín đáo cho riêng mình. Yên ít muốn xé to chuyện đó. Vì Yên phải chiến đấu với nó hằng ngày, ngang với cuộc chiến đấu trong xã hội.
Cô đơn bằng Thượng Đế
Yếu đuối như linh hồn
Làm sao tôi trèo lên
Vực thẳm tờ bản thảo
Trắng như giá băng
...
Có đọc thuộc thánh thư
Linh hồn tôi vẫn vậy
Tôi vẫn không thể lạy
Dù đứng trước hư vô

Đầu tôi trơn và cứng
Thượng Đế làm sao ngự
Tôi đành trốn chủ nợ
Định mệnh đòi linh hồn

Năm tháng nhúng hoàng hôn
Đến rã rời thể xác
Tôi thấy đã mất mát
Tất cả trừ cô đơn

Cuộc sống nhiễm lầm than
Nằm liệt trên buồn bã
Thượng Đế điềm nhiên lạ
Tôi đánh liều cười khan
(trích Thân phận của thi sĩ, Sáng Tạo số 26, 11.58)
Đèn le lói vết thương tươi
Trời da thi thể mưa ngùi chấm than
Hiên ga nhỏ giọt cường toan
Xuống tim quằn quại hàng hàng ưu tư
...
Làm gì đây để giải khuây
Ngó tay mới biết mình gầy hơn xưa
(trích Trời mưa đêm xa nhà, Sáng Tạo số 31, 8.59)
Biển động kinh không ngớt
Nóc nhà thờ hoảng hốt túa âm thanh
...
tôi mang khắp hình hài những vết bỏng
đi suốt hoàng hôn không hỏi chào ai
tôi chọn nơi nhiều đau khổ làm quê hương
nhưng chẳng nhận đồng bào bất cứ kẻ nào
(trích Tội trạng, Thế Kỷ Hai Mươi số 1, 7.60)
Sao thế ? sao chẳng nhận đồng bào bất cứ kẻ nào ? Nhận là theo phe. Theo phe tất cuồng tín. Cuồng tín là đem lỗ rún mình làm lá cờ khởi nghĩa. Khởi nghĩa như thế thì còn chi dám chọn nơi nhiều đau khổ làm quê hương để trân trọng hay cứu quê hương đó ? Ở đây, có lẽ Yên đã thấm nhuần lời nguyện của Bồ Tát Địa Tạng : «Ta thề chưa thành Phật, khi còn một kẻ khổ đau trong Địa ngục !». Mà địa ngục là địa ngục trần gian chứ gì.
Chọn chốn đau khổ để vào, là niềm bí ẩn của thi sĩ. Nếu không, thi sĩ làm chi ? Nếu không, người là một tên bụng phệ, mang gọng kiếng vàng, ngồi xe sang, bên một người vợ đẹp ngày càng già càng xệ càng bệu má ba cằm than thở mỏi xương nhức gối. Làm sao thấy được những điều thi sĩ thấy :
...
Tôi nhìn qua ý thức thấy hư vô
...
Hoa cúc mở toang những cánh cửa vàng
...
Tình yêu là khuôn mặt dịu dàng nhất của cô đơn
...
Thiếu đau khổ người ta thành múa rối
...
Tôi ngất ngây như đĩnh núi kiêu hùng
Mái đầu già băng tuyết vạn niên
Hung hãn như dòng sông khởi sự hành trình
Tôi đập nát những tĩnh từ sầu nhớ tiếc thưong
(trích Thái độ, Sáng Tạo số 2, 8.60)
Vẫn biết tháng ngày chảy trong huyết quản
Và tháng ngày đâu có cội nguồn mà sẽ trở về
Vẫn biết chỉ ở trong cõi đời đã là phạm tội
...
Nhưng vốn võ trang bằng hiên ngang hãnh diện
Nên chiến cuộc giữa tôi và Thượng Đế kéo dài
đến một trăm năm
(trích Ký thác, Sáng Tạo số 17, 2.58)
Chiến đấu để tái sinh
tôi thổ huyết cuồng mê như núi lửa
thiêu hủy hình hài ăm ắp chất cô đơn
rồi trời đất hừng đông như trứng vỡ
tôi đã đầu thai thức dậy đỏ sơ sinh
(trích toàn bài Kiếp khác, Thế Kỷ Hai Mươi số 1, 7.60)
Chỉ ở trạng thái thoắt sinh từng ngày, con người mới thoát khỏi sự lão suy sinh từ vị kỷ, vụ lợi, ganh tị, bạo hành
Đứa bé trốn đi linh hồn râu tóc trắng
(trích Vie posthume, Sáng Tạo số 2, 8.60)
Kẻ nào trốn lánh đời sẽ tức khắc già sụm. Đâu chờ tới tuổi 70 mới râu tóc trắng. Râu tóc có thể trắng từ năm 15 hay 30 tuổi rồi. Còn lại chỉ là cái sống lâu — dễ hóa sống thừa. Dù sẽ được lên lão làng. Mà lão làng để làm gì ?
Cuộc đời cao lớn thế
Người vừa kích thước chăng
(trích Những ý nghĩ vào buổi chiều bãi biển, Sáng Tạo số 24, 8.54)
Bởi thế, có lúc Tô Thùy Yên muốn bỏ cả điều linh thiêng nhất : Bỏ làm thơ ?
... Anh định ngày rất gần đây sẽ thôi làm văn nghệ,
tôn giáo của những anh hùng bất lực...
(trích Phương, Sáng Tạo số 2, bộ mới, 8.60)
May Yên không thực hiện ý định này. Nhưng phát hiện kia không kém phần chính xác : «Văn nghệ là tôn giáo của những anh hùng bất lực» !.
Bẵng đi gần mười năm (hoặc giả tôi thiếu tài liệu), từ 1970 trở đi, thơ Yên mới lại xuất hiện đôi lần trên tạp chí Văn. Và lần này, thơ đã chín. Hàm ẩn nhưng mỹ miều so với thời thơ 56-60. Cùng với Yên nguồn thơ Việt khởi sắc cường lưu. Những bài thơ không thể trích, vì nhất quán toàn bài. Chữ nghĩa kéo đi như dòng sông lớn mịt mù điểm biến. Mỗi bài là một tấm lụa, một bình minh tinh khôi.
Tôi mong nhũng người làm thơ trẻ bây giờ nghiền ngẫm thơ Yên trước khi đặt bút sáng tác. Để tránh tình trạng lạm phát chữ nghĩa, lạm phát ảo tưởng, lạm phát «thiên tài». Ngày nay, thơ đang ùa tới các tòa soạn báo chí, hay in đầy thị trường như những xác ve mỏng mảnh dễ thương, nhưng khô chết. Đến cái tiếng inh ỏi gọi sầu cũng bặt. Loại thơ, đọc lên nghe du dương mà nhạt thếch. Đọc xong chả thấy gì an ủy cho cuộc sống vốn đã nhạt nhàu bi thảm. Người đọc hết bật mình giẩy nẩy, tim thôi xôn xao đất trời. Đâu rồi những bài thơ mở toang lịch sử, ngọt rót ân tình ? Phần lớn thơ ngày nay như bài nhạc cải cách, khúc hát cải lương. Qua đó, thi sĩ nghèo nàn sống với dăm ba chữ trùng phức : anh, em, đổ vỡ, chia lìa, cộng nô, người xưa, kháng chiến, anh hùng, lãnh tụ, liệt sĩ, trại tù, lưu vong, mất nước, giai cấp, đấu tranh, cách mạng, gươm súng, Kinh Kha say rượu đi du lịch, hay Phạm Tuân bay lên vũ trụ...
Thơ Tô Thùy Yên tuyệt dứt chất cải lương hay tân cổ giao duyên. Bằng nhịp điệu của ý thức mới, Yên xua chữ như đạo quân xông trận, đột kích những tư trào xâm lược đang cấy chất vong bản vào não trạng và thi tính Việt.
Nhạc tính làm chân đứng cho thơ. Nhưng gần đây nhạc tính của thơ đã thành một tiếng ru rè đưa ta lên cơn đồng thiếp, làm ma túy cho ngôn ngữ huyễn vọng. Chữ dùng đã mất nguyên ngôn, trơ lì nơi trùng phức, chằm vá. Thơ cũng như một số bài tân nhạc, nghe câu đầu đã đoán ra làn điệu tiếp sau, dù người nghe không là nhạc sĩ. Hàng trăm bài thơ sản xuất hôm nay, đọc xong câu đầu biết toàn bài nói gì.
Thơ Tô Thùy Yên không thế. Thi tính phát từ chữ. Mỗi chữ một tứ. Tứ đưa ngôn ngữ khởi nhịp, ùa đuổi ý thức. Ý thức may lành những mảnh nhân sinh tan vỡ. Ở bất cứ bài thơ nào, chủ đề nào. Dù đó nói về một Góa phụ
Em độc thoại lời kinh ánh xanh
Trăng lu khuya mỏi nén nhang tàn
Chó tru thăm thẳm ngây thiên địa
Mái ngói nghiêng triền trái rụng lăn

Ngọn đèn hư ảo chong linh vị
Thẳp trắng thi gian mái tóc em
Tim đập duỗi ngoài thân nỗi lạnh
Hồn xa con đóm lạc sâu đêm

Cỏ cây sống chết há ta thán
Em khóc hoài chi lẽ diệt sinh
Thảng như con ngựa già vô dụng
Chủ bỏ ngoài trăng đứng một mình.
(trích Góa phụ, tạp chí. Văn, 21.5.74)
Hay tả một đoàn quân qua sông
Đò nghẹn đoàn quân xa tiếp viện
Mưa lâu trời mốc buồn hôi xưa
Con đường đáo nhậm xa như nhớ
Chiều mập mờ, xiêu lạc dáng cò
Quán chật xanh lên rừng lính ướt
Mặt bơ phờ dính gió bao la
Khí ẩm mù bay, mùi thuốc khét
 Chuyện tình cờ nhúm ấm cây mưa
Vang lên những địa danh huyền hoặc
Mỗi địa danh nồng một xót xa
Giặc đánh lớn — mùa mưa đã tới
Mùa mưa như một trận mưa liền
Châu thổ mang mang trời nước sát
Hồn chừng hiu hắt nỗi không tên
Tiếp tế khó — đôi lần phải lục
Trên người bạn gục đạn mươi viên
Di tản khó — sâu dòi lúc nhúc
Trong vết thương người bạn nín rên
Người chết mấy ngày chưa lấy xác
Thây sình mặt nát lạch mưong tanh...
Sông cái nước men bờ sóng sánh
Cồn xa cây vướng sáng mơ màng
Ảo quan phong quốc kỳ anh liệt
Niềm thiên thu đầm cỗ xe tang
Quê xa không tiện đường đưa tiễn
Nghĩa tận sơ sài đám lạnh tanh
Thêm một chút gì như hối hả
Người thân chưa khóc ráo thâm tình...
... Nao nao mường tượng bóng mình
Mịt mùng cõi tới u minh tiếng rền
Xuống đò, đời đã bỏ quên...
Một sông nước lớn trào lên mẳt ngời
(trích toàn bài Qua sông, Văn số 190, 15.11.71)
Hiu hắt thơ Đường trong Chiều mập mờ, xiêu lạc dáng cò, nhưng rất thời đại và việt nam, trên mặt bơ phờ dính gió bao la. Thơ thiên tài với mùa mưa như một trận mưa liền. Âm hưởng lạ kỳ qua chiều rộng của mùa mưa, tới chiều cao nơi trận mưa liền. Tạo dựng nên vũ trụ mù tăm của cuộc chiến, với ý nghĩa xác thân của những thế phận nhiễu nhương... Ta sẽ cảm nhận thân thiết với thi sĩ, khi chưa quên nghĩa chữ  là bốn phương và trên dưới (không gian), và xưa qua nay lại là trụ (thời gian) qua từ ngữ vũ trụ nhắc nói thường ngày.
Từ chiến trường khốc liệt ba mươi năm, thơ đẻ ra khá nhiều trên hai miền chia cắt. Đa số vẫn là thơ sát khí, thơ chính luận. Những bài thơ tuyên truyền chiến tranh hay phản đối chiến tranh. Hiếm thơ xao xuyến thân phận người giữa cuộc chiến. Con người chưa được sống, vì ngày, tháng, rồi năm cứ hoài mãi ước mơ thôi. Bên cạnh sự giết người như một lý tưởng.
Trong thơ Tô Thùy Yên, dù nơi chiến trận, con người hiển hiện, mặc bao thúc bách, trấn áp trước họng đỏ ngông cuồng của lịch sứ.
Dựng sủng trường, cởi nón sắt
Đơn vị dừng quân trọn buổi chiều
...
Mấy kẻ gặp nhau nào có hẹn
Nên gặp nhau không giấu nỗi mừng
Ta gạn dăm lời thơ tặng bạn
Dẫu từ lâu bỏ việc văn chưong
Thiệt tình tên bạn ta không nhớ
Nhưng mà trông mặt thấy quen quen
Hề chi, ta uống cho say đã
Nào có ra gì một cái tên...
Tới đây toàn những tay hào sĩ
Sống chết không làm thắt ruột gan
Cũng không ai nhắc về thân thế
Có vợ con mà như độc thân
...
Người thuở trước tìm vàng khẩn đất
Tiêu xác thân, để lại oan hồn
Ngày nay, ta bạn đến đây nữa
Đất thì không khẩn, vàng không tìm...
Bạn nhủ ta : đừng hỏi khó
Uống mất ngon vì chuyện loạn tâm
Ta chắt cho nhau giọt rượu sót
Tưởng đời sót chút thiếu niên đây
Giờ cất quân, đưa tay bắt
Ước cõi âm còn gặp để say.
(trích Anh hùng tận, Văn số 190, 15.11.71)
Say rượu đáng thương hay đáng trách ? So với sự say sưa chinh chiến, say sưa cách mạng, say sưa chủ nghĩa, say sưa giết người, say sưa làm tổ sư đạo đức giả ?
Bạn có nghe, này bạn có nghe
Ở bìa rừng bên gió sửa soạn
Tuần du — cuộc tuần du bất tận
Bạn có nghe, này bạn có nghe
Giữa tầng trời cao chim giục giã
Từng giàn như những thủy triều sôi
Bạn có nghe, này bạn có nghe
Trên đỉnh non nhòa, mây xôn xao
Về nơi hẹn nào không định trước
Bạn có nghe, này bạn có nghe
Vũ trụ miên man chuyển động đều
Chim đã bay quanh từ vạn cổ
Gió thật xưa, mây thật già nua
Nên với một đời bao biến đổi
Mà trong vô hạn có chi đâu
Ly rượu rót mời, xin uống cạn
Bài ca ta hát đến đâu rồi
Xỉn hát nốt — còn đi kẻo muộn
Cho úp ly — bóng xế đường dài
Bìm bịp chiều chiều kêu nước lớn
Đi, đi đâu, chèo chống mỏi mê
Đến ngã ba, đành theo một lối
Tiếc ngẩn không cùng theo lối kia
(trích Đãng tứ, Văn 190, 15.11.71)
Tiếc là có phân vân. Tuy phân vân là cảm tính bi lụy nhất thời, vì đã biết lối đi mình dưới vòm trời sử thi :
Ra đi như một bình minh lạ
Trên kỷ nguyên chưa kịp hiện hình
Thi sĩ Bắc, Nam đều chết rạp
Ba trăm năm lịch sử làm thinh
(trích Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai, Văn 207, 1.8.72)
Thời nào lãnh tụ vừa ngu dốt vừa mê muội, thì lịch sử làm thinh. Sông Gianh rồi Bến Hải, ba trăm năm cứ y một
Cuộc cờ kỳ lạ không bày tướng
Ăn sạch quân, trừ tính được thua
Hỏi ai tráng sĩ mài gươm nhọn
Xin nhớ đời không mỗi sắc vua
(trích Hề, ta trở lại gian nhà cỏ, Văn 207, 1.8.72)
Còn chi nơi sử xanh ngoài âm thanh của đá ?
Trên dốc thời gian, hòn đá tuột
Lăn dài kinh động cả hư vô
(nt.)
với nỗi tiếc thương
Nghĩ tội thương sau này, mãi mãi
Trên mồ ta, trăng phải lang thang
(nt.)
vì giờ ngọ đã qua, giờ hoàng đạo đi xuống, đưa ngày và đời vào hoàng hôn thế kỷ
Hoàng hôn xô bóng ta trên cát
Ta lớn lao và ta cô đơn
...
Dưới bóng bao trùm hạt cát tỏa
Đền rêu, miếu cỏ lạnh ma hoang
(trích Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai, nt.)
Nhưng Yên không chết đâu. Bao lâu vũ trụ còn, thi sĩ cứ hiển linh. Ngược lại cũng đúng, còn thi sĩ, vũ trụ còn sinh sôi. Vì thi sĩ là kẻ tái sinh sự lãng quên ra mầm nhú mỹ miều. Lịch sử không thi sĩ là lịch sử mù. Nhờ thi sĩ, biết bao điều được sống mãi nơi thơ mộng và trí nhớ. Trí nhớ chồng trí nhớ, cái «gien» người mới không mất những gì đã tụ hội từ vô thủy.
Tô Thùy Yên tồn tại mãi với triều thơ sang giàu chữ và ngữ điệu lồng lộng thi ca. Huống chi, Yên từng xác định :
Sống trên đời, chuyện ghê gớm quá
Vậy mà ta sống có kỳ không
(trích Hề, ta trở lại gian nhà cỏ, nt.)
Ta uống giếng hoang, ăn trái lạ
Tâm hồn mãi mãi mới tinh khôi
(trích Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai, nt.)
Yên vừa nắm bắt được giữa lòng tay một tịch mịch mùi
Buổi trưa như buổi trưa nào đó
Tiếng võng đưa đưa tịch mịch mùi
(trích Hề, ta trở lại gian nhà cỏ, nt.)
Buổi trưa là tiếng tố cáo hoàng hôn — sự đi xuống, chất tàn tạ. Tiếng võng là biến dịch — sự sống chuyển hóa. Tịch mịch là lặng yên. Còn tịch mịch mùi ? Hiểu cách nào cũng đẹp.
Hiểu theo triết học, thì giờ mùi (13-15 giờ) là giờ khởi sự đưa ngày lên đường vào hoàng hôn tàn tạ. Yên lặng sự khởi đầu ấy, hoàng hôn không bao giờ tới. Nỗi chết của ánh sáng không còn hiện ra.
Hoặc hiểu mùi như hương thơm, thì nỗi tịch mịch kia lý thú biết bao. Nơi tận cùng cô tịch, bỗng một làn hương thoảng tới, ngào ngạt tái sinh. Còn mùi là chín, tịch mịch vượt nỗi quạnh hiu riêng, để xòa ôm cảnh rộng thinh bát ngát của như nhiên phiếu diễu như một niềm trời.
Nhưng phép cảm thơ, đối với những dòng thơ lớn, lắm khi chẳng cần thiết phải chẽ sợi tóc làm tư vạch tìm ngữ nghĩa như thế. Hãy ngâm lên ! Ngân lên cái khí thơ ngút trời, và chất thơ lạ đời đang xao xuyến tim, và xôn xao nghìn tinh đẩu… Chẳng hạn những câu :
Mùa mưa như một trận mưa liền
...
Tàu chạy mau mà qua rất lâu...
...
Tiếng võng đưa đưa tịch mịch mùi ...
...
Dưới hồn ta tịch mịch long lanh
...
Đã buông trong bạt ngàn xanh ngắt ...
Gió thật xưa mây thật già nua
...
Mầm cỏ ngoi ngoi lên rạo rực
...
Biển đưa trăng lăn vào đá tiếng ru.
Mà thơ Tô Thùy Yên là như vậy đó.
Sau chính biến 75, nhà cầm quyền cộng sản lùa đi tù cải tạo ba triệu dân miền Nam. Trong đó có nhà thơ Tô Thùy Yên. Yên bị hành hạ đằng đẳng mười ba năm. Đối diện với thú tính, đối diện với ngục tù, lời đáp của Yên là Thơ. Yên sống thơ hơn bao giờ. Yên đảm lãnh Thơ cho một dân tộc đang mất Thơ trong đời và trong trí. Sống Thơ qua từng nghìn câu. Như bài «Ta về» dài 300 câu, sáng tác sau khi đi tù cải tạo về, có thể đại biểu cho thi ca Việt Nam hạ bán thế kỷ XX. Lớn lao quá — thơ và thi nhân — giữa thời khổ hạnh, khi tiếng tru loài sói được công nhận như «tiếng người». Không bi lụy mà bi tráng. Không hằn thù mà nhân văn. Không ngoại tộc vì thi tưởng chín hồng sau mười nghìn năm người Việt khai quốc.
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cám ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
(trích Ta về)
Thơ đọng vào chữ mỗi sáng danh. Chữ mỗi đánh bạt chữ mọi đang chủ tể ý thức hệ nô lệ bầy đoàn. Thứ ý hệ muốn biến Yên và những người như Yên thành :
Mười năm mặt xạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ
(trích Ta về)
Nhưng. Nhưng thi tính và tư tưởng Việt là con đê hà lan chắn ngăn mọi triều nước ngoại xâm hung hãn :
Ta về một bóng trên đường lớn
(trích Ta về)
Mười năm ta vẫn cứ là ta
(trích Ta về)
Không về trong tư thái tiến quân hay phục quốc kiểu «Tiến về Hà Nội» thảm sát Thăng Long. Không. Tô Thùy Yên nhân hậu như một lần quê hương. Nơi mà «mỗi lẻ loi» hàm chứa bát ngát tình yêu
Chiều nay ta sẽ đi thơ thẩn
Thăm hỏi từng cây, những nỗi nhà
Hoa mận, hoa tầm xuân vẫn nở
Trong vườn không hết những mùa hoa
...
Chút rượu hồng đây, xin nước uống
Giải oan cho cuộc biển dâu này
(trích Ta về)
Dâu biển đổi dời phũ phàng man rợ đến mấy, người thi sĩ vẫn thủy chung với Tinh cũ, Nước xưa — những chưa hề và không mất mát. Cái đó mất, cái mình đây cũng mất. Cho nên phải gìn giữ, dù xót xa vô tận
Tình xưa như tuổi già không ngủ
Bước chạm khuya từng nỗi xót xa
(trích Ta về)
Cái Kiến tính THẤY của người thi sĩ khiến họ trở thành người canh gác vũ trụ. Vũ trụ trong nghĩa Không—Thời ta vừa nhắc trên kia. Họa hoằn là thi sĩ, bọn lãnh tụ chính trị hay tướng lĩnh làm sao thấy được
Đau khổ riêng gì nơi gió cát
Hè nhà, bụi chuối thức thâu đêm
(trích Ta về)
Bi kịch không hoàn tất bi kịch, khi dòng thơ bi tráng hóa thân vào mỗi gốc cây, trạm chuyển hóa mối đại thức giữa đất và trời :
Cây bưởi xưa còn nhớ trắng hoa
(trích Ta về)
Và biết đâu Kẻ cứu tinh nòi giống không là một Thi sĩ ? Không là dòng Thơ Tô Thùy Yên ? Một Nguyễn Du khác.
Ta về cúi mái đầu sưong điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Khung đời nhị nguyên (dualisme) tan vỡ qua thế phận Kiều của «trăm năm trong cõi người ta : chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhan» vừa khép lại. Cùng với Yên hiển hiện mối dung thông bất nhị (non-dualité) lúc «nghe nặng từ tâm lượng đất trời». Thi sĩ chan hòa với cỏ cây, nhân tình thế thái, biến thiên vũ trụ, bằng niềm rộng thinh vô ngã. Cừu thù lắng bặt, dù chưa từng khuất phục, đầu hàng. Thi sĩ là sức vượt mọi lằn ranh, làm ngợp ngát hư không. Thi sĩ gọi tuổi qua màu sương của tóc. Nơi đáy thời gian (vô thường) ấy, cái ta rã tan thành không gian vô ngã. Nhờ thế, và từ đó, duyên sinh mối từ tâm vô cùng tận giữa đất trời. Đơn giản và cũng hệ trọng thay cuộc đại ngộ, mà biết bao người trải nghìn kiếp tu không chứng.
Paris, 4.1.1989
Thi Vũ
(trích «Bốn Mươi Năm Thơ Việt Nam 1945-1985» – Thi Vũ,
NXB Quê Mẹ, Paris 1993)




[1] Nỗi buồn trong thơ hôm nay, Thanh Tâm Tuyền, Giai phẩm Văn Saigon, 9.11.73.









THI CA TÔ THUỲ YÊN - BIỀN BIỆT MIỆT TÂM LINH
G. LÊ HỮU KHOÁ
---
Hãy vào thi ca của Tô Thùy yên với chính thi từ của thi sĩ: “Bỏ đi biền biệt miệt thiên thu”, để tìm đến cõi tâm linh của Tô tiên sinh, đứa con tin yêu của thi ca hiện đại với ngữ vựng rất miền Nam, với ngữ văn thư thái trong cổ ngôn, với ngữ pháp thong dong trong không gian siêu hình học, một trường hợp thật lạ của thi ca Việt Nam.
Nhưng trước hết chúng ta hãy định luận để tìm cách định nghĩa thế nào là tâm linh? Bằng phương pháp nhận diện các giá trị tâm linh qua lý luận. Nếu các giá trị tâm linh sắc về trí tuệ, nhọn về lý trí, thì các giá trị phải là kết quả của một quá trình lập luận cao về tư tưởng, sâu về triết học, tức là rộng về nhân tri, và hề không dính dáng gì tới các chuyện mê tin dị đoan mà học thuật không kiểm chứng được, kinh nghiệm không thí nghiệm trọn vẹn được. Nhưng khi nghiên cứu về các giá trị tâm linh biết củng cố nhân lý, biết phục vụ nhân trí, biết thuyết phục nhân loại tinh anh hơn, giúp nhân sinh tỉnh táo hơn, dìu nhân thế và dắt nhân tình theo các tri thức mà sự sáng suốt của nhân trí giữ vững được các giá trị của nhân đạo, các giá trị tâm linh rất khác các sự thật của khoa học, các chân lý của triết học, các lẽ phải của luân lý tuyệt đối. Các giá trị tâm linh chọn đường đi nẻo về cho riêng nó, tại đây phải hiểu cách định vị (như các chỉ báo) của các giá trị tâm linh, để lần tìm ra cách định nghĩa các các giá trị này:
• Chiều sâu của các giá trị tâm linh là chiều cao của linh hồn, một chiều cao biết nâng nhân tri cụ thể là biết yêu theo chiều cao của hướng thiện những gia trị bị xem là tầm thường trong cuộc sống, tại đây minh triết cùng đạo đức biết nhập nội để chế tác ra các giá trị tâm linh; làm được chuyện mà Platon đặt tên là sự bất tử của linh hồn.
• Chiều sâu của các giá trị tâm linh luôn bắt đầu bằng sự đánh giá tỉnh táo, sự phân tích sáng suốt, luôn bình tĩnh chọn con đường để thực hiện cái tốt, nó mang theo nguyện vọng làm nên ý chí biến cái tốt thành hiện thực. Socrate phân tích chiều cao của các giá trị tâm linh là ý chí muốn làm tốt cái tốt.
• Chiều sâu của các giá trị tâm linh, không phải là chuyện của lý trí tuyệt đối, càng không phải là chuyện lý trí suông, nó chính là sự cẩn trọng không những là khẳng định các lý trí tốt, mà nó phải trở thành các triết lý của cuộc sống được quyền sống còn, nên nó không cực đoan quyết định, và không bao giờ quá khích trong hành động. Các giá trị tâm linh cũng không phải là chuyện khoa học chính xác, mà là chuyện triết đúng lúc, lý đúng cảnh, luận đúng thời, lấy bối cảnh để hiểu nhân sinh, lấy hoàn cảnh để tìm đáp số, lấy tâm cảnh để tư duy, nên nó tìm cách giải quyết ít nạn nhân nhất, cách trả lời ít đổ vỡ nhất, nó tìm cái hợp lý thấu tình để có lối ra, mà không ai phải là nạn nhân cho thời cuộc. Aristote gọi tên nó là thế giới của sự thông minh làm nên sự thông thái, và lắm lúc nó không lệ thuộc vào thế giới thông suốt sự thật của khoa học.
• Chiều sâu của các giá trị tâm linh chỉ thật sự là giá trị khi nó là sự cẩn trọng trong sáng suốt và là khẳng định của sự can đảm, cẩn trọng ngược với liều lĩnh, can đảm trái với hèn nhát. Các giá trị không bao giờ «liều mạng» để «tử vì đạo» mà «xem rẻ mạng người», nó cũng không hề «ba phải» để «lòn lách» mà làm «nhục kiếp người», nó cẩn trọng cho nhân sinh và nó can đảm bằng chính bản thân nó, nên nó ngược lại hoàn toàn với sự «né tránh» để tồn tại, «lẩn trốn» để «thoát thân», vì nó dụng chân lý, biết dùng sự thật để tạo lối thoát cho những ai «lầm đường lạc lối» sa lầy trong «mê lộ» đang đi tới «tử lộ» mà cứ tưởng đang đi trên «sinh lộ». Chiều cao của các giá trị tâm linh mang tính tiên tri mà nhân sinh kiểm chứng được, đó là tầm vóc của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cứu cùng lúc nhà Mạc và nhà Nguyễn ra khỏi vũng lầy của vua Lê, chúa Trịnh. Chiều cao của các giá trị tâm linh khi được chứng thực bởi sự cẩn trọng và sự can đảm, Montaigne đặt tên cho nó là sự thông minh linh động biết thích ứng trong biện chứng vì biết giữ trí và giữ tâm.
• Chiều sâu của các giá trị tâm linh có trong ý nguyện muốn cái tốt có mặt trong cuộc sống để chống lại cái xấu có cha sinh mẹ đẻ là cái ác; nhưng các giá trị tâm linh luôn mang theo sự cẩn trọng không những trong định nghĩa thế nào là tốt mà còn bắt con người phải rõ ràng từ cứu cánh tới phương tiện, luôn phải cẩn trọng hơn nữa khi chọn lựa phương tiện, khi đã có cứu cánh tốt rồi. Plotin tin rằng chiều cao của các giá trị tâm linh làm nên đạo đức của ý nguyện muốn làm tốt cuộc sống từ cứu cánh tới phương tiện, từ thượng nguồn của tư duy tới hạ nguồn của hành động.
• Chiều sâu của các giá trị tâm linh khi lấy sự cẩn trọng làm giá trị cho đạo đức, thì nó trở nên sinh động khi phối hợp sự cẩn trọng luôn song hành trong các giá trị của luân lý về bổn phận và trách nhiệm. Các giá trị tâm linh luôn biết điều phối sự cẩn trọng như sức mạnh của tư duy biết cái nào là cái tốt cho mình và cho người khác, nó mang trọn vẹn một quá trình suy ngẫm, nó mang toàn bộ các kết quả tâm định và trí định để làm nên thiền định trong tỉnh táo và sáng suốt, mà St Thomas đặt tên cho nó vòng tròn khôn ngoan biết chứa cả hai, vừa cẩn trọng, vừa đạo đức.
• Chiều sâu của các giá trị tâm linh biết dựa vào ý muốn đi tìm tri thức để hiểu sự vận hành của nhân tri, nó luôn song hành cùng với ý nguyện của nhân sinh muốn tồn tại bằng nhân phẩm trong nhân thế, mặc dù nhân loại đang đầy giẫy các xáo trộn, các hổn loạn của nhân tình. Weber đề nghị muốn có các giá trị này nhân tri phải thấy sự quan hệ chặt chẽ giữa đạo lý của ý chí và đạo lý của trách nhiệm, khi cả hai có mặt để phối hợp nhuần nhuyễn với nhau, thì chính cái trí của cái tri sẽ giúp cuộc sống thấy ra cái sinh của cái có, cụ thể là quyền năng của nhân trí sản sinh được các giải đáp lối thoát mới cho nhân lý, để nhân tri nhận ra lối thoát mới cho nhân thế.
Sau khi làm được chuyện “rào giậu, tát ao” về phương pháp luận để định vị thế nào là tâm linh, chúng ta hãy vào thẳng cõi tâm linh của Tô Thùy Yên.
***
Nhận phận que diêm tắt… rồi có bình minh lạ
« …Ta bằng lòng phận que diêm tắt…
…Ra đi như một bình minh lạ… »
Cõi tâm linh khi đề nghị các giá trị tâm linh của nó, cõi này thường khởi cùng lúc cái mâu thuẫn giữa cái tắt của hoạn nạn khi cái mất mát đang đe dọa chúng ta, và cái tia hy vọng của một bình minh lạ, của rạng đông mới, để ta cảm nhận sâu xa là ta vẫn đang sống cùng mọi sự sống chung quanh ta. Câu chuyện của Tô Thùy Yên là thân phận ròng rã bao năm trời trong vòng lao lý từ các trại học tập tới các phòng giam biệt lập ngặt nghèo nhất, những năm tháng đó cái chết cứ ngày ngày thủ thỉ với sự sống là bạo quyền độc tài sẽ thắng nhân tính, để diệt nhân phẩm. Cho nên thân phận con người ngày ngày như que diêm luôn bị các cơn gió độc của tà quyền thích thổi cho tắt! Bảo vệ nhân tính vì nhân phẩm là câu chuyện đi tìm một bình minh lạ.
Khi:
Ta bằng lòng phận que diêm tắt.
Chỉ giận sao mồi lửa cháy suông…
là kết quả của tư duy thấy rõ khi bình thường thì mạng sống con người phải được coi là vô giá, nhưng trước bọn bạo quyền bất nhân, tà quyền thất đức: sao giá của nó như diêm. Dù chấp nhận trả cái giá là mất mạng, nhưng tại sao lại phải chịu mất suông? Chuyện mất suông là chuyện có thật khi con người phải sống chung, sống cùng với bọn âm binh của ma quyền. Nhưng bất cứ một sự ra đi nào của nhân tính (vì nhân phẩm) trước cái chết đã cận kề, thì con người nhận ra sự ra đi là để tìm một bình minh lạ, đây không phải là chuyện hoang đường mà là chuyện tìm con đường của ý thức, nó là hiện tượng luận của tri thức, nhận sự thật của cái chết trong liêm sỉ để thấy một loại bình minh lạ sẽ tới, để ra khỏi cái thấp của bạo quyền, cái tục của tà quyền, cái ma của âm binh:
“... Ra đi như một bình minh lạ
Trên kỷ nguyên chưa kịp hiện hình…”.
Giá trị tâm linh trên kỷ nguyên chưa kịp hiện hình đã được Tô Thùy Yên tạo ra theo con đường mà đã có lần Saint John Perse nghe được nó ngay trong tiếng nói vô cùng sống động giữa người và người, đầy nhân tính, dầy nhân cách: «S’en aller! S’en aller! Parole de vivant» (Đi! Cứ đi! Cùng tiếng nói của sự sống). Tiếng nói tạo dựng được sự sống, làm sự sống chuyển động một cách sống động để tự bảo vệ: đây chính là nhiệm vụ của các giá trị tâm linh! Biết tái tạo lại rạng đông, biết chế tác ra các bình minh lạ, đó là tiếng nói của tâm linh không sợ cái chết!
***
Cõi tâm linh trước cõi chết
“…Sẽ lo chẳng những cho người sống,
Lo cả cho người khuất mặt kia.
Quen lạ bạn thù chung giấc ngủ,
Chung lời thương tiếc khóc trên bia…”
Cõi tâm linh thường xuyên bị thử thách trước cõi chết, từ đó và tự nó định nghĩa được nhân phẩm sâu đậm trước các thăng trầm của nhân sinh, nơi mà nhân mạng phải đi qua những lằn ranh sinh tử. Tô Thùy Yên qua các lằn ranh sinh tử nhiều lần trong chiến tranh Bắc Nam huynh đệ tương tàn, trong những năm dài của các trại học tập, trong những ngày tháng ngục tù, nơi mà tử sinh sánh đôi song hành trên tử lộ. Tại đây, ông thấy rõ ràng tất cả các tín hiệu khi cái chết đến cận kề sự sống:
…Côn trùng kiệt sức lìa hang ổ
Lên chết thiêu trên mặt đất hừng.
Ác điểu ngày đêm gào xao xác.
Cơ hồ cả thế giới lâm chung…
Lâm chung là thời khắc mà cái chết đang tới, và sự sống phải lùi ra cho tử thần ngự trị trong ma quyền của nó. Cái chết áp đảo sự sống, như bạo lực đang thắng thế, bạo quyền đang kiêu căng, tà quyền đang ngạo mạn, để mặc cả nhân phẩm bằng nhân mạng. Lúc đó, các giá trị tâm linh sẽ xuất hiện để chỉ cho rõ cái lầm đường của bạo quyền bằng bạo động, phanh ra cái lạc lối của tà quyền đang áp đặt ngày tận thế:
Cái chết tru rân giờ nguyệt tận…
…Lăn địa cầu ra khỏi lối xưa…
…Như tên phù thủy già điên loạn,
Lịch sử lên cơn dữ bất thường…
Nhưng từ đây, các giá trị tâm linh sẽ tìm mọi cái để sống sót, và sống sót để nói lên nỗi lo -lòng thao thức trong dạ đau đáu- của con người trước bạo quyền đang cướp đi sự sống; các giá trị tâm linh sẽ tìm mọi cách để sống còn bằng nhân tâm, lẳng lặng chờ ngày tái tạo lại nhân phẩm. Nhưng cách lo toan (thao thức trong đau đáu) của nhân tâm qua các giá trị tâm linh cụ thể sẽ là gì? Đó là tâm khoan dung làm nên trí khoan hồng, để lòng vị tha chế tác ra tâm tha thứ, từ đó sinh ly phải xuống ngôi để nhường nhân vị cho mọi hòa giải biết hóa giải mọi hận thù, để hòa hợp mà xóa đi mọi thù hằn:
…Sẽ lo chẳng những cho người sống,
Lo cả cho người khuất mặt kia.
Quen lạ bạn thù chung giấc ngủ,
Chung lời thương tiếc khóc trên bia…
Nội công của các giá trị tâm linh chính là nội lực của hòa giải-hóa giải-hòa hợp!
***
Thu hình ẩn náu dưới tâm linh
« …Ta khóc lẻ loi, cười một mình
Thu hình ẩn náu dưới tâm linh,
Mắt chong kinh hãi đêm hư sử,
Thân lõa lồ đau cháy khổ hình… »
Tô Thùy Yên
Các giá trị tâm linh không phải là các lời “nói suông” để nạn nhân trong khốn khó được nghe cho “xuôi tai” mà tự an ủi trong khổ nạn; các giá trị tâm linh là một hệ lý luận như một cầu nối, cho sự thật của dữ kiện tìm tới được chân lý của sự kiện, từ đó con người thấy ra lẽ phải của sự cố. Ngay trong các giá trị tâm linh người ta thấy rõ các sử liệu của tư liệu, sử luận của lập luận để nắm được sử học để biết đối nhân xử thế.
Các giá trị tâm linh có mặt vì cái ác đã có mặt, nó hiện nguyên hình cùng cái độc, cái thâm, cái hiểm tạo ra cái bạo, cái tà mở lối để diệt cái sống, để hủy cái đẹp:
…Ta khóc lẻ loi, cười một mình
Thu hình ẩn náu dưới tâm linh,
Mắt chong kinh hãi đêm hư sử,
Thân lõa lồ đau cháy khổ hình…
Biết thu hình ẩn náu dưới tâm linh để vượt hư sử (chính là ung thư của lịch sử) làm ra từ quái thai của bạo quyền, nơi mà các giá trị tâm linh phải đi trên lưng cái ác, cùng cái độc, cái thâm, cái hiểm; phải đi trên vai cái bạo, phải đi trên đầu cái tà để vượt thắng cái diệt, cái hủy ngày ngày đe dọa sự sống. Kế đến là phải tổ chức lại cõi tâm linh, như cõi thiêng liêng nhất mà những cái xấu, tồi, tục, dở của ác, hiểm, thâm, độc không đột nhập vào được bằng những con đường tà bạo tới từ đứa ngu:
… Ta nhặt từng trang sách rách toang
Đứa ngu đã xé vứt ra đường.
Ta gom từng hạt cây luân lạc,
Mong mỏi gầy lên một địa đàng…
Trong từng trang sách không những có trí tuệ của nhân tính, mà còn chứa tuệ giác của nhân phẩm, mà tại đây hành động tâm linh là gom lại, thu lại, nhận lại để làm nên các giá trị của tâm linh, vì trong đó có giá trị của một địa đàng!
***
Làm người giữa thời thế ngã
“Một thời thế ngã với từng xác thân…
…Làm người đã phải làm sao?”
Các giá trị tâm linh luôn đi sâu vào cõi người đang vấn nạn, để đứng cạnh người gặp nạn và nâng người này dậy trong họa nạn, rồi tìm cách đưa con người này ra khỏi cõi nạn, khi con người đã thoát nạn, thì các giá trị tâm linh đã vỉnh viễn trở thành bạn đồng hành với kẻ đã thắng nạn. Và, cho tới ngày rời cõi đời này, mỗi lần gặp nạn, mỗi lần đứng trước họa nạn, con người này sẽ không còn cô đơn phải chống chỏi một thân một mình với hoạn nạn, mà đã có chiều cao tâm linh kề cận để có sáng suốt trong quyết định và các giá trị tâm linh trong hành động.
Mỗi lần cột xương sống của hình hài bị mềm ra và lệch đi, thì các giá trị tâm linh là những cây chống vô hình giúp hình hài đứng thẳng vì tư duy đã ngẩng đầu trong thử thách, tầm nhìn tâm linh đã vượt thắng các thăng trầm, và kẻ gặp nạn đã thấy lối ra bằng các chân trời của thiện, của mỹ. Tô Thùy Yên đã gặp họa nạn dưới bạo quyền độc tài, đã trải qua hoạn nạn trong tà quyền độc trị đã dựng lên nhà lao để nhốt tù các đứa con tin yêu của Việt tộc; nên trong cõi nạn thi sĩ biết rõ bản lai diện mục của sự bất nhân, nó hoàn toàn ngược hướng trái chiều với các giá trị tâm linh:
…Một lần núi đổ, sông dâng
Vắt cơm, hớp nước, âm phần là đây…
Thịt rơi xương rụng trùng trùng
Một thời thế ngã với từng xác thân…
Khi ta nhớ lại để kể lại những mất mát của nhân tính, những thiệt thòi của nhân phẩm trước bạo lực trong lao lý, thì ta thấy ngày dài bất tận trước khổ hình mà bạo lực tạo ra, thấy thời gian bị lôi dài lê thê trên dốc thời gian để nhân đạo bị xói mòn. Thì đây, cũng chính là lúc khả năng tự tư duy của ta mời các giá trị tâm linh đến để chia sẻ vắt cơm, hớp nước, để nhìn tận mặt âm phần, để hiểu không gian của cõi nạn: thịt rơi xương rụng trùng trùng, để thấu giá trị của sự sống khi cõi sống bị đe dọa: một thời thế ngã với từng xác thân…
Trong cõi lao tù mà tên gọi là trại cải tạo, người tù phải tự sinh tồn bằng cách vào rừng hái rau hoang để nuôi thân, thì đó là lúc tri thức kêu gọi lịch sử trở về để nhận ra các giá trị tâm linh, sẽ an ủi người tù là cõi nạn, một cõi nạn luôn ẩn nấp trong cõi sinh:
Chiều ra đồng hái rau hoang
Nghe sầu trong gió thổi tràn mặt ta
Ơn trời ơn nước bao la
Hái đi này những xót xa kiếp người
Cổ kim chung một mái trời
Kinh thi cũng có kiếp người hái rau.
Câu chuyện tâm linh thường có hai kịch bản, một kịch bản buồn (nghe sầu trong gió thổi tràn mặt ta) và một kịch bản ơn (ơn trời ơn nước bao la) giúp con người có can đảm để gạt ra, nhổ đi, hái đi khổ nạn (hái đi này những xót xa kiếp người), để được thấy trước toàn cảnh của nhân sinh trong cái chung (cổ kim chung một mái trời) để nhận ra nhân kiếp (Kinh thi cũng có kiếp người hái rau).
Cấu kết để luận kết các giá trị tâm linh luôn là câu chuyện làm người (làm người đã phải làm sao?), làm sao để thấy chiều cao của nhân phẩm, chiều sâu của nhân tâm, chiều rộng của nhân từ, và chiều dài của nhân đạo, chỉ một chuyện hái rau để sống còn, nhưng thi sĩ muốn đi xa hơn nữa trong chiều sâu của tâm linh: thấy câu chuyện làm người để nhận ra câu chuyện tội người:
« …Hái nhanh cho kịp trời chiều,
Ấy mê, ấy tỉnh, cỏ nhiều hơn rau.
Làm người đã phải làm sao?
Thêm bề rau thấp, cỏ cao, tội người…»
Câu chuyện tội người đây là tội nghiệp người, tội nghiệp kiếp làm người, càng làm người càng thấy tội người tức là càng làm người càng thấy thương người, cho nên cột xương sống tinh anh của các giá trị tâm linh là câu chuyện thương người, thương đến xót xa, thương đến bầm gan, tím mật.
***
Lịch sử đã ngất lã...Ta đứng lên
“Lịch sử dường như đã ngất lả
Sau những liên hồi vật vã điên cuồng”
Chính khi con người đã rã rời vì khổ nạn trong ngục tù của bạo quyền, ý thức rời trí tuệ, nhận thức mất tuệ giác, đây câu chuyện những ngày trong lao tù của Tô Thùy Yên của thế kỷ XX vừa qua, mà cũng là chuyện hằng ngày hiện nay của hàng trăm tù nhân lương tâm đang trong vòng lao lý bất nhân của bạo quyền độc đảng; khi mà bi quan đã tràn lan, làm não bộ con người tưởng chừng như tất cả đều sụp đổ, xưa nay đều tiêu tán:
… Lịch sử dường như đã ngất lả
Sau những liên hồi vật vã điên cuồng…
Khi con người bị vật vã, khi nhân sinh rơi trong điên cuồng, thì sự xuất hiện của các giá trị của tâm linh đến để vực dậy chiều cao của nhân phẩm, để đánh thức chiều sâu của nhân tâm, để khơi ra chiều rộng của nhân từ, và nối theo chiều dài của nhân đạo. Câu chuyện tâm linh là một chuỗi động lực của hệ dây chuyền: vực dậy-đánh thức-khơi ra-nối theo để tái tạo cõi sống cho nhân thế.
...Ta đứng lên
Đi tới, đi lui trăm lượt nghìn lần
Như một hồn ma cổ đại
Trong hầm mộ muôn đời…
Ta đứng lên! không chỉ vì chuyện sống còn, không chỉ vì muốn sống sót, mà Ta đứng lên! vì nhân phẩm, vì chuyện mất nhân phẩm là chuyện: không chấp nhận được!
***
Khắc khoải để xóa giải
“Khắc khoải chim kêu ngày khổ nạn…
Khắc khoải chim kêu mùa xóa giải…”
Khắc khoải là trạng từ mà cũng là động tự của người đã bị rơi vào cõi nạn, trong đó hoạn nạn mang mặt nạ của họa nạn xuất hiện để đe dọa sự sống, nơi mà hơi thở của kẻ rơi vào bi nạn giống như hơi thở của người lúc lâm chung, sẽ phải rời cuộc đời trước bao chuyện bất nhân thất đức của bạo quyền giờ đã thành tà quyền ngày ngày lòn lách như âm binh đe dọa nhân sinh, nên thi sĩ nghe rõ:
…Khắc khoải chim kêu ngày tận tuyệt…
Ngày tận tuyệt có đầy đủ cảnh trí của đói, khát trong mệt lả, rã rời; có cai tù tra tấn người tù, có bịnh tật đi cùng với các vết thương sau mỗi lần bị tra tấn; có ý định của tự sát như để bảo vệ chính lương tâm của mình trước tên đạo diễn bạo quyền đang diễn tuồng ác nhân.
Khắc khoải là trạng động từ ám ảnh người tù hằng giờ rồi kéo dài đăng đẳng cả kiếp người, khi con người sống mà không có lối ra cho nhân phẩm, mà nguyên nhân cốt lõi là bạo quyền không có nhân tâm để hiểu nhân từ, để thấu nhân đạo. Trong không gian và thời gian của khắc khoải, thi sĩ thấy chuyện bi thương của kiếp người qua một động tự thật mới: khuất giạt, môt động tự mới trong tuyệt vọng:
«…Khắc khoải chim kêu ngày khuất giạt…»
Khắc khoải dần dà trở thành bi trạng của một không gian có tiếng chim của miền thất vọng, tên nó là khổ nạn:
«…Khắc khoải chim kêu ngày khổ nạn…»
Đó cũng là lúc mà sức mạnh tâm linh đã tới để cứu kẻ trong khổ nạn, bằng một hành động qua một động từ vô cùng mới, rất mới trong hay, đẹp, tốt, lành, của nhân tri, đó là động từ xóa giải:
«…Khắc khoải chim kêu mùa xóa giải…»
Xóa đi hận thù có trong tâm địa của bạo quyền, xóa đi lòng tham có trong nội địa của tà quyền, xóa đi cõi hận có trong cõi não của ma quyền đang lũng đoạn lương tri của cả một dân tộc. Nhưng sức mạnh tâm linh phải tiếp tục đi xa hơn, sâu hơn, dài hơn, cao hơn nữa để giải: để giải trừ mọi tham, sân, si; để giải tán mọi bạo quyền, tà quyền, ma quyền mà cứu nguy cho nhân tâm; để giải oan cho bao oan khiên mà dân tộc phải hứng chịu từ bao lâu nay. Từ đó, lấy nhân từ cùng nhân đạo làm nên nhân nghĩa để giải hòa mọi xung đột trong nhân thế, mọi hiềm khích trong nhân tình, mọi họa nạn trong nhân loại, và không quên cứu rỗi luôn cả linh hồn của những tội phạm đã dùng bạo quyền, tà quyền, ma quyền để gây bao tội ác.
***
Sinh, dị, diệt
“Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời”
Xin đừng quên sức mạnh của tâm linh là thực hiện được chuyện giải oan, giúp cái oan vượt lên cái oán, để đi về hướng của nhân tâm mà làm giàu cho nhân tri, làm cao thêm nhân lý; vì cái oan chỉ là chuyện bể dâu của nhân thế, nó không phải là dấu chàm vĩnh viễn của nhân phẩm. Câu chuyện giải oan qua sức mạnh của tâm linh đi trên lưng, trên vai, trên đầu cái oán:
Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời,
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt
Tội tình chi lắm nữa, người ơi.
Kiếp nhân sinh như như hạt sương trên cỏ, nhưng có tầm vóc của một chiều cao tâm linh biết: kết tụ sầu nhân thế chuyển dời, để hiểu ra chuyện sinh, dị, diệt mà thấu được sinh trong nhân thế, nhưng dị như hoạn nạn, như bất công, như tội ác ngày ngày đe dọa nhân tính, thời cơ hội là diệt nhân phẩm để vùi nhân vị.
Kiếp người thật bé bỏng trong hoạn cảnh sinh, dị, diệt, với sự cảm nhận của tâm linh giúp nhân tâm làm được chuyện cân, đo, đong, đếm được tất cả các đọa đày mà nhân loại phải gánh chịu trên nhân lộ: tội tình chi lắm nữa, người ơi.
Khi biết kêu lên, khi biết than ra, khi biết bộc lộ được câu: tội tình chi lắm nữa, người ơi, thì nhân tri đã mở cửa đón mời các giá trị tâm linh tới để xóa đi các tội tình trong kiếp người này.
***
Tỉnh lại với đời
«…Đây là đâu?…
Tỉnh, tỉnh lại với đời»
Câu chuyện tâm linh là sự khởi hành đi tìm câu trả lời khi con người tự hỏi: ta là ai? Mà sao ra nông nỗi này trong hoàn cảnh của kẻ bị lâm nạn, với câu hỏi thứ hai: đây là đâu? và mỗi lần sức mạnh tâm linh xuất hiện, nó giúp con người có được câu cả hai câu trả lời (là ai? là đâu?), để có đáp số trước các ẩn số của nhân thế, để thức tỉnh ngay trước mê lộ:
…Đây là đâu?
Tỉnh, tỉnh lại với đời!
Và khi con người đã mất các định hướng, trong hành trình vô định với bước vô minh:
«…Gối đầu lên một chỗ không lý
Ráp lại xương từng thỏi rã rời.
Giờ này đã khuya khoắc thiên cổ
Chớp hiện mình soi dội lẻ loi…”
Sức mạnh tâm linh xuất hiện mang lại nhân tâm cho chỗ không lý; mang lại nhân tính để giúp nhân dạng làm được chuyện ráp lại xương từng thỏi rã rời; ngay trong thời gian của giờ này đã khuya khoắc thiên cổ; ngay trong không gian nhỏ hẹp của chớp hiện mình soi dội lẻ loi, để tại đây nhân phẩm có đủ sức mạnh tâm linh mà soi sâu mọi chiều sâu của kiếp người:
Con chim bói cá trong tàn tối
Soi vĩnh hằng xanh rợn mặt hồ.
***
Cời
« Trở trời ngồi lại cời than
Nhen bùng ngọn lửa chưa tàn ba sinh »*
Cời là một động từ lạ trong Việt ngữ, cời là khơi lên, nhưng không phải là khuấy lên, nhẹ nhàng khơi dậy, chớ không phải hấp tấp quậy lên; phải thư thái trong trầm lặng để cời, phải tỉnh tâm trong trầm tư để cời, một động tác của người thanh biết tư duy sâu đậm, chớ không phải của kẻ tục chỉ muốn tò mò để tọc mạch.
Cời lên cái còn đang nhen nhúm, cời lại cái chất lửa đang bị đe dọa vùi lấp bởi cái tà; cời để giữ lửa, giữ nhiệt, giữ chất sống, dù cuộc sống đang tàn tạ, nhưng nhất quyết không để chất sống có trong chất lửa của mỗi chúng ta bị vùi chôn bởi cái bạo trên trần thế này.
Cời than khéo léo sẽ gặp lại lửa hồng, nếu lửa hồng trở lại thì cuộc sống còn đây, và chất sống chính là lửa đã trở về làm ấm thân, ấm đời, ấm luôn cả ba sinh (quá khứ, hiện tại, vi lai), ấm cho bây giờ và ấm cho mai sau; cời để tự sưởi thân, cời để hơ nóng không gian mà mình đang có mặt, cõi sinh mà mình đang trú, chốn đời mà mình đang sống.
Các giá trị tâm linh nằm ngay trong quyền năng của nhân tính biết cời than, cời lửa trước nhân thế đang bị đe dọa bởi cái giá lạnh của vô cảm; hãy tin là các giá trị tâm linh này có mặt ngay trong động thái qua đồng từ cời. Như năng lực của nhân bản biết giữ lửa, cời lên và cời mãi như biết ôm ấp chất sống trước các cái bạo, cái tà làm nên cái tàn, cái tắt, đang rình rập để thổi tắt luôn một chút lửa còn trong thể lực ta, một thể lực được làm nên bởi trí lực cộng sức cùng tâm lực và khi cả ba lực này nhập một, ta tự cho phép ta gọi tên nó là: linh lực (sức mạnh của tâm linh), luôn muốn bảo vệ cái lửa như chất sống để đẩy xa cái lạnh, cái tàn của cái chết.
Hãy giữ lửa, hãy cời than như cời thân, hãy cời lên bằng thể lực, trí lực và tâm lực, để có tổng lực của linh lực, để vượt thoát mọi thăng trầm nhân thế, để vượt thắng của mọi mọi ám lộ của ba sinh.
Câu cuối của bài Suốt bãi sông Hằng, Tô Thùy Yên tặng Lê Hữu Khóa.
Hãy trở lại với định luận để định nghĩa thế nào là tâm linh trong thi ca của Tô Thùy yên, để nhận ra tính đặc thù của văn hóa Việt, tính đặc trưng của văn minhViệt:
Chiều sâu tâm linh Việt
Chiều sâu tâm linh Việt không những là chiều cao của nội dung lý trí, mà còn là chiều sâu của tư tưởng Việt mang văn hiến riêng của Việt tộc. Chiều sâu tâm linh Việt không những là chiều cao của trí tuệ, mà còn là chiều rộng của lịch sử Việt mang văn minh riêng của Việt tộc. Chiều sâu tâm linh Việt không những là chiều cao của nhân phẩm Việt, mà còn là chiều dài của bản sắc Việt luôn biết mở cửa để song hành cùng văn hóa Việt. Cao, sâu, rộng, dài có độ bền của đạo lý đã được thử thách, có độ vững của đạo đức đã biết vượt qua thăng trầm; đạo lý bền biết đi trên lưng cái cực đoan để vượt thoát cái vô minh, đạo đức vững biết đi trên vai cái quá khích để vượt thắng cái vô tri.
Hiện thực tâm linh Việt
Câu chuyện tâm linh không hề là câu chuyện lý thuyết, vì trong đời sống hằng ngày, mọi người có thể nghe được câu «thấy thương quá» tới tự lời nói thật bình thường của những người có lòng vị tha, muốn chia sẻ tức khắc nỗi khổ niềm đau với tha nhân. Câu chuyện tâm linh không hề là câu chuyện trừu tượng, vì trong sinh hoạt hằng ngày, mọi người có thể nghe được câu «nghe mà thương» tới từ một câu nói ngắn gọn của những người có lòng bao dung, muốn chia sẻ tức thì sự đồng cam cộng khổ với đồng loại. Câu chuyện tâm linh không hề là câu chuyện viển vông, vì trong quan hệ hằng ngày, mọi người có thể thấu được câu «càng nhìn càng thương» tới từ một phản xạ nhanh nhẹn trong sáng suốt của những người có lòng rộng lượng, muốn chia sẻ tức thời chuyện đồng hội đồng thuyền với đồng bào mình. Đạo Phật biết mang hiện thực này đến để chia sẻ với Việt tôc về vô lượng tâm qua các Tâm kinh: «nhìn đời bằng mắt thương» để làm sáng lên lòng vị tha, lòng bao dung, lòng rộng lượng của Việt tộc.
Tuệ giác tâm linh Việt
Câu chuyện tâm linh không quan hệ gì tới câu từ tâm linh bị lạm dụng trong ngôn ngữ hiện nay bị mê hoặc bởi mê tín về cõi âm nào đó mà nhiều thành phần xã hội hiện nay đang bị lôi kéo, để bọn đầu cơ mê tín trục lợi ngay trên mê lộ của họ. Tuệ giác của tâm linh kết hợp thuần thạo sự thật, chân lý, lẽ phải để tạo ra cái đẹp của đạo đức, cái hay của đạo lý, cái tốt của luân lý, từ đó tuệ giác tâm linh luôn ngược hướng, trái chiều với mê tín, vì nó mang sự tỉnh táo của lý trí, sự sáng suốt của trí tuệ, có liên minh cứng cáp là minh triết trong lý luận, có minh luận trong hành động. Tuệ giác của tâm linh thấy đường đi nẻo về của nhân tính, nhận ra nhân vị nhờ nhân bản, hiểu rõ nhân tri nhờ nhân từ, thấu sâu nhân đạo nhờ nhân nghĩa. Mê tín bị mê hoặc trong mê lộ còn đang mò mẫm dưới chân đồi, thì tuệ giác của tâm linh đã tới đỉnh núi với nhân cách thư thả của nhân tri thư thái để nhận diện mọi chân trời mà không bị một trở lực nào vùi, lấp, che, choáng được.
Nội công tâm linh Việt
Nơi đây, nội công tâm linh mang tính thiêng liêng với các giá trị đạo đức tối cao bắt con người lầm đường lạc lối phải suy nghĩ lại, phải cân, đo, đong, đếm lại từ hành vi tới hành động của mình để tìm lại con đường hay, đẹp, tốt, lành của đạo lý. Nội công tâm linh không phải là chuyện thể lực thuần túy, mà là chuyện của trí lực biết bao dung, là chuyện của tâm lực biết dung thứ: phải dung kẻ dưới mới là lượng trên (Nguyễn Du).
Bản lĩnh tâm linh Việt
Có tầm vóc, có nội công sẽ có bản lĩnh, nhưng các giá trị tâm linh không cần bản lĩnh của xảo thuật để thành công, cũng không cần bản lĩnh của mưu lược để thoát hiểm, nên không cần luôn bản lĩnh của mưu trí để tồn tại trong tính toán. Các giá trị tâm linh được sống ngay trong ánh sáng của chuyện con người yêu cái đẹp, thích cái hay, quý cái tốt, trọng cái lành, nó vượt lên nên vượt xa chuyện tính toán để lời lỗ, để hơn thua, để đọ tài, để thi sức. Bản lĩnh của các giá trị tâm linh tự tin nên tự tại, tự trọng nên tự do trước mọi mưu kế, mưu đồ, nó đi trên mọi cái đầu của vị kỷ, nó đi xa hơn mọi con tính ích kỷ, vì nó đại trí nên nó thoải mái trên đại lộ của mọi nhân lộ.
Tầm vóc tâm linh Việt
Trong khu vực của tam giáo đồng nguyên, khi đánh giá về các loại chiến thắng trên mọi mặt trận từ chính trị tới quân sự, từ văn hóa tới giáo dục, từ luân lý tới đạo đức… người xưa xếp loại từ thấp lên cao: thắng nhỏ là thắng mà phải dùng: lực; cao hơn là chiến thắng khi biết dụng: trí, cao hơn nữa là dùng: đức, và cao hơn cả là thắng là nhờ: đạo! Đây là toàn thắng. Đạo của nhân đạo tới từ chính nghĩa có lý luận làm nên chính đạo, mang giá trị của nhân đức, có nhân trí của nhân tính, có nhân lý của nhân vị, có nhân văn của nhân bản, tầm vóc của tâm linh chắc chắn là ở đỉnh cao giữa đức và đạo. Thắng được đối phương với sự khâm phục của đối phương, với tầm vóc giúp đối phương cùng thắng với ta, từ đó đối phương không còn là đối thủ, nên không bao giờ trở thành tử thù với ta. Mà ngược lại, chính đối phương tìm tới ta, tiếp nhân sinh quan vị tha của ta, nhận thế giới quan rộng lượng, đón vũ trụ quan khoan dung của ta; đây mới là toàn thắng qua đạo! Thắng vinh quang, thắng bền vững vì biết «cải tử hoàn đồng» cái xấu, tồi, tục, dở giúp nó hóa thân vào cái hay, đẹp, tốt, lành. Hãy nhận ra tầm vóc của Nguyễn Trãi: lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy trí nhân thay cường bạo, để thấy tầm vóc tâm linh Việt tộc.
Cấu trúc tâm linh Việt theo chiều sâu
Xin được đi từ trên xuống dưới, bắt đầu bằng đạo, đi tiếp tới đức, qua nẻo của trí, cùng lúc tránh xa lực (bạo lực), mẹo (mưu kế) vì chúng quá thấp so với các yêu cầu của các giá trị tâm linh, nhưng tác giả sẽ đi trên hai con đường luôn cần sự có mặt của tâm linh để vấn nạn các khổ đau mà Việt tộc đã cam nhận trong lịch sử cận và hiện đại của mình. Cấu trúc lý luận của tiểu luận sẽ bắt đầu bằng tâm đạo để đi tìm chiều cao các giá trị tâm linh thừa kế của tổ tiên, nhận diện được sự đặc sắc của các kinh nghiệm tâm linh của Việt tộc, nhất là qua các kinh nghiệm của Thiền tông, từ đời Trần tới cõi tâm linh mà thiền sự Thích Nhất Hạnh đã trao truyền cho thế giới. Rồi đi tới tâm đức đã có từ lâu trong sáng tác thi ca của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… và tiếp tục trên con đường tâm trí qua nhiều tác giả, nơi mà tâm linh chính là trí lực của nhân lý. Theo chiều sâu lịch sử của Việt tộc, tiểu luận dừng lại trước các oan khiên của đất nước, để hiểu tâm cảnh qua hoàn cảnh của chiến tranh, tâm phận qua hậu quả của nội chiến huynh đệ tương tàn thế kỷ XX vừa qua, cuối cùng là đi sâu vào tâm nạn tới từ bạo quyền độc tài lập nên nhà tù cải tạo sau 1975, giờ đã tới tà quyền là “hèn với giặc, ác với dân” để cảm nhận bi nạn của Việt tộc.
***
Tâm đạo, tâm đức, tâm trí trong các giá trị tâm linh là để giúp người vì quý người.
Tâm cảnh, tâm phận, tâm nạn trong trong thi ca tô Thùy Yên đưa các giá trị tâm linh để cứu người vì thương người.
Nice, tháng 4.2019






blog counter




java hostingvpn norway

Tô Thuỳ Yên & bài thơ/ca khúc: Chiều trên phá Tam Giang

$
0
0


“Biểu dương, hãy biểu dương cùng tận”… những tác giả đã đưa những địa danh của đất Mẹ Việt Nam vào thơ văn nhạc hoạ và biến những nơi ấy thành bất tử.
“Phá Tam Giang” trong “Chiều trên phá Tam Giang” của Tô Thuỳ Yên (& nhạc sĩ Trần Thiện Thanh đã cảm tác phổ 1 đoạn thành bài nhạc cùng tên) đã trở thành bất tử như thế.
Cuộc hôn phối thơ & nhạc đẹp đẽ của dòng nhạc trước 1975 đã mang bài thơ đến gần hơn với rất nhiều người, và vì thế, trong một ngữ nghĩa nào đó, thơ Tô Thuỳ Yên đã nằm trong lòng rất nhiều người Việt Nam.
Nhưng phải công tâm mà nói, Chiều trên phá Tam Giang không phải là một bài hay nhất và tiêu biểu nhất của ông, nhưng nó là bài thơ “huy hoàng” nhất vì là bài thơ được biết nhiều nhất. (Những bài thơ theo hình thức thơ tự do rất “tân tiến” thời “Sáng Tạo” trước đó & những bài sau 1975 ông làm trong/ sau thời kỳ tù cải tạo theo dòng tâm tưởng của một người-viết-sử-bằng-thơ/ người kinh qua kinh-nghiệm-Việt-Nam thảm khốc, có phần xuất sắc và xúc động…”hơn”).
Trong Chiều Trên Phá Tam Giang, nguyên vẹn bài thơ cũng mang đến một cảm xúc khác, bi tráng & mãnh liệt hơn khi chỉ “nghe” 1 đoạn trong bài hát
(vd bài thơ gốc mang nhiều “suy tưởng” hơn qua những truy vấn :
”...Ngươi cùng ta ai thật sự hy sinh
Cho tổ quốc Việt Nam - một tổ quốc...?
Các việc ngươi làm
Ngươi tưởng chừng ghê gớm lắm
Các việc ta làm
Ta xét thấy chẳng ra chi
…Ta thương ta yếu hèn
Ta thương ngươi khờ khạo
Nên cả hai cùng cam phận quay cuồng
Nên cả hai cùng mắc đường Lịch Sử
Cùng mê sa một con đĩ thập thành…”)
(cái hay của Trần Thiện Thanh là ông đã chọn đúng điểm rơi với công chúng khi “trích” một đoạn đắt giá, “melo” nhất trong bài: trong đoạn này, có gương mặt của chiến tranh - có cái phi lí của nó - nhưng cũng có những khung cảnh lãng mạn đô thành lồng trong nỗi niềm ưu tư của một cuộc tình thời chiến - có Sài Gòn & có cả địa danh “tên vẫn chưa quen người dân thị thành”; bài hát/ đoạn thơ còn thú vị vì xoay chụp vào nhau là những ảnh hình hiện thực >< vô danh tính ... làm không khí chông chênh “quyến rũ” :
- Thương xá , thư viện >< cao ốc vô danh
- Chiều >< có thể trời nắng, mưa
- Quán nước quen >< hàng hiên sướt mướt
- Anh nhớ em >< (em nghĩ đến) một điều em không rõ
- Bong bóng nước chạy trên hè >< tâm trí bập bềnh trên những đợt lao xao (rồi bập bềnh buông tâm trí trên từng đợt tiếng lao xao)
- Giờ giới nghiêm >< chiến tranh)
Bài hát này mới được “cấp phép” lại để được hát trong nước mới ngay giữa tháng này (05/2019).
Ngoài lề một chút về bài hát này: version đầu tiên tôi nghe (xem) được là Nhật Trường song ca Thanh Lan trong băng Hollywood Night 9 và sau đó ra trong CD của Mây Production ,1995) https://www.nhaccuatui.com/…/chieu-tren-pha-tam-giang-nhat-… ; sau đó mới nghe lại 1 lần nữa qua giọng ca Lê Uyên trong CD Hãy Yêu Nhau Đi (CD của trung tâm Giáng Ngọc phát hành năm 1991) http://mp3.chiasenhac.vn/…/chieu-tren-pha-tam-giang~le-uyen…, tiếp theo mới nghe đến version trong CD 50 Năm Đời Vẫn Hát của Khánh Ly song ca cùng tác giả (1998) https://www.nhaccuatui.com/…/chieu-tren-pha-tam-giang-khanh… & ngoài ra còn có 1 version tác giả hát lại trong CD của ông (15 Tình khúc Trần Thiện Thanh – Nhật Trường hát một mình; Nhật Trường production, 1999) https://chiasenhac.vn/…/chieu-tren-pha-tam-giang~nhat-truon… , mới đây nhất version gây ấn tượng mạnh là phần featuring của Lê Uyên & Thiên Kim trong chương trình thu hình DVD Asia 50 Nhật Trường – Trần Thiện Thanh – Tình Yêu Cuộc Đời & Sự Nghiệp (2006)… https://www.youtube.com/watch…
Trong tất cả các version trên, ”ép-phê” nhất vẫn là qua cách thể hiện của Lê Uyên – một sự tổng hoà vừa đủ của : mãnh liệt, hoang mang, sầu muộn, lãng đãng, bi tráng, hoài vọng & vô vọng …; tiếng hát có "bùng lên" và rồi cũng tan ra trong "bập bềnh buông tâm trí..."
Có một vài điểm nhỏ về lyric của bài hát mang đến những trải nghiệm thú vị khác nhau cho người nghe, chỉ khi Nhật Trường hát (đơn ca hay khi hát chung với Khánh Ly/ Thanh Lan) thì mới hát đúng lời ngay từ đầu: “Anh SỰC nhớ em” (như nguyên bản bài thơ & bài nhạc)./. version Thanh Lan hát chung Nhật Trường thì có hát “Ôi Sài Gòn 11 giờ vắng im” (Khánh Ly hát “11 giờ giới nghiêm”) (lời gốc bài thơ là “Sài Gòn nới rộng giờ giới nghiêm/ Sài Gòn không còn buổi tối nữa”) (những version khác thì hát “Sài Gòn giờ giới nghiêm, Sài Gòn rộng giới nghiêm) ./. Lê Uyên thì ngay từ đầu đã hát “hàng cây sướt mướt” (mình thì thấy điểm này, Lê Uyên “đổi lời” có vẻ hay hơn là lời ở bản nhạc/ thơ gốc: “hàng hiên sướt mướt”)

huyvespa@gmail.com
[​IMG]
[​IMG]
Image may contain: 1 person, child and text

NHỮNG GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ SAU TẬP THƠ MỚI NHẤT 2018



TÂM THỨC KHUẤT DẠNG CỦA THƠ
TÔ THÙY YÊN
I.
Năm đó, giặc Trung Quốc bất thần mở mặt trận ồ ạt tấn công vào 8 tỉnh miền Bắc nước ta. Nửa khuya, Công an Cộng sản Việt Nam lùa tất cả những người tù đày của chế độ miền Nam từ những vùng thượng du và trung du lên những chiếc xe đò khẩn cấp trưng dụng, chạy bán mạng về vùng Thanh Nghệ Tỉnh, tức Liên Khu Tư cũ, đất ẩn trú một thời của những Nguyễn Đức Quỳnh, Đào Duy Anh, Hữu Loan, Phạm Duy và ban hợp ca Thăng Long, của những ngày toàn dân kháng chiến chống Pháp cũ. Tại một trại giam ở Nghệ Tĩnh, ẩn khuất trong Trường Sơn, tôi gặp lại người bạn vong niên là nhà thơ lão thành Hà Thượng Nhân, giữa đông đảo những bằng hữu thất tán khác. Trong một lần trò chuyện, nhà thơ Hà Thượng Nhân ngỏ ý khát khao được đọc thơ. Tôi hoàn toàn thông hiểu nỗi khát khao đó của Hà tiền bối.
Bởi tôi cũng hằng khát khao ngày đêm như vậy. Nên một hôm, tôi nỗ lực vận dụng trí nhớ đã nhiều hao kiệt của mình ghi lại toàn bộ một kiệt tác khá dài của thi hào Đỗ Phủ. Đó là bài Đồng Cốc Huyện Chung Cư Thất Ca, gồm bảy khúc ca viết theo lối cổ phong, trong đó thi hào mô tả thời thế loạn ly, người phải rời bỏ quê nhà, thất lạc vô âm tín đám em trai, em gái, nay lê tấm thân tàn bệnh tật, đói kém nơi chướng khí sơn lam, chỉ còn trò chuyện cùng con rắn lớn nơi đầm hoang. Bài thơ đó, tôi ghi lại hoàn toàn bằng Hán tự. Cụ Hà đọc lại bài thơ đó, xúc động, cố gắng chuyển dịch thành thơ Việt Nam để cho nhiều bạn khác không am tường chữ Hán cùng được thưởng thức. Rủi ro cho cụ là có một tên chỉ điểm nào đó đi thóc mách, đồ đạc của cụ bị lục soát, bài thơ tang chứng bị tịch thu nên cụ bị Ban An Ninh trại liên tiếp mấy ngày gọi lên làm việc.
Theo quan điểm của trại, rõ ràng là tên Đỗ Phủ này hoàn toàn không chịu an tâm phấn khởi cải tạo, oán thán chính sách, bôi bác chế độ, tên Đỗ Phủ này quả là một tên phản động bẩm sinh, cho đến thời điểm ồ ạt của ba dòng thác cách mạng thế giới toàn thắng mà vẫn còn ngoan cố chưa chịu giác ngộ, hối cải. Cán bộ lãnh đạo yêu cầu cụ Hà phải thành khẩn khai báo tên Đổ Phủ là bí danh của ai, thuộc đội nào, lán nào, liên hệ như thế nào với cụ. Mãi sau này nhớ lại câu chuyện đó, tôi vẫn còn thử nghĩ nếu ở vào trường hợp của cụ Hà, tôi sẽ phải trả lời như thế nào để hương hồn của thi hào Đỗ Phủ khỏi tủi hổ. Có thể tôi sẽ trả lời: Đổ Phủ là danh hiệu của một con người xứng đáng, ông hiện diện ở mọi đội, mọi lán, một nơi chốn của nhân loại lầm than, ông là người rất đỗi thân thiết của một số khá đông chúng tôi.
II.
Đối với đa số người đời, thông thường, thơ nói riêng, văn học nghệ thuật nói chung là một thứ gì đó rất ư phù phiếm, chẳng hề mang lại ích lợi cụ thể thực tiễn nào cho cuộc sống hằng ngày đầy dẫy những vật vã, tất bật. Chắc chắn Platon không phải là người đầu tiên cũng không phải là người cuối cùng trong lịch sử muốn tống xuất nhà thơ ra khỏi cộng đồng loài người dù cho rằng Plato cũng còn một chút ưu ái là choàng cho lấy có lên đầu nhà thơ một vòng hoa tưởng thưởng. Do đó, dường như chẳng có mấy người làm văn học nghệ thuật nào, nhất là nhà thơ lại chẳng mang sẵn không nhiều thì ít cái mặc cảm mình là kẻ thừa thãi, là kẻ ăn bám trong xã hội loài người quần quật đầu tắt mặt tối. Rõ ràng lao động nghệ thuật, nhất là lao động thi ca, gần như chẳng được xã hội lưu tâm bao nhiêu và đánh giá đúng mức. Và cũng vì cái mặc cảm về sự vô bổ đó của thơ nên đã có một số không ít những người làm thơ đã muốn dĩ thi tải đạo, làm những bài thơ giáo huấn tuyên truyền luận giải thuyết phục, để thấy mình cũng như thơ có được một mục đích lợi ích xã hội thiết thực.
Tất nhiên cũng không hiếm những chế độ chính trị đã tận lực góp thêm phần tạo thành dầy đặc cái mặc cảm vô dụng đó nơi người làm thơ để dễ dàng sử dụng hắn như một công cụ khá cần thiết cho chúng, và khi đã ưng chịu như vậy thì người làm thơ một cách mặc nhiên đã làm một công việc hoàn toàn khác biệt với công việc làm thơ, đã tự mình chối bỏ danh xưng thi sĩ.
Một chế độ chính trị bao giờ cũng bắt buộc phải chứng minh bằng cách này hoặc cách khác. Còn thơ tự bản thân nó chẳng cần chứng minh nó là thơ, một thế giới cảm xúc thế thôi. Sự thiết thân gắn bó của thơ đối với con người, cái lý do tồn tại chính đáng cao cả đó của thơ sẽ phải chỉ tìm thấy được ở một nơi chốn nào khác, và nơi chốn đó là hồn thơ của chính người đọc. Do đó, đã xảy ra điều nghịch lý là khi nhà thơ tự đặt trước cho mình một mục đích lợi ích thực tiễn xã hội nào đó, thì đó cũng là lúc nhà thơ chẳng còn lấy chút lợi ích nào nữa cho đời sống. Tuy rằng, trên thực tế, một thực tế mà người đời ít có dịp nhận ra một cách phân minh, chính xác là thơ, cho dù có bị khước bỏ, hắt hủi, lãng qưên đến đâu đi nữa, vẫn luôn luôn hiện hữu, kết liền một cách thiết thân hình bóng với con người, với cuộc đời như một người tình cực kỳ bất hạnh của định mệnh ràng buộc, chẳng thể để dễ dàng xa lìa, để bỏ.
Bởi lẽ con người nào cũng đều tàng chứa trong tâm thức sâu thẳm của mình cái hồn thơ bàng bạc, chung đồng và vĩnh viễn. Cái hồn thơ đó trường kỳ nghi phục, bất động đâu đó, khó thể nhận biệt trong những lúc bình thường của cuộc sống, để rồi trong những thoáng cơ duyên nào bất chợt nhất, nó lại xuất đầu lộ diện ngự trị, điều động con người theo những luật tắc riêng biệt vừa rộng rãi mà cũng vừa nghiêm nhặt của nó. Và kinh qua những lần chứng nghiệm thơ như vậy, con người bỗng nhận thức được như một đốn ngộ về một nghịch lý: thơ, với tất cả những gì mà người đời cho là những khuyết phế vốn dĩ của thơ, lại cũng là một phương thức nhận thức đặc biệt cùng với những phương thức nhận thức khác của con người triền miên theo đuổi công cuộc tìm kiếm những sự thật lẩn khuất chung quanh mình, ở trong mình.
Và thơ, tội nghiệp thay, cũng là đứa con nhờ vả được đã dẫn dắt người cha mù lòa đi sâu vào những cõi u uẩn huyền nhiệm tuyệt vời và chính những đứa con sáng sủa hằng được trọng vọng khác của trí tuệ con người chẳng tài nào tiếp cận.
III.
Phải, ở những lằn ranh cuối cùng mà tôn giáo, triết học, khoa học đã phải đứng lại, thơ, vâng, chỉ có thơ, vẫn nhẹ nhàng tiến bước, xông pha, bay lượn, vùng vẫy. Lúc đó, những lúc đó, con người chợt cảm nhận rằng mình phơi phới nhẹ nhàng như đã được giải phóng khỏi những nặng nề đè ép thường nhật, rằng mình đã thật sự hòa nhập vào một đời sống có khi còn chính đáng hơn cả cái đời sống mà mình vẫn thường lầm tưởng là duy nhất chính đáng, một đời sống khác nữa không hẳn là không xác thực, một đời sống khác nữa ở ngay trong cõi sâu cùng thăm thẳm nhất của chính đời sống. Những lúc đó, con người nương thả theo thơ, sống trọn vẹn là con người với đầy đủ các tính cách kỳ diệu lạ lùng mà bình thường chưa từng nghe thấy có, tưởng chừng chẳng thể có. Bởi lẽ hồn thơ chính là cái phần u ẩn lẩn khuất mênh mông tuyệt đối của hồn người, nó chính thị là hồn người trong ý thức sau cùng hết của con người.
Có thể nói mà không sợ quá lời rằng khó lòng tưởng tượng một con người còn có thể là con người nếu như con người đó, một cách giả tưởng, tự mình hoàn toàn tước bỏ cái hồn thơ của mình, tự mình hoàn toàn tước bỏ khả năng, tư duy xúc cảm nhân loại của chính mình. Bởi lẽ, thơ, những lúc đó, mặc nhiên trở thành thi sĩ theo định nghĩa cao cấp nhất của danh xưng: Kẻ tạo dựng một thi cảm, một cách thức nhìn thấy độc đáo về cái thế giới vừa ngoại quan và cũng vừa nội quan mà chính mình đang sống.
Thơ chính là một thị cảm dù được thể hiện theo kỷ luật riêng biệt của bất kỳ trường phái hay khuynh hướng thi ca nào, và nếu như bài thơ nào không truyền đạt được những khêu gợi phải có nhằm đánh thức thôi thúc được một cách mãnh liệt cái hồn thơ ẩn náu bất động nơi người đọc để hình thành một thi cảm nào đó, chắc chắn bài thơ đó đương nhiên không phải là thơ.
Tất nhiên, khi làm bài thơ, phần người làm thơ tận lực cố gắng phần mình nữa trong việc thể hiện được trọn vẹn cái hồn thơ chung đồng của cả đôi bên. Đó chính là chỗ lớn lao đích thực của thơ. Đó chính là lẽ tồn tại xứng đánh của thơ. Hiểu được như vậy, làm được như vậy, người làm thơ mới có thể ngẩng mặt với đời, nhận lấy danh xưng thi sĩ, không hổ thẹn về những đóng góp độc đáo của mình đối với xã hội, đối với lịch sử.
Đặc biệt, trong những tình huống cực kỳ chông chênh, nghiệt ngã, sinh tử mà chính con người đã bị đày đọa dìm đắm vào đó, bị đặt để trước nguy cơ thường trực của sự trấn lột chính cái nhân phẩm còn sót lại của mình, thơ, hơn bao giờ hết, đã chứng tỏ một cách mãnh liệt cái khả năng siêu tuyệt gần như là tôn giáo của thơ. Trong những tình huống đó, rất nhiều người đã nương tựa vào thơ, để mà gìn giữ lấy mình, để mà sống sót với tư cách là con người, gầy dựng cho chính mình và cho cả bằng hữu cùng cảnh ngộ một thế giới ánh sáng, một thế giới niềm tin giữa một thế giới tối tăm, cùng mạt và hủy diệt.
Ở đây, tôi không hề muốn nói thêm qua về cái bản chất của thế giới tù đầy đó. Trong thế giới đó, nhiều con người thất trận của một cuộc chiến đã tạm thời phải ngã ngũ như vậy từ đất đứng, danh vị, thậm chí đến cả sinh mạng của mình, chỉ còn lại mỗi một phần duy nhất tạm thời chưa thể bị tước đoạt hoàn toàn, đó là nhân phẩm, và niềm tin của chính mình.
Chúng tôi, mỗi người một cách, đều phải ý thức một cách rõ ràng rằng đó mới chính là nỗi sinh tử cốt tủy, đích thực của chính mình, rằng không thể để cho con người trong chúng tôi bị bức tử, ô nhục, rằng đó chính là cái phần mà chúng tôi bắt buộc phải gìn giữ bảo vệ bằng mọi giá, kể cả bằng mạng sống của mình. Lúc đó, một số không nhỏ chúng tôi đã tìm thấy được một sự trợ lực thần thánh. Lúc đó, tôi nghiệm rõ một điều hết sức thông thường như một sự thật cổ lỗ mà bình thường chẳng bao giờ mình để ý đến về thơ.
Thơ là hình loại văn nghệ đầu tìên của con người, khi con người không có gì cả trong tay, và thơ chắc chắn cũng là loại văn nghệ cuối cùng của con người khi con người chẳng còn gì cả trong tay. Thơ sẽ còn hiển hiện tồn tại rạng rỡ với con người, nếu mà con người còn ngôn ngữ, còn tấm lòng, còn ký ức, còn là con người trong cái ý niệm cực kỳ cao cả đầu tiên và cuối cùng của mình.
Thơ, một cách mãnh liệt, đã trở thành sự sống không thể bị hủy diệt của cái ý niệm đó. Thơ còn con người còn. Tự bản thân, tôi vẫn quan niệm rằng văn nghệ cũng y như mọi thứ khác trên đều phải có những cấp độ cao thấp, lớn nhỏ của nó. Có những thứ văn nghệ ở cấp độ thấp nhất là văn nghệ giải oan, giải thoát. Chắc chắn không cần phải nói thêm, chúng ta đều thấy hiểu rằng trong hoàn cảnh lúc đó của chúng tôi, chúng tôi đã nhận chân ra cấp độ cao nhất của văn nghệ.
Lúc đó, thơ đã trở thành một thế giới bất khả xâm phạm, bất khả hủy diệt để con người chúng tôi được nuôi dưỡng tồn tại. Đó là một thế giới vô hình nhưng có thật, thật như một thế giới hữu hình nào. Cám ơn ngôn ngữ của loài người, cám ơn thơ của loài người.
Thế giới của chúng ta không chỉ hẳn là một thế giới có mặt của những con người thân quen, từng gặp gỡ ngoài đời, mà còn là một thế giới có mặt những con người chưa từng gặp gỡ ngoài đời nhưng rất đỗi quen thân. Chắc chắn trong thế giới của chúng ta vẫn hằng lui tới hình bóng của một Khuất Nguyên tiều tụy lang thang bên dòng sông Mịch La, một Lý Bạch tiêu sái nơi một quán rượu của Hàng Châu, một Holderlin quằn quại trong thư phòng khuya khoắt ở Horburg, một Nguyễn Du não nề trở lại Thăng Long trong một ngày đông rét mướt, một Nguyễn Gia Thiều héo hắt ngồi bất động nơi Hồ Tây, một Nguyễn Trãi đạt ngộ giữa vùng cây cỏ Côn Sơn ... Những con người đó đã một lần đi khuất dạng trong lòng ta ...
Cám ơn những con người đó đã đến trong thế giới riêng tư của chúng ta, ở lại đó, bầu bạn thắm thiết cùng chúng ta để chúng ta được đỡ xót xa thương lấy mình hơn nữa, để con người chúng ta còn được tồn vinh xứng đáng.
TÔ THÙY YÊN
(Bài nói tại Seattle Public Library ngày 26 tháng 7 năm 1997. Nhan đề và phân đoạn do Khởi Hành đặt. Khởi Hành số 22 tháng 8 năm 1998)

Gã hình dung một tiến trình ngược, những bạn thơ của gã như Nguyễn Duy, Trần Mạnh Hảo, Trần Đăng Khoa, Vương Trọng... từng khoác áo lính, bị đi đày nơi rừng hoang biền biệt 10 năm trời chỉ vì là kẻ bại trận, liệu có viết những câu thơ này như Tô Thuỳ Yên?

Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp
Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu
Mười năm, mặt sạm soi khe nước
Ta hoá thân thành vượn cổ sơ...

Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa
Ai đứng trông vời mây nước đó
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ...
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
Những chàng trai Việt dù phía bên này hay phía bên kia, bao kẻ khoác áo trận rồi thành thi sĩ và bao kẻ nghiệp thi nhân khoác chiến bào.
Đau đớn nào bằng những tâm hồn thơ chỉ yêu cái đẹp bỗng chốc hoá kẻ thù.
Ta về, ta về... không phải những Nguyễn Duy, Trần Mạnh Hảo, Hữu Thỉnh, Hoàng Nhuận Cầm, Trần Đăng Khoa bên thắng cuộc mà Tô Thuỳ Yên 10 năm bị tù đày trở về:
Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này
Ta về ta về, nếu đó không phải những Du Tử Lê, Tô Thuỳ Yên mà là chính gã? Đau quá, gã hời ơi!
Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ
Mười năm, người tỏ mặt nhau đây
Nước non ngàn dặm, bèo mây hỡi
Đành uống lưng thôi bát nước mời
Ta về, ta về, về đâu? Về đâu? Thương quá những tâm hồn thơ nước Việt!
Chiều nay, ta sẽ đi thơ thẩn
Thăm hỏi từng cây những nỗi nhà
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?
Mười năm, cây có nhớ người xa?
Ta về như đứa con phung phá
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu
Mười năm, con đã già như vậy
Huống mẹ cha, đèn sắp cạn dầu...
Ta về như tiếng kêu đồng vọng
Rau mác lên bờ đã trổ bông
Cho dẫu ngàn năm, em vẫn đứng
Chờ anh như biển vẫn chờ sông
Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em
Đau khổ riêng gì nơi gió cát...
Hè nhà, bụi chuối thức thâu đêm...
Sẽ đến lúc có một ngày thơ Việt Nam vang lên những tráng thơ này để tạ tội với bao hồn thơ đất Việt giờ này còn phiêu bạt gió hoang.
Tô Thuỳ Yên vừa qua đời nơi xứ người, gã có đôi lời thay mặt chính gã thôi: tạ tội.


Nói Chuyện Với Tách Cà Phê.
Người muôn năm cũ.
Sài gòn mùa hè năm đó nóng bức nhưng chiều chiều thường có những ngọn gió từ kênh Nhiêu Lộc tạt qua, cũng làm vơi đi không khí ngột ngạt trong cái xóm nhỏ ở khu Tân Định, nên nhiều người thích đem ghế ra đường ngồi sau bữa cơm tối.
Những ngọn gió mát mọi người đều dễ dàng cảm thấy trên da thịt nhưng cái mùi sình lầy nước đọng từ con kênh dơ bẩn lan tỏa khắp nơi thì ko ai ngửi thấy... mà chỉ có mình mình. Khổ cho cái mũi từ phương Tây mang về là thế! Có người đùa bảo đích xác là mùi "quê hương", hít thở mãi rồi cũng quen thôi! Không thấy gì nữa!
Cái xóm bình dân này nằm ngay góc đường Trần Quang Khải với Hai Bà Trưng. Sâu vào trong là Xóm Chùa hướng ra kênh Nhiêu Lộc. Ngược ra ngoài là đường lớn, đi bộ mươi phút là đến chợ Tân Định để đến nhà Đinh Cường ...Và chắc chắn ở xưởng vẽ họa sĩ ĐC sẽ dễ thở hơn nhiều!
Nên dạo đó tối tối mình hay qua nhà Đinh Cường chơi và rủ anh đi ăn cháo trắng hột vịt muối với củ cải ... cũng chỉ đi bộ lòng vòng khu chợ để có dịp la cà quán xá. Và tối hôm đó, tình cờ mình gặp một người biết tên nhưng chưa bao giờ gặp mặt, nhà thơ Tô Thùy Yên. Một cây bút chủ chốt của nhóm Sáng Tạo cùng với Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền v.v trước 75.
Xưởng vẽ Đinh Cường là nơi tụ hội nhiều văn nghệ sĩ miền Nam nhất lúc đó, đến đây có thể gặp tất cả. Ban ngày thường lui tới là Trịnh Công Sơn, Trịnh Cung, Đỗ Quang Em ... tối tối có mặt Tô Thùy Yên, Bùi Giáng. Ai cũng thân với họa sĩ Đinh Cường vốn người hiền lành chất phác.
Đinh Cường giới thiệu TTY mới ở tù ra, mới "cải tạo" về! Anh nhổm người bắt tay thân thiện không nói gì, chỉ ngồi trầm ngâm hút thuốc. Áo trắng quần đen. Dạo đó mình chỉ biết TTY là tác giả bài "Chiều trên phá Tam Giang" nổi tiếng đươc phổ nhac với giọng hát Nhật Trường, một giọng hát mình ko thích lắm. Anh ngồi đó với dáng người gầy gầy, mặt mũi hốc hác, quay lưng lại với ánh đèn Néon và tóc còn đen nhánh.
Đinh Cường bảo PN ở Paris về anh mới nhìn mình và hỏi chuyện, có vẻ quan tâm nhiều đến đời sống và xã hội tây phương. TTY thích nói chuyện xoay quanh vài nhà văn, nhà thơ Pháp khi biết mình cũng học văn khoa rồi bảo anh mới dịch xong quyển "L' Amant" của Marguerite Duras, hứa hôm nào sẽ đưa mình đọc bản thảo, xem có in được chăng? TTY là người ít nói nhưng thích đặt nhiều câu hỏi, thẳng thắn, tế nhị. Có vẻ ko muốn nhắc lại giai đoạn gian truân khổ ải anh vừa trải qua ... hay vì e ngại chưa muốn thổ lộ với người xa lạ mới gặp? Chuyện "học tập cải tạo" anh đều tránh né!
Những buổi tối ấy thường chấm dứt bên bát cháo trắng bốc hơi với hột vịt muối. Ko bia bọt và ai về nhà nấy, chay tịnh vì mọi người đều nghèo rớt mồng tơi. Dạo đó văn nghệ sĩ trí thức miền Nam chỉ ngồi vỉa hè và chạy kiếm ăn từng bữa. Đa số còn dựa vào sự tần tảo của vợ con. Các bà các chị buôn qua bán lại rất giỏi trong thời kỳ "đổi mới". Họa sĩ thỉnh thoảng bán được bức tranh đã là đại tiệc. Mình biết, có những điều ko cần nói ra, chỉ im lặng, nhưng hiểu nhau tận đáy lòng...
Lần cuối gặp TTY năm đó ở nhà ĐC, một hôm có mặt Bùi Giáng, ko nghe anh nói gì về quyển "L' Amant"đã dịch và chỉ ngồi nghe Bùi Giáng đọc thơ vô lượng viết tặng nàng Brigitte Bardot, Ôi Brigitte Bardot nàng minh tinh màn bạc Pháp với bộ ngực nẩy lửa! Bùi Giáng đọc thơ rồi chép ra giấy nhờ mình mang sang Pháp. Suốt buổi tối TTY chỉ ngồi nghe chuyện và cười buồn nhiều hơn vui. Anh thân với ĐC, thường lui tới xưởng vẽ chép thơ lên những mảnh giấy trắng treo lên tường như những câu đối, với nét chữ bay bướm thật đẹp.
Rồi gia đình họa sĩ Đinh Cường chuẩn bị đi nước ngoài, vài năm sau thi sĩ TTY cũng ra đi theo diện HO, mình định cư ở Pháp.
Bẵng đi 25 năm sau mình mới gặp lại TTY ở Sài gòn, một dịp anh trở về thăm quê hương. Cùng lúc mình cũng có mặt ở VN. Lần đó mình đã làm dấu tay bằng cà phê cho anh ... Anh đã vui vẻ, tóc muối tiêu, hoạt bát hơn, kể chuyện nhiều hơn và ghi lên giấy dấu vân tay:
Bao giờ, cho đến bao giờ nữa
Em gánh vui về họp chợ đông
Tiếc là không ghi hai câu sau:
Lòng ngát như hoa còn kịp buổi
Áo chưa ai giữ để xin buông
Thời gian đó TTY đã kịp xuất bản hai tập thơ tuyển "Ta Về" và "Thắp Tạ"ở hải ngoại mà mình có được đọc. Khác với Thanh Tâm Tuyền đã bỏ hẳn thơ, ngưng sáng tác và im lặng cho tới lúc chết!
Tối nay nghe tin TTY qua đời vì bị nhồi máu cơ tim ... một quả "tim lớn"đã ngừng đập. Mình chợt nhớ tới quyển sách anh dịch "Người Tinh" vẫn chưa cho xem ... sách có được xuất bản ko?
Và dấu tay Tô Thùy Yên còn đó, dấu tay Đinh Cường vẫn còn đây! Riêng lá thư tình của thi sĩ Bùi Giáng gởi Brigitte Bardot thì vẫn chưa đến tay nàng ... vì đã thất lạc!
Tối nay nhớ tới hai câu thơ của Thanh Tâm Tuyền, người bạn thân thiết khác của Tô Thùy Yên:
Sẽ chết như sao rơi vào bất tận
Sẽ mãi yêu như giọt nước hân hoan
Và hai câu của anh:
Thắp tạ càn khôn một vô ích
Thắp tạ nhân quần một luyến thương
Sao thấy buồn hiu hắt!
Sg 26/5/2019



‘Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này.’
Về việc phổ biến bài thơ TA VỀ của Tô Thuỳ Yên
Văn bản bài thơ TA VỀ (7/1985) nguyên được anh Phạm Kiều Tùng lúc trước sống ở Sài Gòn sưu tập, sao chép và tìm cách chuyển ra hải ngoại vào tháng 5/1989; và tháng 7 cùng năm được dịch giả Nguyễn Tiến Văn cho in lần đầu trên tạp chí SÓNG ở Toronto (Canada) nhưng phải kí dưới cái tên là ‘Đinh Thạch Trung’ để bảo vệ tác giả, cũng vì vậy ít ai chú ý tới bài thơ này cho mãi đến tháng 10/1992 khi TA VỀ được in lại trên tạp chí TRĂM CON ở Toronto (nhóm chủ trương: Trân Sa, Nguyễn Tiến Văn, Tư Đồ Tuệ, Hà Vũ Trọng) với đúng bút danh của tác giả là Tô Thuỳ Yên thì bài thơ mới được nhiều người biết; vào thời điểm này nhà thơ đã lại vào nhà tù cộng sản do bị bắt giữ trong phong trào Diễn đàn Tự do của Đoàn Viết Hoạt cho nên việc phổ biến không còn cần thiết dùng tới bút danh nguỵ trang nữa.
Tôi vừa tình cờ tìm thấy lại tạp chí ‘Trăm con’ đúng số 5 tháng 10/1992 in bài thơ ta TA VỀ, đồng thời có bài của Nguyễn Tiến Văn: ‘Thơ - tiếng nói giải oan trên đường về dân tộc’ về những ẩn nghĩa lịch sử và chính trị của bài thơ. Tôi chụp hình bài thơ đưa lên đây để tưởng nhớ thi sĩ Tô Thuỳ Yên.
'Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thuở trần gian bay lướt qua
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta'





MỘT CHÚT NHỚ VỀ...
Nói một chút về một số đại diện nổi trội trong lĩnh vực thơ ở giai đoạn văn học đô thị miền Nam phát triển sáng chói, thập niên 60-70. Có lẽ là nhân chuyến miên viễn vô tận của nhà thơ Tô Thùy Yên.
Cung Trầm Tưởng đã phả những hơi thở Tây phương và mới mẻ vào thể thơ lục bát. Đó là một cơn bão chưa từng thổi qua, một khí quyển chưa từng xuất hiện, lúc cuốn Lục bát Cung Trầm Tưởng ra mắt lần đầu trước đại chúng năm 1970. Trước đó là tập Tình ca in 1959 với hàng loạt bài thơ được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc và vang danh.
Bùi Giáng chọn bút pháp của một người-giả-điên-thơ-ngây với sức công phá chữ nghĩa mãnh liệt. Ông rất thích xoay rubik vần điệu và thanh điệu để truyền tải tư tưởng. Sự thâm hậu về nội lực đôi khi hạn chế tính tường minh trong diễn giải. Sự hớn hở, tung nẩy đôi khi lấn át tính tĩnh lặng của bề sâu. Cho nên thơ Bùi Giáng vẫn luôn là những kiệt tác tặng kèm những món ăn chơi tinh thần vui vẻ.
Nguyễn Đức Sơn lạ lẫm và khá biệt lập trong thế giới có nhiều da thịt tính của mình. Sự lạ lẫm và có phần quá bạo dạn của ông về dục giới vừa là điểm mạnh, vừa là điểm hạn chế về phạm vi sáng tác. Dù sao, ông cũng phần nào góp vào nhân gian một tiếng nói độc đáo, một thế giới của riêng, rõ ràng và riêng tư.
Du Tử Lê sử dụng nhuần nhuyễn những ẩn dụ nhiều tầng, những lối triển khai ý tưởng gần gũi với phái tượng trưng của hội họa cùng sự chuyên tâm miệt mài khai phá cái bên trong một hình ảnh con người, hẳn có nhiều thương tổn. Thơ ông là những ngọn nến cháy đến tận cùng, nhỏ xuống, ran rát làn da.
Thanh Tâm Tuyền với thơ tự do cách tân đầy mới mẻ và như đại bác nã thẳng vào sự cũ kỹ của những quan niệm đã đóng màng nhện. Ông thật sự chơi cuộc chơi đầy thú vị mà về sau hẳn phải còn rất nhiều người tò mò và trầm trồ, lẫn phản bác, kỳ thị.
Ở thể thơ 7 chữ, Tô Thùy Yên vô cùng xuất sắc. Cho dù thể thơ này bằng tính nhạc nằm bên trong số chữ gần gũi với một câu nói của nó, đã bị dùng bởi quá nhiều người, đến độ thể thơ này dễ bị cùn mòn. Nhưng qua tay Tô Thùy Yên, thơ 7 chữ luôn là bảo đao bách thắng. Đọc Tô Thùy Yên như nắm được một bàn tay nõn nà trong quá khứ. Đọc Tô Thùy Yên là phải lau một giọt nước mắt rơi từ quá khứ.
Nguyễn Đăng Khoa
5.2019


Đọc lại bài thơ "Góa Phụ", tưởng niệm Tô Thùy Yên:Trong một bài phỏng vấn trên một tờ báo văn nghệ hải ngoại, hình như Tô Thùy Yên cho rằng không có thứ thơ gọi là thơ triết lý.
Vấn đề theo tôi, chỉ là danh từ. Thơ triết lý hay đượm màu sắc triết lý thì cũng vậy. Nếu không xây dựng trên những chủ đề nhiều ít liên quan tới những ưu tư của nhân quần về ý nghĩa đời người, tình yêu, cái chết...tôi e thơ Tô Thùy yên không có địa vị gần như độc tôn cho tới ngày nay. Toàn bộ sự nghiệp thi ca của mình, không có hoặc rất hiếm bài nào ông không đề cập tới khía cạnh triết lý gần xa nào đó đụng tới phận làm người. Võ Phiến nói rằng đọc một tác giả, ta có cảm tưởng tác giả đó nhỏ hay lớn dường như ngoài chuyện chữ nghĩa, nghệ thuật diễn đạt còn liên quan tới những vấn đề tác giả bị ám ảnh tức các chủ đề, đề tài nhỏ hay lớn nữa. Tất nhiên không phải hễ muốn lớn thì chỉ cần nói tới chuyện lớn mà phải nói tới với tài năng tới đâu và bằng cách nào mới là cốt lõi. Suy nghĩ tới cõi sống cõi chết thì trong đầu ai, lúc nào mà chẳng từng nhưng viết ra thành những câu thơ đẹp tới não lòng như ông thì xưa nay mấy ai? Tôi buồn bã nhận rằng nói tới thơ là nói trong chủ quan, ai thấy có lý phần nào thì chia xẻ, ai nghĩ khác thì cũng lẽ đương nhiên.
Một nhà phê bình văn học có viết rằng Góa Phụ là bài thơ hiện thực nhất của Tô Thùy Yên. Thật lạ, tôi lại thấy bài này có những hình ảnh hiện thực nhưng lại có ý nghĩa tượng trưng, nhiều ẩn dụ nhất của ông:
Con chim nhào chết khô trên cửa,
Cửa đóng tự ngàn năm bặt âm,
Như đạo bùa thiêng yểm cổ mộ.
Sao người khai giải chưa về thăm?
Điều thú vị, nếu để tâm ghi nhận, trong 37 bài thơ ở cuốn Thơ Tuyển, đã có trên 20 bài và ít nhất gần 30 câu ông nhắc tới chim muông, dường như loài chim xuất hiện với tần số cao nhất trong thơ ông. Rõ ràng chim muông là một ẩn dụ đa tầng đa nghĩa được nhìn theo tâm cảnh của thi nhân. Ngoài một lần sống giữa mùa hạn hỏa ngục xứ Quảng Bình khiến ông liên tưởng tới thế giới lâm chung với thiên nhiên cùng kiệt, xác người vương vãi nơi bờ bụi cùng bao nhiêu hình ảnh rùng rợn khác, tỉ như “Ác điểu ngày đêm gào xáo xác” và ma hoang cũng bỏ đi nhường chỗ cho chim kên thì hình ảnh chim muông trong thơ ông:
+ Luôn gần gũi thân thiết và có khi là niềm an ùi:
Chim đã bay quanh từ vạn cổ...Giữa tầng trời cao chim giục giã... (Đãng Tử), Thấy nhành ớt động bóng chim quen... (Vườn Hạ), Nghe tiếng chim quen bay trớt qua, Bóng thoáng như bàn tay dịu mát, Lau nhanh hơi mỏi mặt mày ta ...(Và Rồi Tất Cả Sẽ Nguôi Ngoai), Ta đợi vì nghe ngoài ngõ trúc, Có com chim khách kêu chiều nay... (Mùa Hạn), Ta về như bóng chim qua trễ...(Ta Về)...
+ Cũng có lúc tiếng chim vui:
Đông đúc chim về ấm cúng đêm... (Lão Trượng), Con chim chèo bẻo hót lanh chanh... (Hề Ta Trở Lại Gian Nhà Cỏ)
+ Cánh chim là một ảnh tượng đẹp và buồn, nhất là buồn và cô lẻ:
Con chim bói cá trong tàn tối, Soi vĩnh hằng xanh rợn mặt hồ... (Nỗi Đợi)...Thăm hỏi con chim màu sặc sỡ, Lời ca u uất giấu nơi đâu? Biển Bắc tuyệt mù con nhạn lạc..., Bóng chim, tăm cá, cành trôi giạt...(Mòn Gót Chân Sương Nắng Tháng Năm), Di điểu qua sông xẻ luống sầu... Núi xa chim giục giã hoàng hôn... (Tưởng Tượng Ta Về Nơi Bản Trạch), Con chim nào hớt hãi kêu van (Bất Tận Nỗi Đời Hung Hãn Đó), Con chim động giấc gào cô đơn... (Trường Sa Hành), Con chim lạc bạn kêu trời rộng... (Vườn Hạ), Giữa khuya có tiếng chim ai oán... (Nỗi Đợi)
+ Có khi phảng phất chút thần bí, siêu hình:
Con chim thần thoại mắt khoen sâu, Giật mình như đã ngàn năm ngủ, Giũ bụi lông, cất khản tiếng gào (Em Nhỏ, Làm Chi Chim Biển Bắc) Ở đâu còn bóng chim huyền diệu, Hót gọi tiền thân ta tái sinh...(Mùa Hạn), Con chim nào vỗ cánh, Động gợn thời gian... (Ánh Tàn Dư), Khắc khoải chim kêu mùa xóa giải... Chim vút lên như hòn đá ném, Rồi thôi, cái có chỉ là qua...(Chim Kêu Bãi Quạnh).
Tôi chỉ lược trích sơ sài chứ thật ra, mỗi câu thơ trên đây là một ảnh tượng riêng biệt có thể là một chủ đề cho một bài khảo sát. Nhất định mai nầy thơ ông phải được nhìn nhận công bình hơn, công phu hơn hầu đúng với giá trị cao cả nó vốn có.
Con chim nhào chết khô trên cửa là hình ảnh chim muông buồn thảm nhất trong thơ TTY. Vì sao con chim nhào chết khô? Ta không rõ. Chỉ biết ở đây chỉ còn nỗi chết. Chết trên cửa. Cửa nào? Đó là cảnh cửa âm dương mở ra cho cái chết nhưng đã đóng chặt rồi. Thiên thu. Im bặt. Vô âm tín. Không ai có thể hiểu gì. Đó là cánh cửa bị yểm bùa, vĩnh viễn không có người khai mở. Người ta chỉ biết sống và chết và không bao giờ biết tại sao. Phải chăng đây chỉ là hình ảnh ẩn dụ cái chết phi lý của người tử sĩ, người chồng của góa phụ trong bài thơ. Một triết gia hiện sinh có nói rằng chính vì con người tuyệt nhiên không biết tại sao mình sống và tuyệt đối mù tịt sau khi chết, chính vì cánh cửa âm dương đóng sập nên tử biệt trở thành tận cùng bi đát và là sự trừng phạt quá nặng trên số phận con người một cách phi lý. Người góa phụ khiếp kinh và không dễ chấp nhận nỗi đau tang tóc là có thật. (Phía sau nỗi chết, thấp thoáng cái nền xám xịt của cuộc chiến tranh phi nghĩa). Thế nên:
Em chạy tìm anh ngoài cõi gió
Lửa oan khốc giỡn cười ghê hồn,
Tiếng kêu đá lở long thiên cổ,
Cát loạn muôn trùng xóa dấu chôn.
Thú thật tôi rợn người khi đọc khổ thơ trên. Ngoài cõi gió gợi nỗi buồn mênh mang, cô quạnh và lạnh lẽo. Thứ lửa oan nghiệt, tàn khốc nào lại mỉa mai giỡn cười trên số phận con người trầm luân, trên chết chóc bi thương? Lửa mà giỡn cười? Làm sao không ghê hồn cái thần bí ma quái ở đây? Câu thơ thứ 3 là “âm thanh cuồng nộ” vô cớ của trời đất hay tiếng kêu thương của hồn người vọng động cả càn khôn? Đá đổ, cát bay long thiên cổ, loạn muôn trùng cho ta cảm tưởng con người quá bé nhỏ trước thiên nhiên rộng lớn không cùng và dữ dội vô tận. Và số phận con người, chung cuộc cũng bị xóa dấu chôn mà thôi. Thơ TTY nhiều lần nói tới bôi xóa, tới “mặt đất bôi trôi”. Người ta bảo TTY chỉ tin ở sự hư vô, họ có lý. Tôi liên tưởng tới mấy câu thơ ông nói với người chiến binh CS cuồng điên say sưa chiến đấu, mê tưởng “sự nghiệp” mình lớn lắm, ngỡ mình làm được chuyện “Lăn địa cầu ra khỏi lối xưa”:
Ví dầu các việc ngươi làm, các việc ta làm
Có cùng gom góp lại,
Mặt đất này đổi khác được bao nhiêu?
(Chiều Trên Phá Tam Giang)
Và nhất là mấy câu này trong bài Lão Trượng:
Cát vùi cả xương trắng lưu dấu...
Mặt đất vô danh, ký ức lòa.
Hai khổ thơ tiếp sau là cảnh tượng người vợ góa một mình canh xác chồng.
Em độc thoại lời kinh ánh xanh
Trăng lu, khuya mỏi, nén nhang tàn.
Chó tru thăm thẳm ngây thiên địa.
Mái ngói nghiêng triền trái rụng lăn.
Tác giả chỉ nghe mà thấy được lời kinh ánh xanh (Cũng như Phan Khôi Thấy dưới ánh trăng muôn khúc nhạc, Nghe trong tiếng ếch một màu xanh),giác quan ông cũng chuyển đổi chức năng khiến câu thơ rõ ràng có tính tượng trưng. Ngoài ra lời kinh ánh xanh cũng gợi chút gì bí hiểm rờn rợn. Câu kế chỉ là liên tiếp ba cụm chủ-vị đơn giản nhất, có tính từ làm vị ngữ trong tiếng Việt, vậy mà tài tình thay, lại là câu thơ nhiều hình ảnh nhất gợi nơi lòng người một nỗi tàn phai thê thiết. Đọc câu này tôi không thể không so sánh với một khổ thơ trong bài Ta Về:
Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên.
Nhà cũ, mừng còn nguyên mái, vách,
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền.
Cấu trúc ngữ pháp câu cuối y hệt câu 2 khổ thơ thượng dẫn, nhịp điệu và nhạc điệu cũng tương tự. Và ngữ nghĩa nữa, toàn động từ, tính từ hàm nghĩa xiêu đổ, điêu tàn, phôi pha, mờ tối, tàn phai. Thanh điệu của 3 từ cuối trong cả 2 câu giống nhau, chùng xuống những thanh bằng diễn một niềm đau thương, cô quạnh.
Nguyễn Bắc Sơn có câu thơ hay: Khu phố quận những đời người đã mỏi, cụ thể, chính xác nhưng không mới lạ bằng khuya mỏi. TTY có biệt tài dùng những chữ vốn già nua và sáo mòn đặt vào một văn cảnh bất ngờ tạo hình ảnh mới, chẳng hạn cũng từ này: Ta đợi, nghe chừng thiên cổ mỏi... Tàu đi, lúc đó đêm vừa mỏi, Lúc đú sao trời đã ngủ mê. Kiểu dụng ngữ này nhan nhản trong thơ ông tạo thành điển hình cho phong cách, thật thú vị nếu để tâm khảo sát.
Ta thấy, trong khổ thơ, tác giả ghi nhận ba thứ âm thanh, ta có cảm tưởng các giác quan ông nhạy bén không cùng và tưởng tượng thì vô tận, ông nghe thấy những gì giác quan người thường không hề cảm nhận được tới cường độ đó: Cát loạn muôn trùng, đá lở long thiên cổ, Chó tru thăm thẳm ngây thiên địa. Tuyệt vời từ thăm thẳm và ngây. Quả thật chỉ mình ông thấy đất trời cũng ngây dại nghe tiếng chó tru buồn thảm trong đêm tang tóc đó. Trong xã hội nông nghiệp tối tăm ngày trước, tiếng cú và chó tru đêm điển hình cho điềm báo chết chóc, tai ương - quái, kinh nghiệm bản thân tôi thấy đúng, mới ghê! (Đọc câu này tôi không thể không nhớ lại một scène trong phim Doctor Zivago của David Lean, xem rồi, mấy chục năm sau còn nhớ. Giữa cuộc CM loạn ly bạo liệt, vợ chồng bác sĩ Zivago lánh nạn, trở về làng quê Variquino, đêm đầu tiên ngụ trong ngôi biệt thự hoang tàn, khuya muộn, họ thảng thốt nghe tiếng chó sói tru quanh nhà. Hé cửa nhìn ra, dưới ánh trăng bạc trên đồng tuyết lạnh lẽo, những con sói ốm đói đầy hung tợn ngửa mặt lên trời gào tru thê thiết mà cũng đầy đe dọa. Tôi tin không phải tình cờ David Lean đưa cảnh này vào phim mà không gửi theo một ẩn dụ; tiếng chó tru ghê rợn đó cùng với bản nhạc nền Lara theme u uẩn của Maurice Jarre cứ âm vang ray rứt trong lòng khán giả cho tới hết phim và, với tôi, mãi nhiều năm sau nữa; tiếc cho các thế hệ sau này không được xem phim nầy với màn ảnh rộng).
Ngọn đèn hư ảo chong linh vị
Thắp trắng thời gian mái tóc em.
Tim đập duỗi ngoài thân nỗi lạnh.
Hồn xa con đóm lạc sâu đêm.
Mấy câu trên đây, cảnh thì hiện thực nhưng được nhìn qua nhãn quan...siêu thực. Ngọn đèn thức canh quan tài có thật sao gọi là hư ảo? Mái tóc góa phụ hẳn cũng chưa bạc trắng và tim làm sao duỗi đập ngoài thân? Thời gian trong thơ TTY là một thứ ký ức lòa, bị lãng quên, bị bôi xóa. Câu trên nếu thuận nghĩa thì phải là thời gian thắp trắng mái tóc em, nhưng thế thì còn gì thơ! Tôi chưa quên mấy câu thơ khác của ông về thời gian, thứ thời gian trắng không lưu dấu, không ký ức:
Dòng ngày tháng trắng chảy lơ mơ.
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên.
Bay tự ngàn năm trắng cổ thi.
Trong lãng quên xanh hút thời gian...
Đêm tối triền miên chốn ruộng vườn, ánh lửa ma trơi và ánh sáng lập lòe của đom đóm trên đồng hoang gợi cảnh tượng lạnh lẽo của cõi âm, chính tác giả cũng tưởng tượng hồn người lạc loài theo ánh sáng xanh bí mật của con đốm. Thứ ánh sáng ma quái chỉ làm đêm tối càng thêm tối và chỉ là không gian đe dọa. Tiếng Việt chỉ có thâu đêm, không có sâu đêm. Sâu ở đây vừa có nghĩa trong không gian và cả thời gian, nghĩa thật rộng và thật mới. Đọc đoạn này, ta còn nhớ tới mấy câu rợn lạnh trong bài Lão Trượng:
Mơ màng có một hồn xiêu lạc
Ngoài tối tăm, nhờ chỉ nẻo về.
Bài thất ngôn ngắn nhất của TTY trong tập Thơ Tuyển kết thúc với khổ thứ 5:
Cỏ cây sống chết há ta thán.
Em khóc hoài chi lẽ diệt sinh?
Thảng như con ngựa già vô dụng,
Chủ bỏ ngoài trăng đứng một mình.
Làm sao ta biết cỏ cây sống chết không hay có ta thán? Chẳng là giác quan ta hạn hẹp nên chỉ nhìn ra vậy; ý thức ta chỉ biết được chết là hết, là vĩnh viễn xa lìa nên tử biệt là điều ghê khiếp quá sức chịu đựng của cõi người. Góa phụ chắc cũng biết tới lẽ diệt sinh nhưng không thể âm thầm chấp nhận được nên phải “khóc hoài”.
Hai câu kết gợi hình vô kể là ảnh tượng của buồn đau, bị bỏ rơi, bị hất hủi; ẩn dụ của phận làm người phi lý. Con người mù lòa bị ném vào đời với đam mê vô ích, loay hoay với lao khổ, cô đơn, rồi chết. Chẳng để làm gì. Ngựa ở đây gợi nhớ tới con ngựa trong bài thơ nổi tiếng của TTY thời trai trẻ “Cánh Đồng Con Ngựa Chuyến Tàu”. Chúng nhiều hay ít, nhất quán ở tính bi đát.
Như đã nói, bài thất ngôn nầy ngắn nhất trong tập Thơ Tuyển nhưng theo tôi, vì cô đọng và hàm súc nhất nên phải ngắn. Cô đọng và hàm súc về nội dung, chặt chẽ về bố cục, phong phú về hình ảnh. Ngôn từ thì tinh xác và mới mẻ, càng đọc càng thấy chưa hiểu đủ nên phải cứ đọc đi đọc lại mãi.




TRI ÂN NHÀ THƠ TÔ THÙY YÊN (1938-2019)
"Ta về như lá rơi về cội/ Bếp lửa nhân quần ấm tối nay/ Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống/ Giải oan cho cuộc biển dâu này..." - Đây là những câu thơ khiến tôi, khi bắt đầu Chương trình Nhịp Cầu Hoàng Sa, vào tháng 1-2014 đã phải nối lại liên lạc với ông.
TA VỀ được viết 1985 bởi một con người vừa mới trải qua "Mười-năm chết dấp/ Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu/ Mười năm, mặt xạm soi khe nước..."; nhưng không phải là lời than vãn của một cá nhân. Bài thơ mang khí chất của một bậc trượng phu, người vừa cùng hàng triệu đồng bào mình đi qua một "cuộc bể dâu", mặc dầu đang đau tới "mềm phế phủ", thay vì đánh thức lòng thù hận, chỉ muốn "khai giải bùa thiêng yểm", chỉ muốn "nhân quần" bên bếp lửa ấm, rưới xuống chén rượu hồng...
Khi nghe những người quen của chúng tôi ở Mỹ (Thai DinhTran Triet) giới thiệu kỹ về Chương trình, nhà thơ Tô Thùy Yên đã ngồi xuống chép tay hết 9 trang A4, bài thơ Ta Về. Trước khi ký tên, ông ghi: "(Viết) 7-1985, chép lại 2-2014 để tặng Chương trình Nhịp Cầu Hoàng Sa và thành kính tưởng niệm những anh hùng liệt sỹ đã vị Quốc vong thân trong trận hải chiến Hoàng Sa 1974".
Tôi và nhà thơ Đỗ Trung Quân đã từng đón hụt ông ở sân bay Tân Sơn Nhất. Trong thời gian làm tư liệu cho cuốn Bên Thắng Cuộc, trước 2011, tôi có được ông tiếp tại nhà riêng ở Gò Vấp (nhà thơ Ý Nhi kết nối). Ông đã hai lần nhận lời mời của NCHS về Việt Nam, nhưng cả hai lần đều phải hủy vào giờ chót vì lý do sức khỏe.
Tôi nghe tin ông mất khi đang đi xa, nay mới viết được mấy dòng này, tưởng nhớ và tri ân nhà thơ Tô Thùy Yên, người đã sáng bài thơ và ủng hộ Nhịp Cầu Hoàng Sa ngay từ những ngày Chương trình bắt đầu.





















 Nhớ Tô Thùy Yên (Trần Doãn Nho)


https://www.diendantheky.net/2019/05/tran-doan-nho-nho-to-thuy-yen.html


Tô Thùy Yên, cánh chim còn để vệt


https://www.voatiengviet.com/a/to-thuy-yen-canh-chim-con-de-vet/4928525.html



Tô Thùy Yên-Thân phận lưu vong quay cuồng nhớ Việt Nam (Nguyễn Hữu Hồng Minh)



Đọc thơ Tô Thuỳ Yên (Cao Vị Khanh)







blog counter
java hostingvpn norway

Hôn Thụy - truyện dài (duy nhất?) của Tô Thuỳ Yên trên Văn

$
0
0
Truyện dài (duy nhất?!?) cùa Tô Thuỳ Yên đăng trên Văn bắt đầu từ số 118 (1968) đến số 126 thì ngưng giữa chừng (như liệt kê dưới đây) (tức là chỉ đăng 6 kỳ)

Năm thứ năm 1968: ....
#118 - Lối về chợ Trúc (Tuyển tập)
#119 - Tưởng niệm André Maurois, nhà văn lớn nước Pháp
#120 - Đêm Bethléem (Tuyển tập Giáng sinh)



Năm thứ sáu 1969: 

#121 - Kỷ niệm Đệ Ngũ chu niên. Casey Calvert, nhà văn xứ Cuba
#122 - Mùa đông trong trí nhớ (Tuyển tập). Kawabata, nhà văn Nhật giải Nobel 1968

#123 & 124 - Giai phẩm Xuân Kỷ Dậu  (KHÔNG CÓ)
#125 - Đầu Xuân Lộc Mới (Tuyển tập) (KHÔNG CÓ)
#126 - Như nước trong nguồn (Tuyển tập). Stefan Zweig, nhà văn Đức
#127 - Đầu mùa nắng lửa (Tuyển tập). Jakov Lind, nhà văn Đức (KHÔNG CÓ)










  A








B



































Các tác phẩm khác trên Văn, trong đó có 1 vài bài thơ không được đăng (sau này tác giả cũng không còn giữ)















 

 



 

 



 

 

 










 


 A



 

 





 


Tô Thùy Yên và ‘Chiều Trên Phá Tam Giang’ (Viên Linh)
(hình tư liệu: huyvespa)


Tôi có một kỷ niệm với anh, nếu anh không kể lại thì không biết, chuyện quanh bài thơ “Chiều Trên Phá Tam Giang.” Tô Thùy Yên nói cả xấp thơ của anh bị tiêu hủy, mất hết, may nhờ đưa tôi bài “Chiều Trên Phá Tam Giang” đăng lên Thời Tập trước năm 1975 nên nó còn đó.
Khoảng một, hai năm cuối trước 1975, một hôm nhà văn Mai Thảo gọi tôi từ tạp chí Văn, là tờ báo của nhà xuất bản Nguyễn Đình Vượng mà anh đang trông coi bài vở, biên tập, là nếu muốn đăng thơ Tô Thùy Yên thì ghé qua báo Văn mà lấy.
Lúc ấy tôi có nhà in Phúc Hưng và đang xuất bản tờ báo riêng của mình là tạp chí Thời Tập. Đó là giai đoạn giám đốc thông tin báo chí (có tên gọi khác nhưng tôi không còn nhớ rõ) là Hoàng Đức Nhã, người đưa ra biện pháp báo chí phải ký quỹ nhà nước 20 triệu đồng, nếu vi phạm kiểm duyệt số tiền đó sẽ bị trừ đi.
Tô Thùy Yên đưa báo Văn bài “Chiều Trên Phá Tam Giang,” Mai Thảo gọi tôi nói: “Thời Tập của cậu có muốn đăng thì qua lấy về mà đăng, nhớ gọi cho Tô Thùy Yên một tiếng. Vượng (chủ nhiệm báo Văn) hắn không dám đăng. Đăng lên bị kiểm duyệt là nó trừ mất 20 triệu ký quỹ!”
Tôi cho sắp chữ in trên Thời Tập. Không có gì xảy ra cả.






a





blog counter
java hostingvpn norway

Chiến Ca Mùa Hè - tập nhạc của Phạm Duy trong "mùa hè đỏ lửa" 1972

$
0
0
Vậy là cuối cùng, collection tập nhạc Phạm Duy trước 1975 mình chỉ còn thiếu 2 tập là Những Điệu Hát Bình Dân & Một Mẹ Trăm Con.
Quyển Chiến Ca với những bài hát phổ thơ Phạm Lê Phan + 1 bài phổ thơ Phạm Văn Bình (cũng là tác giả bài thơ Chuyện Tình Buồn) : 12 tháng anh đi - Phạm Duy đặt nhạc và viết thành 12 Tháng Anh Đi https://youtu.be/PGsnbxN--Sc (hay cón gọi là Hành trang Thuỷ Quân Lục Chiến) + bài còn lại là Điệp khúc Trần Thế Vinh (nhạc & lời Phạm Duy)

Danh sách tập nhạc Phạm Duy trước và sau 1975
1. NHỮNG ĐIỆU HÁT BÌNH DÂN, Nhà xuất bản ĐẤT MỚI, Thanh Hoá 1950.
2. TÌNH CA (thơ Cung Trầm Tưởng, họa Ngy Cao Uyên, nhạc Phạm Duy), Tự xuất bản, Saigon1969.
3.MỘT MẸ TRĂM CON, Bộ Thông Tin xuất bản, Saigon 1962.
4.Trường Ca CON ĐƯỜNG CÁI QUAN, Tập San SÁNG DỘI MIỀN NAM xuất bản, Saigon, 1960. Nxb QUẢNG HOÁ, Saigon 1970.
5. MƯỜI BÀI TÂM CA, nxb LÁ BỐI, Saigon 1965
6.NGÀY ĐÓ CHÚNG MÌNH YÊU NHAU, nxb AN TIÊM, Saigon, 1968. Nxb GÌN VÀNG GIỮ NGỌC, Saigon 1971
7. NGHÌN TRÙNG XA CÁCH, nxb AN TIÊM, Saigon 1968.
8. HÁT VÀO ĐỜI, nxb AN TIÊM, Saigon, 1969.
9. VÒNG TAY THẾ GIỚI, nxb QUẢNG HOÁ, Saigon 1969.
10. GIẾT NGƯỜI TRONG MỘNG, nxb TRÍ DŨNG, Saigon 1970.
11. CA KHÚC CHO NGÀY MAI, nxb QUẢNG HOÁ, Saigon 1970.
12. CHO NHAU RIÊNG NHAU MỘT ĐỜI, nxb KHAI PHÓNG, Saigon 1970.
13. GIỌT LỆ CHO TÌNH TA, nxb CHÂN MÂY, Saigon 1970.
14. MƯỜI BẢY TÌNH CA BẤT TỬ, nxb THƯƠNG YÊU, Saigon 1971.
15. ÐẠO CA, nxb VĂN HỌC SỬ, Saigon 1971.
16. NHI ĐỒNG CA, CỤC TÂM LÝ CHIẾN xuất bản, Saigon 1971.
17. KỶ VẬT CHÚNG TA, nxb GÌN VÀNG GIỮ NGỌC, Saigon 1971.
18. THƯƠNG CA CHIẾN TRƯỜNG, nxb GÌN VÀNG GIỮ NGỌC – Saigon, 1971.
19. CHIẾN CA MÙA HÈ, nxb TIÊN RỒNG, Saigon 1972.
20. CON ĐƯỜNG TÌNH TA ĐI, nxb GÌN VÀNG GIỮ NGỌC, Saigon 1973.
21. TUYỂN TẬP NHẠC TIỀN CHIẾN (trong đó có nhạc Phạm Duy), nxb KẺ SĨ, Saigon 1968.
22. TUYỂN TẬP 20 NĂM NHẠC TÌNH (trong đó có nhạc Phạm Duy), nxb KHAI PHÓNG, Saigon 1970.
23. HOÀNG CẦM CA, HỘI VĂN HOÁ VN TẠI BẮC MỸ, VIRGINIA USA 1984.
24. THẤM THOÁT MƯỜI NĂM, HỘI VĂN HOÁ VN TẠI BẮC MỸ, TỦ SÁCH CÀNH NAM và TẠP CHÍ XÁC ĐỊNH xuất bản, USA 1985.
25. MƯỜI BÀI RONG CA, PDC PRODUCTIONS, Midway City, USA 1988
26. MƯỜI BÀI TÂM CA, PDC PRODUCTIONS, Midway City, USA 1990
27. BẦY CHIM BỎ XỨ, nxb CÀNH VÀNG, Westminster, CALIFORNIA USA 1990
28. MỘT ĐỜI ĐỂ YÊU (30 tình khúc), nxb NAM Á, Paris FRANCE 1989
29. VƯỜN THƠ CÁNH NHẠC (30 bài thơ phổ nhạc), nxb NAM Á, Paris FRANCE 1989
30. TÌNH SI (30 tình khúc), nxb NAM Á, Paris FRANCE 1992
31. TÌNH CA QUÊ HƯƠNG (30 bài ca quê hương), nxb NAM Á, Paris FRANCE 1992
32. LỊCH SỬ TRONG TIM (30 bài ca kháng chiến), nxb NAM Á, Paris FRANCE 1992
33. HÁT TRÊN ĐƯỜNG VỀ (Đạo Ca, Rong Ca, Thiền Ca), nxb NAM Á, Paris, FRANCE 1992
34. NIỀM VUI CÒN ĐÓ (Bé Ca, Nữ Ca,Bình Ca), nxb HỒNG LĨNH, Westninster, CA USA 1994
35. TẠ ƠN ĐỜI, nxb HỒNG LĨNH, Westninster, CA, USA 1994
*Những Tập Có Thêm Ngoại Ngữ
- Trường Ca MẸ VIỆT NAM (Việt-Anh-Pháp), Phủ Đặc Ủy Chiêu Hồi xuất bản, Saigon 1960. Nxb LÁ BỐI, Saigon 1967
- Trường Ca MẸ VIỆT NAM (Việt-Pháp), nxb NAM Á, Paris FRANCE 1985
- DÂN CA – FOLK SONGS (Việt -Anh), USIS xuất bản, Saigon 1968.
- HOAN CA (Việt – Anh), nxb DU CA, Saigon, 1973.
- HÁT TRÊN ĐƯỜNG TỊ NẠN (Việt-Anh), nxb ĐÔNG PHƯƠNG – Santa Ana, CA USA 1979.
- MƯỜI BÀI NGỤC CA (Việt-Anh) Nguyễn Hữu HiỆu xuất bản, Arlington VIRGINIA USA 1980.HAI MƯƠI BÀI NGỤC CA(Việt-Anh), Hội VĂN HOÁ Bắc Mỹ xuất bản, Arlington, VIRGINIA USA 1980.
NGỤC CA (Việt-Anh-Pháp), QUÊ ME xuất bản, Paris 1982. PDC Productions, Midway City CALIFORNIA USA 1989
- DÂN CA-FOLK SONG-CHANT POPULAIRE (Việt, Anh, Pháp), PDC Musical Productions, Midway City CALIFORNIA USA 1980.
- Trường Ca CON ĐƯỜNG CÁI QUAN (Anh-Việt) PDC Musical Productions, Midway City CALIFORNIA USA 1980






Đoạn viết sau đây là đoạn nhạc sĩ Phạm Duy có nhắc đến tập nhạc này 
"Rồi tôi phổ những bài thơ của Phạm Lê Phan, một thi sĩ làm việc tại Đài Phát Thanh Quân Đội(***), thành một Liên Khúc gồm 16 chiến ca nhan đề Chiến Ca Mùa Hè... 

Bài Mười Hai Tháng Anh Đi soạn theo thơ của Phạm Văn Bình thì nói tới hành trình trong 
12 tháng của một chiến sĩ trong Thủy Quân Lục Chiến :

Tháng giêng xuôi quân ra Huế
Cố đô hoang vu điêu tàn
Bãi học chiều, em vắng bóng
Tóc thề đã quấn khăn tang.
Tháng hai về trấn ven đô
Chong mắt hoả châu, giữ cầu.
Gió thoảng vào hơi rượu mạnh
Qua làn sương ánh đèn mầu...
Tháng ba, tháng tư thì :
Ba lô lên vai tới miền Tây Đô
Quê hương em xanh, xanh rợp bóng dừa...
. . .Tháng năm theo vì sao biếc
Hoa phượng nở quanh sân trường...
...Tháng sáu anh vẫn miệt mài
Hành quân chưa về thăm em...
...Tháng bẩy mưa ngâu, nước mùa bay mau
Ô hay ta sao trong lòng rưng sầu...
...Tất cả bầu trời thơ ấu
Ai làm tháng tám cằn khô...
... Tháng chín ta về Cửu Long
... Cuối năm mùa Đông đan áo
Cuối năm trời đã lạnh rồi.
Thiên hạ thì may áo cưới
Ta thì hẹn tới năm sau..."

Thế là tuy đôi chân của tôi đang bị trói lại trong thành thị, tâm hồn tôi lại được theo anh lính Thủy Quân Lục Chiến đi giang hồ một phen qua bài hát này.

Rồi khi cởi trói đôi chân, cùng với Duyên Anh, Nhật Trường ngồi trên xe thiết giáp M113 đi ra chiến tuyến, tôi có cảm hứng để đi vào một công trình khá lớn là Liên khúc Chiến Ca Mùa Hè 72, phổ thơ của Phạm Lê Phan với những đoản khúc như Qua Cầu Ái Tử, Bên Giòng Thạch Hãn, Lời Dặn Dò, Suối Trăng Hờn, Đêm Hội Máu, Một Tình Thiêng, Đêm Hội Pháo, Bất Khuất, Đưa Mẹ Về Trị-Thiên Yêu Dấu, Đưa Mẹ Về Sữa Trắng Rừng Xanh, Mặc Niệm, Xin Tha Thứ... Bản trường thi của Phạm Lê Phan có nhiều đoạn rất sắt máu nhưng lại có đoạn kết rất nhân bản :

Xin một lúc mặc niệm
Cho triệu người đã chết
Chết trong lòng cuộc chiến
Xin một phút bồi hồi
Cho những người tinh khôn
Cho những đứa dại khờ

Xin cúi đầu thật thấp
Xin âm thầm được khóc
Những oan hồn bè bạn
Những oan hồn kẻ thù
Cùng đi thăm mộ tối
Từng làn hương mờ khói
Xin cho phủ mầu cờ

Rồi khấn nguyện chung một lời :

Là người Việt Nam là xin tha thứ
Tha thứ cho nhau tha thứ cho đời.
Tủi hờn cùng chung, cùng chung kiêu hãnh
Chung kiếp gian nan, chung kiếp u buồn.
Cùng một mẹ cha, chung lời chung tiếng
Xâu xé tan hoang hai mươi năm ròng.
Xin thổi kèn lên, tiếng kèn u uất
Xin đốt nén nhang, đốt nến hai hàng
Việt Nam hãy khóc khóc cho thật nhiều !

Hai thi sĩ quân đội Phạm Lê Phan, Phạm Văn Bình mà tôi mang ơn vì đã cho tôi hai bài thơ hay để phổ nhạc, cả hai đều là thanh niên của thời đại, do định mệnh mà trở thành quân nhân, đi vào cuộc chiến với tâm hồn ướt át và tấm lòng đầy nhân bản như vậy... " (Phạm Duy)

*** "Anh Phạm Lê Phan làm việc tại Phòng Văn Nghệ cùng Anh Việt Thu, Nguyễn Đat.. voi trưởng phòng là thiếu tá Tô Thuỳ Yên, thuộc cục Tâm Lý chiến của đai tá Cao Tiêu, chứ không phải là Đài Phát Thanh "(bổ sung của nhà văn/ nhà thơ/ nhạc sĩ Hà Thúc Sinh)

MẶC NIỆM (thơ PHẠM LÊ PHAN - nhạc PHẠM DUY) - ANH NGỌC

 

LK EM LỄ CHÙA NÀY (thơ PHẠM THIÊN THƯ, nhạc PHẠM DUY) - CHUYỆN TÌNH BUỒN (thơ PHẠM VĂN BÌNH - nhạc PHẠM DUY) - QUỐC KHANH

HÀNH TRANG THUỶ QUÂN LỤC CHIẾN (thơ PHẠM VĂN BÌNH - nhạc PHẠM DUY)- 
KHÁNH LY

"Có thể nói Phạm Văn Bình là "nhà thơ một bài". Ai ngang qua một xóm đạo vắng, ngóng lên tháp chuông cao, nhìn tà áo cô gái đi lễ chiều nào đó, cắn vỡ tiếng chuông rền, nghe gió thổi qua tượng gầy Chúa trên thập tự mà không vang lên trong đầu "Năm năm rồi không gặp/Từ khi em lấy chồng/Chúa buồn trên thánh giá...". Chỉ mấy câu 5 chữ, qua tài hoa của Phạm Duy đã ở lại mãi, chí ít dài hơn đời tác giả.
Nhà thơ Phạm Văn Bình, sinh ở Quảng Trị, ông là một giáo viên trước khi bước vào binh nghiệp. Quảng Trị có nhiều làng đạo. Theo ông, khi còn trẻ, ông có yêu một cô xóm đạo, vì khác tôn giáo nên không đến được với nhau. Ông dõi theo bước chân cô và viết nên bài thơ "Chuyện Tình Buồn"đã được Phạm Duy phổ nhạc. Bài thơ nếu tính riêng về thơ, không phải là quá hay, quá mới. Nhưng khi hòa lẫn nhạc, câu chuyện mà bài thơ kể về, không khí hiu hắt mà bài thơ dựng nên, đã xuất hiện ở một gương mặt mới, dễ hình dung và đẹp hơn.
Ca từ có thay đổi chút lời thơ, Phạm Duy luôn quá giỏi trong việc này, nhưng ông giữ lại một đoạn đặc biệt. Nhớ ngày nhỏ, khi nghe bài này, đến đoạn "Ngày nhà em pháo nổ, anh cuộn mình trong chăn, như con sâu làm tổ, trong... cô đơn", mình không cách nào đoán ra con sâu nằm trong cái gì, trong "trải dài cô đơn", "trang trải vài cô đơn", "trong trái vài cô đơn"... Mải đến khi lớn chút, mình mới biết đó là "trái vảI", trời đất, làm sao mà đoán ra được. Nhưng thi ảnh đó cứ gieo thắc mắc cho mình, tại sao con sâu phải ở trong trái vải mà không phải trái xoài, trái mãng cầu, trái đu đủ, trái ổi... Khi ông viết bài này, chiến tranh Việt Nam đã ở pha khốc liệt, trái vải là thức sản của xứ Bắc, ắt hẳn không phổ biến ở bên này vĩ tuyến 17, không dễ dàng mà tìm thấy, tại sao ông lại liên tưởng đến trái cây này? Ông và cô gái ông yêu đã có kỷ niệm nào liên quan đến trái vải? Một câu đùa, một lần ăn, một mùi hương? Chưa có dịp nào hỏi ông, nhưng tôi hiểu, sự đặc biệt của một hình ảnh, liên tưởng, có khi cứu được cả bài thơ, có khi mở cửa cho trí tưởng tượng, cho suy tư người đọc, người nghe, đến mức tác giả cũng không ngờ.
Năm năm rồi đi biệt
Anh chẳng về lối xưa
Sân giáo đường cỏ mọc
Gác chuông nằm chơ vơ
Chúa buồn trên thánh giá
Mắt nhạt nhoà mưa qua
Trên cánh buồm ký ức
Sóng thời gian lô xô.
Ngồi bâng khuâng nhớ biển
Bên bãi đời quạnh hiu
Anh mang hồn thuỷ thủ
Cùng năm tháng phiêu du.
Anh một đời rong ruổi
Em tay bế tay bồng
Chiều hắt hiu xóm đạo
Hồi chuông giáo đường vang.
Năm năm rồi không gặp
Từ khi em lấy chồng
Bao kỷ niệm chôn kín
Dường như đã lãng quên.
Năm năm rồi trở lại
Một màu tang ngút trời
Thương người em năm cũ
Đêm goá phụ bên song
Buồn quá, nhưng đổ nát nào không buồn và ai chẳng có một nhà thờ riêng, một xóm đạo riêng, một sân giáo đường riêng, một người em năm cũ riêng. Tất cả ở đó, đợi sóng táp lên cánh buồm ký ức, ướt sũng một khi nào. Phạm Văn Bình, Phạm Duy và Chuyện Tình Buồn, vì thế sẽ còn ngân dài nữa, qua sân giáo đường, qua cỏ hoang, qua cánh buồm, qua biển đời quạnh hiu. Nhà thơ Phạm Văn Bình mất ngày hôm qua, tại Mỹ, nhưng con sâu trong cái tổ trái vải sẽ còn kể tiếp về nỗi cô đơn.
Phạm Văn Bình còn một bài thơ được Phạm Duy phổ nhạc nữa là "12 tháng anh đi", viết về vòng xoay hành quân 1 năm của người lính VNCH. Bài này ít phổ biến hơn, bạn có thể tìm trên Youtube để nghe Duy Quang hát.
Tháng Giêng xuôi quân ra xứ Huế
Cố đô hoang vu, gạch ngói điêu tàn
Bãi học sân trường chiều em vắng bóng
Tóc thề thơ ngây đã quấn vội khăn tang
Tháng Hai về trấn giữ ven đô
Chong mắt hỏa châu, ghì súng giữ cầu
Gió thoảng ngạt ngào về hơi rượu mạnh
Qua màn sương đêm, lơi lả ánh đèn màu !!!"


blog counter
java hostingvpn norway

Phạm Duy - Những tuyệt khúc ít ai hát...

$
0
0
"Không thể tưởng tượng được một Việt Nam không có Phạm Duy, và cũng chẳng thể tưởng tượng được một Phạm Duy không có Việt Nam"...Tôi chọn ra những bài ca có vẻ như ít được biết đến của tác giả "Ngàn Lời Ca" ... Những bài hát với những ca từ "không đụng hàng" và giai điệu thì...khỏi phải bàn...(và giới hạn trong những version đã từng thu vào CD)...
Dù "Mặt trời lên, rồi chết dưới chân mây / Hoa đang tươi chợt héo hắt trong ngày /Rồi Thu tới cho đời thêm goá bụa ..." (Tình thu) thì vẫn... TÔI CÒN YÊU TÔI CỨ YÊU!
Dù "Gỡ đôi tay là tình thả bay như diều không dây /Người tìm ta bao la nơi biển Bắc /Ta tìm người ở tận cuối biển Đông ..."(Những cuộc tình tan vỡ) thì vẫn ...TÔI CÒN YÊU TÔI CỨ YÊU!
Dù "đôi ta mất hết chỉ còn nhau..." (Chỉ còn nhau) thì vẫn...TÔI CÒN YÊU TÔI CỨ YÊU!
Dù " Em yêu ma quỷ dữ / Đã đến gieo sầu bi /Em là cây cỏ úa / Em đến gieo buồn thương! ..."(Yêu tinh tình nữ) thì vẫn ...TÔI CÒN YÊU TÔI CỨ YÊU!
Dù "...Ru người hấp hối bằng chiều lam tỏa khói / Ru người phơi phới bằng nắng vói lưng đồi ..." (Ru người hấp hối) thì vẫn...TÔI CÒN YÊU TÔI CỨ YÊU!

Download: https://www.mediafire.com/…/PHAM_DUY_-_TOI_CON_YEU_TOI…/file
(nhấn vào link để download file định dạng .rar và dùng phần mền WINRAR để giải nén thành file mp3)
SONGLISTS:
CD1
1. Nửa đoạn tình buồn – Duy Quang (CD Nửa đoạn tình buồn – Duy Quang)
2. Tình khúc (trên) chiến trường (tồi tệ) (thơ: Ngô Đình Vận) – Duy Trác (CD Xin hãy rời xa – V.A)
3. Ngày em 20 tuổi – Thiên Trang (CD Ngày em 20 tuổi – Thiên Trang)
4. Những cuộc tình tan vỡ - Evis Phương (CD Hãy yêu chàng – V.A)
5. Tháng 8 mưa bay (thơ Hoàng Ngọc Ẩn) – Hương Lan (CD Bài tango cho người tình lỡ - VA)
6. Nụ hôn đầu (thơ Trần Dạ Từ) – Thái Hiền (CD Câu chuyện nụ hôn – V.A)
7. Tình thu – Tuấn Ngọc (CD Môi nào hãy còn thơm – Tuấn Ngọc & Trịnh Vĩnh Trinh)
8. Hoa thông thiên (thơ Đào Tiến Luyện) – Duy Quang (CD Tình yêu là chiếc bóng – V.A)
9. Viễn du – Vũ Khanh (CD Gọi tên em – Vũ Khanh)
10. Hãy trả về em (thơ Hoàng Ngọc Ẩn) – Ý Lan (CD Bến Lỡ - Ý Lan & Tuấn Ngọc)
11. Tâm sự gửi về đâu (thơ Lê Minh Ngọc) – Tuấn Ngọc (CD Tâm sự gửi về đâu – Tuấn Ngọc)
12. Nghìn thu (thơ Ngô Văn Quy) – Ý Lan (CD Khi tôi về - Ý Lan)
13. Mộ khúc (thơ Xuân Diệu) – 3 con mèo (CD Hạnh Ngộ - 3 con mèo)
14. Tôi còn yêu tôi cứ yêu – Khánh Ly (CD Bản tango cuối cùng – Khánh Ly)
CD2
01. Tôi ước mơ (thơ Thích Nhất Hạnh) – Quỳnh Giao (CD Hành trình Phạm Duy – Quỳnh Giao)
02. Dạ lai hương – Lệ Thu (CD Khúc tango sầu – Lệ Thu)
03. Mộng du – Tuấn Ngọc (CD Tháng 7 chưa mưa – V.A)
04. Buồn xưa (thơ Hoàng Ngọc Ẩn) – Xuân Sơn (CD Bài tango cho người tình lỡ - V.A)
05. Ru người hấp hối – Ý Lan (CD Hẹn hò – Ý Lan)
06. Gọi hồn (thơ Viên Linh) – Thiên Cơ (CD Tâm sử ca Viên Linh – V.A)
07. Người về - Quỳnh Giao (CD Chiều về trên sông– Quỳnh Giao)
08. Có bao giờ em hỏi (thơ Duyên Anh) – Trần Thái Hoà (CD Cô láng giềng – Trần Thái Hoà)
09. Trong mộ chiều xuân (thơ Hoàng Ngọc Ẩn) – Ý Lan (CD Bến Lỡ - Ý Lan & Tuấn Ngọc)
10. Lời ru bú mớm nâng niu (thơ Phạm Thiên Thư) – Quỳnh Giao (CD Hành trình Phạm Duy – Quỳnh Giao)
11. Xin em giữ hộ anh – Thái Hiền (CD Con đường tình ta đi – Thái Hiền & Duy Quang)
12. Tiếng bước trên đường khuya – Khánh Ly (CD Bên ni bên nớ - Khánh Ly)
13. Kiếp sau (thơ Cung Trầm Tưởng) – Thái Hiền (CD Ngậm ngùi – V.A)
14. Tôi còn yêu tôi cứ yêu – Tuấn Ngọc (CD Đêm cuối cùng – Tuấn Ngọc)
CD3
01. Yêu em lầm lỡ (thơ: Đào Văn Trương) - Lưu Bích (CD Mối tình đầu – Lưu Bích & Tô Chấn Phong)
02. Chiều đông (thơ Cung Trầm Tưởng) – Ý Lan (CD Hẹn hò – Ý Lan)
03. Huyền thoại trên một vùng biển (thơ: Phạm Thiên Thư) – Thái Hiền (CD Huyền thoại – Thái Hiền)
04. Chỉ còn nhau (ý thơ Vũ Hoàng Chương) – Thái Hiền & Duy Quang (CD Chàng là ai – Thái Hiền & Duy Quang)
05. Hạ hồng – Thái Hiền (CD Oh! Mê Ly – V.A)
06. Anh Nam kỳ dễ thương (Anh vái trời) (thơ Nguyễn Tất Nhiên) – Duy Quang (CD Hãy yêu chàng – V.A)
07. Buồn xưa (thơ Hoàng Ngọc Ẩn) – Ý Lan (CD Bến lỡ - Ý Lan & Tuấn Ngọc)
08. Đốt lá trên sân – Duy Quang (CD Em yêu dấu – Duy Quang)
09. Ngày tháng hạ - Khánh Hà (CD Tình ca Phạm Duy – Khánh Hà & Tuấn Ngọc)
10. Chiếc bóng trên đường – Thanh Lan (CD Trên da tình yêu – V.A)
11. Em, anh đã tới Paris (thơ Duyên Anh) – Tuấn Anh (CD 20 Năm mien viễn xót xa – Tuấn Anh)
12. Tôi còn yêu tôi cứ yêu – Khánh Ly (CD Mưa hồng – Khánh Ly)
13. Bonus – Chiều đông (thơ Cung Trầm Tưởng) – Quỳnh Giao, Kim Tước, Mai Hương (CD Tìm nhau bốn mùa)
CD4
01. Thu chiến trường – Kim Tước (CD Tìm nhau bốn mùa – V.A)
02. Như là lòng tôi – Duy Quang (CD Em yêu dấu – Duy Quang)
03. Hoa tiên – Quỳnh Giao (CD Hoa Xuân – Quỳnh Giao)
04. Chào bạn âu sầu – Duy Quang (CD Em yêu dấu – Duy Quang)
05. Ở bên nhà – Carol Kim (CD Sài Gòn niềm nhớ không tên – V.A)
06. Mơ về đất mẹ (thơ Hoàng Ngọc Ẩn) – Tuấn Ngọc (CD Bến lỡ - Tuấn Ngọc & Ý Lan)
07. Ở rừng U Minh ta không thấy em (thơ Nguyễn Tiến Cung) – Duy Quang (CD Hãy Yêu Chàng – V.A)
08. Lời ru bú mớm nâng niu (thơ Phạm Thiên Thư) – Thái Hiền (CD Mẹ - V.A)
09. 12 tháng anh đi (Hành trình Thuỷ quân lục chiến) (thơ Phạm Văn Bình) – Duy Quang (CD Tạ Tình – V.A)
10. Mùa xuân yêu em (thơ Đỗ Quý Toàn) – Ý Lan (CD Khi tôi về - Ý Lan)
11. Mẹ năm 2000 – Khánh Ly (CD Mẹ - V.A)
12. Nắng chiều rực rỡ - Tuấn Ngọc (CD Đêm cuối cùng – Tuấn Ngọc)
13. Tôi còn yêu tôi cứ yêu – Hải Lý (CD Dạ vũ Phượng Hoàng – V.A)


Collection (phần 2) về những bài hát "ít quen thuộc" của nhạc sĩ Phạm Duy theo các tiêu chí: ít ai hát, ít ai biết, ca khúc chỉ được vài ca sĩ hiếm hoi thu âm...Không vì thế mà đó là những ca khúc "thứ phẩm", mà ngược lại, bài nào của Phạm Duy cũng đều có phẩm chất của một thứ vàng ròng quý báu, không nhạc điệu xuất thần thì cũng lời nhạc bất ngờ khó đoán...!!! https://www.mediafire.com/…/PHAM+DUY+-+TOI+CON+YEU+TOI+CU+Y… (nhấn vào link để download file định dạng .rar và dùng phần mền WINRAR để giải nén thành file mp3)
Có thêm 1 CD riêng tổng hợp các bài hát "lạ" từ những CD trong nước do Phương Nam Film phát hànhhttp://www.mediafire.com/file/w8mdb75onapy17p/CD9_-_PHAM_DUY_trong_nuoc.rar/file , trong đó có Mưa Rơi (Hồng Hạnh hát) là ca khúc duy nhất được thu âm vào CD tính đến thời điểm hiện tại, có những ca khúc xuất sắc mà từ khi nghe được version này thì mình "không thể" nghe những version nào khác như Tỳ Bà (thơ Bích Khê) - Tấn Minh.

Collection 2:
CD 5
1. Rừng Lạng Sơn – Elvis Phương (CD Chúng ta đi mang theo quê hương – V.A)
2. Bà mẹ Phù Sa – Sơn Ca (CD Tình khúc mẹ - V.A)
3. Tiếng hò miền Nam – Băng Châu (CD Về mái nhà xưa – V.A)
4. Nhớ con sông Đà – Thanh Lan (CD Trái tim ngục tù – Thanh Lan)
5. Nước chảy bon bon – Hương Lan & Chí Tâm (CD Hát cho một thời để yêu – Hương Lan)
6. Tiếng hát sông Lô – Thái Hiền & Duy Quang (CD Về mái nhà xưa – V.A)
7. Cô hái mơ (thơ Nguyễn Bính) – Duy Quang (CD Mối tình Trương Chi – Duy Quang)
8. Huyền sử ca người mang tên Quốc – Ngọc Minh (CD Một chút quà cho quê hương – V.A)
9. Chinh phụ ca – Hà Thanh (CD Chinh phụ ca – Hà Thanh)
10. Chiến sĩ vô danh – Khánh Ly (CD Trở về bến mơ – V.A)
11. Những bàn chân – Duy Khánh (CD Đi tìm bóng mát quê hương – Duy Khánh)
12. Một bàn tay – Duy Khánh (CD Đêm buồn chia xa – Duy Khánh)
CD6
1. Xuân hiền – Kiều Nga (CD Tuổi đam mê – V.A)
2. Tuổi mộng mơ – Như Mai (CD Còn tuổi nào cho em – V.A)
3. Người tình trong cánh tay – Thanh Lan (CD Trái tim ngục tù – Thanh Lan)
4. Tình sầu (thơ Du Tử Lê) – Quỳnh Giao (CD Thơ tình phổ nhạc – Quỳnh Giao)
5. Như xa miền yên vui (thơ Du Tử Lê) – Đinh Ngọc (CD K khúc của Lê 3 – V.A)
6. Vết sâu (thơ Nguyên Sa) – Ý Lan (CD Mong manh – Ý Lan)
7. Thương ai nhớ ai – Thái Thảo (CD Rời nhau – Thái Thảo)
8. Lá diêu bông (thơ Hoàng Cầm) – Ý Lan (CD Khi tôi về - Ý Lan)
9. Kiếp sau, xin giữ lại đời cho nhau (thơ Du Tử Lê) – Anh Ngọc (CD K khúc của Lê 2 – V.A)
10. Trên đồi xuân – Thái Hiền (CD Mùa xuân hoa đào – V.A)
11. Thú đau thương (thơ Lưu Trọng Lư) – Mai Hương (CD Đi chơi chùa Hương – Mai Hương)
12. Người đẹp trong tranh – Ái Vân & Thế Sơn (CD Tơ Duyên – Ái Vân)
13. Quán bên đường (thơ Trang Thế Hy) – Duy Quang (CD Hai phương trời xa – Duy Quang)
CD7
1. Quán Thế Âm (thơ Phạm Thiên Thư) – Khánh Ly (CD Ca dao mẹ - Khánh Ly)
2. Chắp tay hoa (thơ Phạm Thiên Thư) – Duy Quang (CD Phật ca – V.A)
3. Pháp thân (thơ Phạm Thiên Thư) – Thái Hiền (CD Màu thời gian – Thái Hiền)
4. Ru con – Khánh Ly (CD Ca dao mẹ - Khánh Ly)
5. Đường chiều lá rụng – Quỳnh Giao (CD Tiếng chuông chiều thu – Quỳnh Giao)
6. Màu thời gian (thơ Đoàn Phú Tứ) – Thái Hiền (CD Màu thời gian – Thái Hiền)
7. Bên ni bên nớ (thơ Cung Trầm Tưởng) – Khánh Ly (CD Bên ni bên nớ - Khánh Ly)
8. Bên bờ sông Seine ta ngồi ta khóc – Mai Hương (Yêu em 4 mùa – V.A)
9. Mây trôi trôi hết một đời (thơ Nguyễn Xuân Quang) – Thái Hiền (CD Giọt nước mắt cho Việt Nam – V.A)
10. Hẹn em năm 2000 – Thái Thanh (CD Đêm nhớ trăng Sài Gòn – Thái Thanh)
CD8
1. Con dế hát rong – Mộng Thuỷ (CD Trăm năm bến cũ – Mộng Thuỷ)
2. Em có về (thơ Thảo Chi) – Mộng Thuỷ (CD Trăm năm bến cũ – Mộng Thuỷ)
3. Trăm năm bến cũ (Hương ca 1) (thơ Lưu Trọng Văn) – Duy Quang (CD Hương Ca – V.A)
4. Vô thường (Hương ca 2) – Duy Quang (CD Hương Ca – V.A)
5. Tắm sông trăng (Hương ca 3) – Duy Quang (CD Hương Ca – V.A)
6. Ngày xưa một chuyện tình sầu (Hương ca 4) (thơ Huyền Kiêu) – Duy Quang (CD Hương Ca – V.A)
7. Ngựa biển (Hương ca 5) (thơ Hoàng Hưng) – Duy Quang (CD Hương Ca – V.A)
8. Hương rừng (Hương ca 6) (thơ Sơn Nam) – Anh Dũng (CD Hương Ca – V.A)
9. Mơ dạo xuân Hà Nội (Hương ca 7) (thơ Thảo Chi) – Mộng Thuỷ (CD Hương Ca – V.A)
10. Chiếc kẹp tóc thơm tho (Hương ca 9) – Mộng Thuỷ (CD Trăm năm bến cũ – Mộng Thuỷ)
CD9 (trong nước)
1. Mưa rơi – Hồng Hạnh
2. Dạ lai hương – Tấn Minh
3. Tình ca mùa thu – Mỹ Lệ
4. Đố ai – Ánh Tuyết
5. Tỳ bà (thơ Bích Khê) – Tấn Minh
6. Ngày em 20 tuổi – Quang Linh
7. Tiếng thu (thơ Lưu Trọng Lư) – Thanh Long Bass
8. Gánh lúa – Hương Lan & Quang Linh
9. Bài ca trăng – Thanh Thuý
10. Đi đâu cho thiếp theo cùng – Thanh Thuý
11. Tây tiến (thơ Quang Dũng) – Anh Bằng & tốp ca nam
12. Hương rừng (thơ Sơn Nam) – AC&M
13. Nương chiều – Đức Tuấn
14. Vô thường – Ngọc Tuyền
15. Chiếc kẹp tóc thơm tho – Đức Tuấn



Con dế hát rong (Phạm Duy, sáng tác:1983) - Mộng Thuỷ https://www.nhaccuatui.com/…/con-de-hat-rong-pham-duy-2003-…
Nghe lại vài CD để kiếm xem có bài nào lạ lạ của Phạm Duy bỏ vào collection, thấy của Phạm Duy bỏ vào collection, thấy lại CD của giọng ca Mộng Thuỷ, những năm 2000 có nghe loáng thoáng Hương Ca (PD) nhưng chưa cảm, đến nay, nghe lại và rất ấn tượng giọng ca xuất thân từ ca đoàn / ban hợp xướng Ngàn Khơi (Nam Cali), giọng ca rất kỹ thuật nhưng không quá khó để cảm, có chút gì đó “thính phòng” kiểu Quỳnh Giao nhưng khoan thai và nhẹ nhàng (& cũng “kỹ thuật”) rất Thái Hiền, đặc biệt qua bài Con dế hát rong (Phạm Duy sáng tác 1983 tại Midway City - thị trấn Giữa Đàng, Cali, Mỹ)
Bài này hình như chỉ có 1 bản thu duy nhất của Mộng Thuỷ, cấu trúc bài hát đơn giản, nhưng giai điệu rất lôi cuốn & khó đoán; ca từ thì ôi thôi, quá xuất sắc, như khi xưa ông đã đưa hình ảnh không thể ngờ vào bài hát là hình ảnh “gái điếm”, trong Bình Ca 2 (Sống sót trở về):” Sống sót trở về, quên mầu hồng gái điếm /Trút phấn son rồi, xin mặc lại áo huyền “, ở bài Con dế hát rong, Phạm Duy đưa hình ảnh “kẻ tù nhân” vào trong một bối cảnh rất xúc động khi “Con dế hát trên từng mây trắng ngắt / Cho kẻ tù nhân nghe nhạc phù vân qua lỗ chấn song “…
Không Phạm Duy thì chắc không có nhạc sĩ nào sẽ biến hoá với ca từ và đưa vào những tác phẩm của mình những hình ảnh ấn tượng như vậy!
Mộng Thuỷ diễn tả bài này bằng một lối hát nỉ non và trầm bổng theo như giai điệu & ý đồ của Phạm Duy đưa con dế, gã du ca/ rong ca... khi thì “vượt tầng mây”, khi thì “vòng quanh bốn bể”, khi thì “vượt nghìn trùng xa”…đem lời ca tiếng hát xoá hết u mê, “cho nhau chẳng tiếc gì nhau”, chỉ cần “cho rồi xin lại tự do…”
Và giọng ca này chinh phục mình hoàn toàn với bài hát Tỳ Bà Hành https://www.nhaccuatui.com/…/ty-ba-hanh-mong-thuy.TrRggwj4D… (1 ca khúc ít phổ biến, nhạc sĩ đã tự đệm đàn và mời ca sĩ Mộng Thuỷ thu âm và gửi cho 1 số bạn bè thân hữu, bài hát này lời dựa trên lời thơ Bạch Cư Dị qua bản dịch của Phan Huy Thực & Phạm Duy còn lấy chút cảm hứng từ Truyện Kiều – Nguyễn Du)…Không có thể có một nhạc sĩ nào "chơi" với con chữ và ca từ hay hơn thế, thơ & nhạc đúng nghĩa hoà quyện và nhạc như đã tan vào thơ thành một khúc "Cao sơn lưu thuỷ"... Mộng Thuỷ với tiếng đàn của Phạm Duy lôi cuốn, hoà quyện “Tiếng khoan như gió thoảng ngoài/ Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa…”, có những quãng cao trào, có những chỗ dừng bặt lại rất thú vị…quả thật “Nỉ non thanh thót dễ say lòng người…”!
PHẠM DUY - TẬP NHẠC "THẤM THOẮT MƯỜI NĂM" (tài liệu hình ảnh của hoctroviet)









Những bài nhạc sáng tác từ 1975-1985 theo Phạm Duy xếp vào chủ đề Tị Nạn Ca - "những ca khúc trên đường tạm dung", nổi bật lên còn có giá trị đến ngày hôm nay là những bài như : Ở BÊN NHÀ EM KHÔNG CÒN ĐỨNG ĐỢI CHỜ ANH / XIN ANH GIỮ HỘ EM/ 54-75/ BÊN BỜ SÔNG SEINE TA NGỒI TA KHÓC/ MÂY TRÔI TRÔI HẾT MỘT ĐỜI/ NHƯ LÀ LÒNG TÔI/ CON DẾ HÁT RONG...mà mình có đưa 1 số vào selection 8CD "Phạm Duy - Những Tuyệt Khúc Ít Ai Hát".
Một vài lời giới thiệu của chính tác giả cho các ca khúc này:
- Tôi soạn thêm những bài hát chia ly như Ở BÊN NHÀ EM KHÔNG CÒN ÐỨNG ÐỢI CHỜ ANH, LẤP BIỂN VÁ TRỜI... Những bài này muốn nói lên nỗi buồn trùng dương (océanique) và vũ trụ (cosmique) như trong hầu hết những bài tôi soạn trong thời kỳ này. Khi còn ở trong nước, tình cảm với thiên nhiên (sentiment de la nature) ở trong chúng ta thường hay chỉ hạn chế trong sự trao tình với lũy tre xanh, con đê dài, khung trời tím, con sông đào... Bây giờ, sau khi đã ra khỏi lũy tre xanh, tôi nghĩ rằng nó phải mang nhiều tính chất cao rộng hơn, sâu xa hơn.
- Trong chủ đề PHỤ NỮ, với bài XIN EM GiỮ DÙM ANH sau đây, tôi cũng hình dung ra người con gái Việt Nam giống như hình ảnh của nước Việt. Nàng có đôi mắt sáng như nắng quê Cha, có đôi môi thơm mùi cốm vàng nơi quê Mẹ, có đôi tay như sóng Biển Ðông hay như gió Rừng Tây, có đôi chân vượt Trường Sơn, có tóc xanh như sông Hậu bồng bềnh và trên đường tị nạn hiện nay, tôi chắp tay thành khẩn xin Nàng hãy giữ dùm tôi hình ảnh tuyệt vời của người con gái đồng trinh đó. Ðây là một hát về sự sống !
- Trong công việc moi ra những bài hát cũ để sào nấu lại, tôi nhớ ra rằng 20 năm trước đây, tôi có soạn bài BÉ BẮT DẾ và vào lúc đó, con dế của tôi mới lên 10 tuổi. Bây giờ có thể con dế cũng đi tị nạn như chúng ta. Nó đã trưởng thành và nó vẫn chọn cái nghề hát rong. Tôi bèn soạn bài hát CON DẾ HÁT RONG nói lên tâm sự của con dế tị nạn:
- Tâm tình ca của tôi lúc này còn muốn nói lên sự chế ngự của thiên nhiên vào tâm hồn một con người tị nạn là tôi. Khi còn ở trong nước tình cảm thiên nhiên của nghệ sĩ thường tràn lan ra với lũy tre còm, làn khói rơm. Cảnh vật này quá quen thuộc, hiền lành, ngọt ngào, thân ái bởi vì mình sinh ra và lớn lên trong đó.
Bây giờ, chúng ta lìa bỏ một quê hương xinh xắn để ra đi, có khi phải vượt qua dăm ba đại dương, dăm ba lục địa rồi mới tới được nơi tạm cư (chưa phải là định cư vĩnh viễn), thiên nhiên bây giờ chế ngự ta, đè bẹp ta, và trong ta chỉ còn những nỗi buồn đại dương không đáy, những nỗi sầu đỉnh núi chơ vơ, những nỗi lạnh thị thành xi-măng Âu Mỹ. Bài hát NHƯ LÀ LÒNG TÔI nói lên điều đó.


CẦN TÌM CÁC SÁCH & TẬP NHẠC CỦA PHẠM DUY XUẤT BẢN Ở USA SAU 1975
23. HOÀNG CẦM CA, HỘI VĂN HOÁ VN TẠI BẮC MỸ, VIRGINIA USA 1984.
24. THẤM THOÁT MƯỜI NĂM, HỘI VĂN HOÁ VN TẠI BẮC MỸ, TỦ SÁCH CÀNH NAM và TẠP CHÍ XÁC ĐỊNH xuất bản, USA 1985.
25. MƯỜI BÀI RONG CA, PDC PRODUCTIONS, Midway City, USA 1988
26. MƯỜI BÀI TÂM CA, PDC PRODUCTIONS, Midway City, USA 1990
27. BẦY CHIM BỎ XỨ, nxb CÀNH VÀNG, Westminster, CALIFORNIA USA 1990
28. MỘT ĐỜI ĐỂ YÊU (30 tình khúc), nxb NAM Á, Paris FRANCE 1989
29. VƯỜN THƠ CÁNH NHẠC (30 bài thơ phổ nhạc), nxb NAM Á, Paris FRANCE 1989
30. TÌNH SI (30 tình khúc), nxb NAM Á, Paris FRANCE 1992
31. TÌNH CA QUÊ HƯƠNG (30 bài ca quê hương), nxb NAM Á, Paris FRANCE 1992
32. LỊCH SỬ TRONG TIM (30 bài ca kháng chiến), nxb NAM Á, Paris FRANCE 1992
33. HÁT TRÊN ĐƯỜNG VỀ (Đạo Ca, Rong Ca, Thiền Ca), nxb NAM Á, Paris, FRANCE 1992
34. NIỀM VUI CÒN ĐÓ (Bé Ca, Nữ Ca,Bình Ca), nxb HỒNG LĨNH, Westninster, CA USA 1994
35. TẠ ƠN ĐỜI, nxb HỒNG LĨNH, Westninster, CA, USA 1994
36. CÁC TẬP HỒI KÝ 
huyvespa@gmail.com


NHỮNG SÁCH MUA VÀ ĐƯỢC TẶNG 
NHỮNG THÁNG QUA

Vừa nhận được quà tặng 2 tập thơ mới nhất của nhà văn/ nhà thơ/ nhà tranh đấu nhân quyền Thi Vũ – Võ Văn Ái (Nhà xuất bản Quê Mẹ, Paris, 2018 ) được ấn loát và trình bày thật trang nhã, sang trọng…Và những dòng thơ tinh tuyền của một thứ tiếng Việt đẹp đẽ và thơ mộng…Những dòng thơ như những “câu kinh trinh bạch” mà đã từ lâu dường vắng bặt trên thi đàn Việt Nam, trong hơi thở của Việt Nam… Những dòng những chữ của một hồn thơ trí thức gọi dậy những cảm xúc bồi bồi như vừa đánh mất/ tìm lại được thứ gì vừa xưa cũ, vừa thanh tân…Thơ Thi Vũ chắp thêm đôi cánh mộng cho độc giả bay lên những chân trời mơ mòng. Lấp lánh hồn & tình của tiếng Việt như một chiếc gối êm du vào viễn phương kỷ niệm, “những âm thanh đổ rót vào nhau, vừa bí hiểm vừa hiền lành, vừa uỷ mị vừa mạnh bạo, chới với trên nấc thang lơ lững của những buổi sớm thật sớm, những buổi tinh thơ, những buổi sớm thi sĩ…” mang độc giả vào một vùng THƠ MỌNG...mọng tròn của yên bình, mọng chín của trái mộng, mọng ngọt của ngôn ngữ yêu thương.
Sẽ còn trở lại với 2 tập thơ này sau khi đọc kỹ hơn, trước mắt, xin post lại 1 bài review quá tuyệt vời của Vũ Hoàng Thư:








1/60 limited edition Tập thơ Viên Linh do Con Đuông ấn hành


“Nhận tin em một năm rồi

Thành xưa đã đổi con người đã thay
Cơn mơ chia biệt tháng ngày
Vẫn rơi tầm tã lòng này đêm đêm.

Mưa lầy con phố bôi tên
Em chôn tầm vóc thanh niên giữa đời
Nhớ em biển sách làm khơi
Thả thân trôi giạt với lời muôn phương.

Nhớ em đêm tựa lầu chuông
Rung con tim nhỏ
nghìn đường âm thanh

Em yêu lá ở trên cành
Yêu chim trong gió
yêu thành vắng quân.

Em yêu miếu mộ linh thần
Yêu đầu không mũ yêu chân lột giầy
Yêu người không biết đi dây
Yêu nhà văn hóa đi Tây lại về.

Em yêu lòng trúc ý tre
Yêu kinh vô tự như bè yêu sông
Em yêu Camus lạnh lùng
Đạt Ma qua biển Ngộ Không giữa trời.

Yêu anh phóng đãng lầm nơi
Văn chương sai lúc thân dơi lộn chiều
Em yêu cuộc sống em yêu
Lầu chuông gác sách
mộng điều tuổi xanh.

Hôm nay túi vải bên mình
Em tôi bán dạo trong thành phố quen
Ầm vang trong trí cơn điên
Ném thân anh giạt tới miền hư sinh.

Hơn ba mươi, mộng tan tành
Tay xương quét lệ hoen quanh mắt mờ
Thấy em lầm lũi hơn xưa
Loanh quanh ngõ dưới dật dờ lối trên

Em tôi không sách không đèn
Một đầu tư tưởng bôi lem nghĩa đời
Đêm nay tầm tã mưa rơi
Tĩnh ra tôi thấy mặt trời trắng tinh.

Thấy trăng mọc lúc bình minh
Thấy người lưu xứ lênh đênh Quê Nhà
Thấy tôi đập kính soi hoa
Trên cây nhân thế la đà trái đen.

Thấy tôi nguyền rủa thánh hiền
Cầm dao giết Phật giả điên đốt chùa
Nhớ mưa xưa nhớ mưa xưa
Tháng Tư úng thủy đầu mùa máu tuôn.

Mưa đưa tôi lại Sài gòn
Trán căng nhiệt đới
hồn còn Đông Dương
Gặp em trở lại Lầu Chuông
Dang tay nện xuống Hư Không
một chày.

Chuông không tiếng đã bao ngày
Nghe quen, em tưởng chiều đầy
âm thanh.”
LẦU CHUÔNG - VIÊN LINH 
Washington D.C., 1979
Khởi Hành số 30, Tháng 4.1999

LẦU CHUÔNG của tác giả VIÊN LINH làm ở Mỹ năm 1979 tặng em trai là tu sĩ / dịch giả Nguyễn Hữu Hiệu còn ở Việt Nam.
Bài thơ rất hay với nhiều ẩn mật, nhiều người tỏ ra rất thích thú và ngạc nhiên với 1 bài thơ hay và ít phổ biến này của 1 tác giả khá nổi tiếng.
Bây giờ, mọi người có thể sẽ thấm cái hay đó hơn khi nghe bài thơ này được phổ nhạc (nhạc sĩ Song Ngọc) trong CD Tâm Sử Ca (thơ Viên Linh phổ nhạc): https://chiasenhac.vn/…/Tam-Su-Ca-Vien-Linh~Y3NuX2FsYnVtfjk…. Trong CD này mình thích bài này nhất, tiếp đến là Gọi Hồn (nhạc Phạm Duy), xếp chót danh sách là bài do Trịnh Công Sơn phổ 

Ta về 

đốt áo vô vi

thở hơi vô uý

bên hè phố Không 

ngủ quên trong đoá ngộ Hồng 
trên môi thường trụ một vừng Như Lai
(Diệu Giác - Nguyễn Thanh Tịnh - 1973)
Một giọng thơ ít được biết đến trong dòng văn chương miền Nam, quê Đà Nẵng. Có chút gì đó Huy-Tưởng (?!?).
Cũng như những tranh thơ Một Mù Tóc Mộ của Huy Tưởng, Những tác giả với dòng “thơ-điên” này (?!?) khi viết xuống những đề từ hay phi lộ cho những trang thơ là lúc quằn mình “khạc ra những vũng máu xanh trong cơn ho bi thiết”... dâng tặng cho trước hết một người thân yêu nhất đời: một người “em rất lạ rất xa rất ma cà rồng”, và mong gì? Mong chờ một lần em “châm lửa đốt tập thơ này cạnh xác anh cho ấm lại hồn phong-vũ, cho mọc lên từ âm-u Phần mộ anh một bóng cây vĩnh cữu để những người yêu nhau còn chỗ hẹn-hò.”
Giữa những lúc gào thét trong thinh lặng đó, giữa những cơn đau của “ngàn mảnh a tu la trăng vỡ ghim vào tim da quằn quại”, giữa những khoảng Không “đối thoại với những bóng hư-linh, khóc cười với tiếng thạch sùng định mệnh.”, giữa những lúc “giật mình ngồi trước án thư/ chuông khuya để lạnh nừa tờ kinh sương”.... là Thơ!







“…Mày nghĩ, tụi mình như cánh gió

Ai đi nhốt gió được bao giờ?...”

THƯ PLEIME

(trong tập thơ Theo Cánh Gió Bay) 

(Anh Tuyến)
Tao được thơ mày cả tháng nay

Hành quân liên tiếp suốt đêm ngày

Lưng không rời giáp, tay rời súng

Liên lạc thì không có máy bay

Tao vẫn luôn luôn nhớ tụi mày

Nhớ Sài Gòn đẹp nắng vàng hây

Nhớ đường Lê Lợi ngập hoa nắng

Nhớ ngõ Tam Ða tà áo bay

Pleime suốt tháng mưa dầm dề

Mày ơi, thèm quá khói cà phê

Thèm tô phở tái thơm chanh ớt

Thèm rót bọt đầy một cốc bia

Xi Nê mày vẫn xem phim chưởng?

Băng nhựa còn thu nhạc Khánh Ly?

Những chiều thứ bảy còn đi nhót?

Hay lén ông già nhậu whisky?

Năm nay mày có lên đại học?

Hay thôi, xếp sách nhập quân trường?

Mày tính vào Dù hay Lục Chiến?

Tao chờ mày nhé, ải biên cương

Hôm qua thằng Tiến dẫn quân ngang

Giữa rừng gặp bạn mừng hơn vàng

Ôm nhau, hai đứa cười ha hả

Râu tóc bù xù như cái bang

Mày nghĩ, đã lâu không được tắm

Hành quân liên tiếp giữa rừng già

Ăn thì gạo sấy nhai qua bữa

Tối ngủ nằm sương lạnh cắt da

Hôm qua địch pháo giữa ban ngày

Tao bị thương xoàng ở bả vai

Mảnh đạn còn ghim trong thớ thịt

(Mày đừng có nói mẹ tao hay)

Mẹ tao không biết giờ ra sao?

Còn khóc đêm trường để nhớ tao?

Còn giận tao là thằng bất hiếu

Xem tình cha mẹ như chiêm bao

Mẹ tao chỉ muốn tao quanh quẩn

Lính kiểng châu thành, lính phất phơ

Mày nghĩ, tụi mình như cánh gió

Ai đi nhốt gió được bao giờ?

Những đêm biên cảnh sống xa nhà

Cũng thấy đôi lần nhớ xót xa

Cũng có đôi lần tao muốn khóc

Muốn về thăm mẹ… thế nhưng mà…

Thôi nhé, thư sau tao viết tiếp

Trực thăng đã đáp trong vòng đai

Tản thương lính đã đưa lên đủ

Tao viết thơ này vội gởi ngay

./.
Bài cảm nghĩ của Khôi An phát biểu trong buổi ra mắt tập thơ Theo Cánh Gió Bay:
“Thưa quý vị, từ đầu buổi ra mắt sách đến bây giờ, chúng ta đã được nghe những người thân trong gia đình của tác giả và những bậc niên trưởng trong quân đội chia sẻ nhiều kỷ niệm và cảm xúc về tác giả Anh Tuyến cũng như về con trai ông, Cố Trung Úy Lê Anh Thái. Bây giờ Khôi An (KhA) xin phép có đôi lời về cảm xúc của một người đọc đối với tập thơ Theo Cánh Gió Bay (TCGB).
Trong chúng ta ở đây, có những người đã đọc cả tập thơ của tác giả Anh Tuyến, có người chỉ mới đọc một, hai bài thơ hay vài câu thơ, nhưng KhA tin rằng khoảnh khắc gặp gỡ đó đã làm rung lên sự đồng cảm sâu xa, hay nói khác đi, người đọc gặp chính tình cảm của mình trong lời thơ. Có thể đó là tình quê hương pha chút ngông nghênh của tuổi trẻ thời chiến, có thể là nỗi cay đắng trước cuộc chiến quá dài và tang thương, có thể đó là tình thương bao la của phụ huynh giành cho con cháu, và rất có thể đó là nỗi đau mà hầu hết chúng ta, những người làm cha mẹ, ai cũng thấu hiểu và sợ hãi – đó là nỗi đau tre khóc măng.
Năm 1972 là năm chiến tranh khốc liệt nhất trong cuộc chiến VN, và trận Cổ Thành Quảng Trị – kéo dài gần 3 tháng, là trận máu lửa kinh hoàng nhất của năm 72 khốc liệt đó. Con ruột của tác giả, Cố Trung Úy Lê Anh Thái và con nuôi là Cố Trung Úy La Vĩnh Khâm đã tử trận trên đường vào Quảng Trị cách nhau chỉ 1 tuần, khi họ mới 25 tuổi.
Tập thơ TCGB chính là tiếng khóc con của tác giả.
Áo quan liệm kín đời trai trẻ!

Tay súng buông xuôi trả nợ đời!

Máu đỏ còn tươi lòng Quảng Trị.

Nghĩa trang, mồ lạnh, cỏ lên rồi.

Có thể nói rằng hơn 30 bài thơ của TCGB có hai chủ đề, thứ nhất là tác giả viết dùm cho tâm sự của con trai, và thứ hai là những tiếng lòng của tác giả.
Sau khi Cố Trung Úy Lê Anh Thái ra đi, những di vật của anh đã được trao lại cho cha là tác giả Anh Tuyến. Những di vật đó đã đem lại cho ông những cảm xúc sâu đậm, ông nói “khi lần giở từng trang nhật ký, đọc lại từng cánh thư Nó đã viết vội vàng từ những vùng hành quân hẻo lánh tôi mới lần lần hiểu được những khía cạnh tế nhị và thầm kín của tâm hồn Nó.”
Ông ví các con ông như một quả bóng đã bay ra khỏi tay, và bằng tâm trạng của một người vội vã ghi nhớ hình ảnh vừa vuột mất đó, tác giả đã đọc đi đọc lại những tâm sự của con cho đến khi nó trở thành ký ức của ông. Ký ức đó được ghi lại qua những bài thơ. Chẳng hạn khi nói về sự tự hào của Cố Trung Úy LAT với bình chủng Nhảy Dù, ông viết:
Sương nắng không phai màu mũ đỏ!

Hoa dù lộng gió giữa trời xanh..

Và nỗi lòng của người lính chiến đứng canh gác ở một nơi hẻo lánh, rất xa nhà:

Chót vót chòi canh đỉnh Dakto,

Mưa dầm nặng hột thấm poncho
Đồi xa sương trắng bay như khói
Đại bác biên phòng, tiếng nhặt thưa…
Qua cuốn nhật ký của con trai, ông cũng đã đọc được những thương yêu nồng nàn nhưng bàng bạc xót xa của Cố Trung Úy LAT dành cho người vợ trẻ, chẳng hạn như trong bài Đêm Yêu:

Đôi ta yêu nhau đêm nay thôi,

Tinh sương ngày mai anh đi rồi.

Đường ra biên ải xa xôi lắm!

Ta có thương nhau, chớ ngậm ngùi…

Nằm đây nghe em, trong vòng tay,
Em lạnh không em? Đắp chăn này.
Trời Hạ Lào trăng đêm lạnh buốt
Không ấm nào bằng ấm đêm nay…
Trong chủ đề viết cho tâm sự của con, bài thơ mà KhA thích nhất là bài Đêm Noel. Khác với âm hưởng trang trọng và hơi cổ điển của những dòng thơ 7 chữ, bài này làm theo thể thơ 5 chữ, nhẹ nhàng như những lời nói.

Đêm nay đêm Noel

Phố xá đều giăng đèn…

Người đi đầy các ngõ

Người đi vui suốt đêm…

Đêm nay đêm Thánh thiện
Mừng Chúa đã ra đời
Nhà nhà đều vui vẻ
Người người đều tươi cười…
Sao con còn đứng đây
Trong hố cá nhân này?
Đầu con đội nón sắt, 
Bá súng con cầm tay,
Chung quanh con là núi,
Chung quanh con là cây,
Chung quanh là vắt muỗi,
Chung quanh con tối dày!
Đêm nay đêm Thánh Thiện,
Tại sao con đứng đây?

Bằng những lời đơn giản tác giả đã vẽ lên bức tranh Hy Sinh tuyệt đẹp của người lính trẻ, cô đơn đứng gác cho đêm vui của mọi người được trọn vẹn. Hai câu cuối “Đêm nay đêm Thánh Thiện, Tại sao con đứng đây? “ đã nói lên sự chua chát của những người lính chiến một cách nhẹ nhàng nhưng lưu lại biết bao cảm xúc và suy nghĩ cho người đọc.
Chủ đề thứ hai của TCGB là những cảm xúc xé lòng của người cha mất con. Mở đầu tập thơ, tác giả đã viết: 

“Khi viết lại những trang sử năm 1972, người ta sẽ nói đến công hay tội (của các tướng lãnh). Có ai nhắc đến một LÊ ANH THÁI, đã ngã gục dưới cờ, ngay bên chân Cổ Thành Quảng Trị? “

Điều tác giả không ngờ là con trai ông đã sống mãi qua những giòng thơ của ông. 47 năm sau, qua tập thơ, những người đọc như Khôi An đã biết về chàng trai trẻ LAT có hàng ria mép đẹp, rất hồn nhiên, khá bướng bỉnh, thích uống rựợu, hay cười hô hố, có một tình yêu rất đẹp với một nữ sinh mười tám tuổi, và cũng rất là can trường, và rất mê đời lính.

Chàng trai LAT tình nguyện vào Nhảy Dù, một trong những đơn vị tác chiến oai hùng mà cũng nguy hiểm nhất. Anh đã từng vượt qua gian khổ, từng lập chiến công, nhưng đối với cha mẹ, anh vẫn là “thằng con nhỏ”. Nhà thơ Anh Tuyến viết:
Từ độ Nó lên đường,

Gót giày đinh ngập bụi,

Lăn-lóc đủ mười phương…

Giọt mồ hôi đã đổ

Ướt đẫm đất quê hương…
Mấy lần rơi máu đỏ
Nhuộm thắm cát sa-trường!
Ôi! giọt máu mến thương.
Giọt máu thằng con nhỏ!
Tóc xanh còn vấn vương…
Mắt xanh còn bịn-rịn…
Máu đỏ tuổi yêu –đương!
Máu tươi tình cốt nhục!
Máu tươi tình quê hương!
Khi Cố Trung Úy LAT ngã xuống trên đường tiến vào Cổ Thành một chiều Hè 1972, để lại vợ mới cưới chỉ 19 tuổi và đứa con mới chào đời được hai tháng, tác giả đã thương tiếc bằng những câu xé lòng như:

Những ki đất đổ dồn vào đáy huyệt,

Xây trường thành ngăn cách giữa cha con.

Tiếng cuốc xẻng đập đều trên mặt mộ,

Cha nghe như tiếng búa bổ tan hồn!

Như KhA đã nói lúc đầu, điều quý giá nhất của tập thơ TCGB là nó chạm vào cảm xúc của người đọc. Người đọc đau xót cho nỗi đau thương của ông và cả của con dâu ông, một trong những “góa phụ ngây thơ” của cuộc chiến.
Long lanh giọt lệ mắt người yêu,

Xuân chửa tròn xuân, nắng đã chiều,

Chăn gối nửa chừng, chăn gối lẻ,

Cho vòng hoa trắng lạnh lùng treo.

Và cảm động nhất là lời tác giả viết cho cháu gái bé bỏng:
Tuổi chưa đầy hai tháng

Thấy Mẹ chưa biết đòi…

Chưa làm gì nên tội

Trời đã bắt mồ côi!

Cha nó là lính chiến
Đi trận đã chết rồi!
Mẹ nó còn thơ dại
Mới mười chín tuổi đời…
Lấy gì nuôi con côi?

Thưa quý vị, KhA nghĩ tất cả chúng ta ở đây đều mang ơn những người lính đã ngã xuống. Hơn nữa, cha mẹ, vợ con họ đã gánh những đau khổ nhất của cuộc chiến thay cho chúng ta. 

KhA xin mời quý vị mua TCGB như một chia sẻ không chỉ với những người đã khuất mà còn với những TPB sẽ được giúp đỡ bằng tiền bán sách.

Cuối cùng, KhA xin được kết thúc bằng lời của chính tác giả:

Máu con tôi đổ tặng Đời

Tôi đem góp lại viết lời thương ca…

Thơ tôi viết bằng máu

Thơ tôi viết bằng xương…

Tôi viết bằng tình thương…
Tôi viết bằng nước mắt…






blog counter
java hostingvpn norway

Phạm Duy - Thấm thoắt mười năm (1975-1985)

$
0
0
Những bài nhạc sáng tác từ 1975-1985 theo Phạm Duy xếp vào chủ đề Tị Nạn Ca - "những ca khúc trên đường tạm dung", nổi bật lên còn có giá trị đến ngày hôm nay là những bài như : Ở BÊN NHÀ EM KHÔNG CÒN ĐỨNG ĐỢI CHỜ ANH / XIN EM GIỮ DÙM ANH / 54-75/ BÊN BỜ SÔNG SEINE TA NGỒI TA KHÓC/ MÂY TRÔI TRÔI HẾT MỘT ĐỜI/ NHƯ LÀ LÒNG TÔI/ CON DẾ HÁT RONG...mà mình có đưa 1 số vào selection 8CD "Phạm Duy - Những Tuyệt Khúc Ít Ai Hát".(tổng hợp lại ở entry này : http://huyvespa.blogspot.com/…/pham-duy-nhung-tuyet-khuc-it…
Một vài lời giới thiệu của chính tác giả cho các ca khúc này:
- Tôi soạn thêm những bài hát chia ly như Ở BÊN NHÀ EM KHÔNG CÒN ÐỨNG ÐỢI CHỜ ANH, LẤP BIỂN VÁ TRỜI... Những bài này muốn nói lên nỗi buồn trùng dương (océanique) và vũ trụ (cosmique) như trong hầu hết những bài tôi soạn trong thời kỳ này. Khi còn ở trong nước, tình cảm với thiên nhiên (sentiment de la nature) ở trong chúng ta thường hay chỉ hạn chế trong sự trao tình với lũy tre xanh, con đê dài, khung trời tím, con sông đào... Bây giờ, sau khi đã ra khỏi lũy tre xanh, tôi nghĩ rằng nó phải mang nhiều tính chất cao rộng hơn, sâu xa hơn.
- Trong chủ đề PHỤ NỮ, với bài XIN EM GiỮ DÙM ANH sau đây, tôi cũng hình dung ra người con gái Việt Nam giống như hình ảnh của nước Việt. Nàng có đôi mắt sáng như nắng quê Cha, có đôi môi thơm mùi cốm vàng nơi quê Mẹ, có đôi tay như sóng Biển Ðông hay như gió Rừng Tây, có đôi chân vượt Trường Sơn, có tóc xanh như sông Hậu bồng bềnh và trên đường tị nạn hiện nay, tôi chắp tay thành khẩn xin Nàng hãy giữ dùm tôi hình ảnh tuyệt vời của người con gái đồng trinh đó. Ðây là một hát về sự sống !
- Trong công việc moi ra những bài hát cũ để sào nấu lại, tôi nhớ ra rằng 20 năm trước đây, tôi có soạn bài BÉ BẮT DẾ và vào lúc đó, con dế của tôi mới lên 10 tuổi. Bây giờ có thể con dế cũng đi tị nạn như chúng ta. Nó đã trưởng thành và nó vẫn chọn cái nghề hát rong. Tôi bèn soạn bài hát CON DẾ HÁT RONG nói lên tâm sự của con dế tị nạn:
- Tâm tình ca của tôi lúc này còn muốn nói lên sự chế ngự của thiên nhiên vào tâm hồn một con người tị nạn là tôi. Khi còn ở trong nước tình cảm thiên nhiên của nghệ sĩ thường tràn lan ra với lũy tre còm, làn khói rơm. Cảnh vật này quá quen thuộc, hiền lành, ngọt ngào, thân ái bởi vì mình sinh ra và lớn lên trong đó.
Bây giờ, chúng ta lìa bỏ một quê hương xinh xắn để ra đi, có khi phải vượt qua dăm ba đại dương, dăm ba lục địa rồi mới tới được nơi tạm cư (chưa phải là định cư vĩnh viễn), thiên nhiên bây giờ chế ngự ta, đè bẹp ta, và trong ta chỉ còn những nỗi buồn đại dương không đáy, những nỗi sầu đỉnh núi chơ vơ, những nỗi lạnh thị thành xi-măng Âu Mỹ. Bài hát NHƯ LÀ LÒNG TÔI nói lên điều đó.
(hình ảnh tập nhạc Thấm Thoát Mười Năm của hoctroviet & Jimmy Nhựt Hà, mình cũng đang tìm quyển này!)




















Thuỵ Vũ viết về 4 nhà văn nữ cùng thời + tạp chí Văn (Mai Thảo) viết về Nhã Ca

$
0
0
THUỴ VŨ 

Mói đọc lại một bài viết thú vị của Nguyễn Thị Thuỵ Vũ viết về 4 nhà văn nữ khác, cùng thời, cùng vang danh, là "võ lâm ngũ nương" của làng văn chương miền Nam trước 1975 (đăng trong Thời Tập 1974): Nhã Ca/ Nguyễn Thị Hoàng/ Tuý Hồng/ Trùng Dương 
....

TÔ THUỲ YÊN trên tạp chí và tuyển tập từ NXB NHÂN CHỨNG 

“Lưu vật còn đây/ Cửa đã khép ngăn em về...”(Phạm Duy & Ngọc Chánh) 

Những tên tuổi trang bìa hầu như đã thành ngàn hướng sao, họ đã từng là “nhân chứng” một thời huy hoàng của một nền văn chương khai phóng, đa dạng...& cũng như sao, những ánh sáng từ quá khứ ấy sẽ còn phóng chiếu ngược về soi rọi chúng ta hằng cửu...

NHÃ CA 
Một vài sách sau 1975 của Nhã Ca và tạp chí VĂN (thời MAI THẢO), số 4/1989 với những bài viết kỷ niệm chào đón vợ chồng TỪ - NHÃ đến THUỴ ĐIỂN





















































https://photos.google.com/share/AF1QipMCGHGbkHvfXvccFBjoAOVRsZkfHrLK4t9lSKHadl_EhUR1HGrggl9d1dPF4Y0ZbQ?key=WlpWWDFlTTFfdXB5bjExVUpLOHZBTk5Hb2ozWVl3













blog counter
java hostingvpn norway
Viewing all 110 articles
Browse latest View live